← Quay lại trang sách

CHANG LANG SỬ LỊCH

Vườn cũ Tô Lư nằm dưới chân núi Ngũ Sơn, có nghìn cây trao cao nghìn trượng, tàng lá che mưa nắng, tựa mái nhà. Đằng trước có suối Phù Đan uốn lượn. Sau lưng là vách đá cheo leo. Dường ai đem đặt giữa chốn ngàn thu hoang dã một cảnh đời u tịch mà khốc liệt. Do vậy ông Đa Trà mới đặt tên thế võ chín mươi chín của mình là Tô Lư u khốc. Khưu Luân mất ba tháng mới nhuần thế ấy. Điên Giác phải mất nửa năm. Vưu Xuyên thì chỉ mới võ vẽ.

Đi Xuyên Lâm về, Đa gọi Luân bảo:

-Kể từ nay, ta giao con việc luyện võ cho Xuyên..

Luân mừng thầm, vì thế là thầy đã chấp nhận chuyện riêng tây của hai đứa. Bấy giờ là cuối hạ. Lá ngưu lá vị còn xanh. Luân đưa Xuyên đi vườn cũ Tô Lư. Qua suối Phù Đan, dẫm phải đá dăm, chân Xuyên rướm máu. Luân toan đi hái thuốc. Nhưng con gái quan vũ hầu bảo:

-Anh đã cho em nếm thử vị thuốc đầu đời, nay còn tìm thuốc chi.

Tô Lư u khốc là thế chủ đạo trong võ nghiệp của Đa. Ông thầy núi Mi Sơn truyền thế ấy cho Đa. Đi chu du thiên hạvề, Đa tu chỉnh lại. Chỗ khác thường của Tô Lư u khốc là công nhưng chẳng phải công, thủ mà không thủ. Bằng tay chân, đánh ngã trăm người. Bằng côn kiếm, đánh ngã nghìn người.

Mất nửa ngày, tay kiếm của Xuyên vẫn rối rắm.

Luân bảo:

-Hay chỉ mỗi em tập luyện cho tự nhiên hơn.

Rồi xuống suối Phù Đan nằm nhìn lũ chim tước tập chuyền cho con. Trong giấc ngủ bất chợt, Luân thấy Xuyên luyện xong Tô lư u khốc, xin thầy về kinh thăm cha. Đang đông mưa bão. Ai nấy đều ngăn, nhưng Xuyên bảo đi được. Xuyên ném gươm xuống sông trước, rồi nhảy theo sau. Nước vẫn chảy xiết. Bỗng một con rắn to nổi lên mặt nước, nuốt lấy gươm, rồi toan nuốt cả Xuyên.

-Đừng sợ.

Luân thét. Rồi nhoài ra giữa dòng, ôm chặt lấy người Xuyên. Lúc mở mắt, Luân thấy mình đang ôm Xuyên thật. Thì ra, con gái quan vũ hầu đã bỏ tập, xuống suối ngồi cạnh Luân từ lúc nào chẳng biết.

Cơm trưa gói bằng lá trao. Lại lột vỏ trao làm chén, bẻ cành trao làm đũa. Hai người lặng lẽ ngồi ăn trưa nơi lòng suối Phù Đan. Luân nào dám nói cho Xuyên biết mình vừa nằm mơ. Lại cầm kiếm lên, múa thử cho Xuyên xem. Sát tướng đoạt thành là thế võ thứ mười lăm. Rắn nuốt gươm người, điềm lành hay dữ? Luân bàng hoàng chuyển sang thế trảm xà. Rồi hô:

-Hãy cầm kiếm lên, Xuyên.

Chang Lang Sư Lịch có đoạn:

“ Khưu Luân tính tình nóng nảy. Đã nghĩ là làm. Chỉ mươi hôm đọc qua hết sách của thầy.

Chẳng thấy Luân ngó ngàng tới sách nữa, ông Đa Trà hỏi:

-Con đọc hết sách của ta chưa?

Luân đáp:

-Thưa rồi.

Trong Dụng Binh Thư có chỗ nói về phép điều binh. Đa bắt Luân kể về phép ấy.

Luân kể ra hết, rồi thưa:

-Thầy mất bấy nhiêu năm chu du thiên hạ, tận mắt nhìn bao cuộc can qua, hiểu thấu lẽ thành bại của chiến chinh, mới viết nổi phép điều binh ấy. Song, có chỗ con chưa ưng ý. Dùng binh ít mà thắng giặc là hay. Nhưng một trăm lẻ chín phép lập trận đều dùng binh ít là chưa hay.

Đa có vẻ giận

-Vậy theo con thì phải thế nào?

Luân đáp:

-Dụng ý của thầy là làm sao bớt hao tổn người, nên luôn dùng binh ít. Song, binh ít, tất lâu phân thắng bại. Đánh nhau càng lâu, người chết càng nhiều. Chi bằng, bắt chước sự biến hóa của đất trời, thêm vào phép điều binh đông, áp đảo giặc, sớm dứt việc can qua, có phải đỡ hao tốn sinh linh hơn không.

Luân to, khoẻ. Đêm ngủ rất ít. Thường, lúc mọi người yên giấc, Luân thức dậy ra ngoài. Vườn nhà ông Đa Trà có cây thốc dốc. Vân Muôi là nước Đa đến sau cùng. Khi rời nước này, trở về Xuyên Khê, Đa chỉ xin mấy hột thốc dốc để làm giống. Trái thốc dốc rất ngọt. Hoa thốc dốc chỉ thơm về đêm. Luân cho là mùi hoa quí làm cho con người khôn thêm. Hít thở mùi hoa thốc dốc xong, Luân ngồi nhớ lại những điều trong sách thầy. Đêm nào cũng làm vậy. Chỗ quên cứ bớt dần.

Điên Giác có lần thưa với thầy:

-Anh Khưu Luân chắc có điều chi u uất, nên lúc ngủ thường nắm chặt hai bàn tay.

Đa nói:

-Mai kia sẽ rõ.

Luân ăn rất khỏe. Gấp đôi ba lần một trai làng cùng trang lứa. Một hôm, Luân ăn chưa no, ngồi mãi nơi mâm. Thấy vậy, Xuyên hỏi:

-Có nhớ chuyện vua Xua Lôi, thầy kể không?

-Nhớ. Mà sao?

Xuyên lại hỏi:

-Có phải hôm đó thầy thử giao anh Luân làm vua không?

-Phải. Rồi sao?

-Nếu anh Khưu Luân làm vua, chắc trăm họ phải cạp đất mà ăn.

Luân bồng bột, xốc nổi. Giác thì điềm tĩnh, chịu thương chịu khó, đọc Dụng Binh Thư vàThịnh Quốc Thư đến trăm bận. Luân thích cả côn kiếm. Giác chỉ dùng tay chân trong luyện võ.

-Tay là kiếm, chân là côn. Hai món binh khí ấy chẳng bao giờ rời ta. Giác thường nói thế

Thủ trấn Nam Biên là Tương Húc đưa lính trấn về Xuyên Khê. Có ông lão bảy mươi tuổi không chịu đưa lúa thần về nộp ở kinh. Húc liền lệnh đóng gông ông ta. Luân nghe chuyện đến can:

-Phải trọng người già như trọng cha mẹ. Nay quan trấn làm thế là làm gông cha mẹ mình đó.

Húc hỏi:

-Mày con ai, dám ăn nói xấc láo?

Luân đáp:

-Con quan văn hầu Khưu Chiêu nói chuyện với thủ trấn Nam Biên, được không?

-Hóa ra là con trai lão chăn trâu ở Xuyên Khê.

Húc nhổ nước bọt, nói, rồi bỏ đi.

Luân giận, toan theo rửa nhục cho cha.

Nhưng Giác ngăn.

-Anh Khưu Luân nóng nảy, gặp nữa thành chuyện to. Để Giác này đi. Có đánh nhau, cũng để Giác này đánh với nó.

Ông Đa Trà khen Giác là kẻ trọng nghĩa.Và chẳng cho đi.

Đến triều họ Hiêu, Chang Lang mới có lệ mở khoa thi để tuyển chức quan. Khoa thi đầu mở vào năm Hiêu Lịch thứ hai, để tuyển hai chức văn hầu và vũ hầu. Khoa này chỉ tuyển được một người vào chức vũ hầu là Khưu Chiêu. Vua Hiêu Du lại sắp mở khoa thi để tuyển các chức văn khanh, vũ khanh, và văn vũ khanh. Bấy giờ Luân tròn mười tám.

Ông Đa Trà bảo:

-Khoa này Luân đi. Điên Giác với Vưu Xuyên chờ khoa sau.

Nghe thầy bảo, Luân mừng mà lo. May ra thì được công thành danh toại. Song, đi rồi ai giúp Xuyên học hành.

Ở bến sông Thạch Thuỷ có hòn đá ma. Đá to bằng ngôi nhà, nửa vắt lên bờ, nửa choãi ra sông. Từ ngày ông Đa Trà trở về Xuyên Khê hái thuốc chữa bệnh giúp dân, con ma đá không còn khuấy phá. Nhưng trước đó thì chẳng bút mực nào tả xiết. Có một năm vào mùa mưa bão, lính trấn về Xuyên Khê bắt dân đi khai đá quí Nga Sơn.Lúc ấy Đa đang ở nước Xua Lôi. Cha Đa đã ngoài bảy mươi, nhưng phải đi sưu dịch thay cho Đa. Con ma đá hóa làm hương trưởng Xuyên Khê đến bảo cha Đa phải cúng ba ngàn quan tiền, nó mới che chở cho khỏi đi Nga Sơn. Ngày hôm sau, cha Đa đi khắp làng, kể lại sự tình, vay được ba ngàn quan đem đặt chỗ hòn đa ma. Lo trả nợ không nổi, ông lão ngã bệnh, chỉ mấy hôm thì cũng theo bà lão về nơi chín suối. Sau đó thì đến lượt em gái của Đa. Cô tên Nhuẫn, nhan sắc nổi tiếng ở Nam Biên, ba mươi tuổi vẫn ở vậy, để thay Đa làm lụng nuôi cha mẹ. Có một đêm, người làng Xuyên Khê chạy trối chết, vì qua bến Thạch Thuỷ thấy con ma đá hóa làm ông quan mặc triều phục đen, thúc ngựa từ bến sông lên. Sáng hôm sau, người làng qua sông, thấy cô Nhuẫn nằm chết trần truồng trên hòn đa ma.

Từ hôm mới đến học, Luân đã biết chuyện thương tâm của nhà thầy. Song, đấy là chuyện của ma, biết làm sao. Nhân lúc sắp từ giã thầy, đi thi, Luân muốn thử cho hết sức mình. Nửa đêm hôm ấy, Luân lén mọi ngươi, xách gươm xuống bến sông Thạch Thuỷ. Đêm đầu tháng, trăng non chênh chếch. Hòn đá ma nằm lồ lộ nơi bến nước.

-Ta nay sắp về kinh ứng thí. Nếu thành danh là nhờ công dạy dỗ của thầy. Xin thần linh chứng dám cho Luân này đền công ơn ấy.

Dứt lời, Luân rút gươm, chém sả vào hòn đá ma.

Đêm ấy, nước sông bỗng dâng đầy. Sáng ra, dân làng mới hay trận lũ khi đêm đã cuốn mất hòn đá ma chỗ bến nước”

Chang Lang Sử Lịch là sách sọan vào triều đại sau triều họ Hiêu. Vì cuối sách có lời chú như vầy:

“ Tiên đế vừa lên ngôi liền lệnh cho ta làm công việc chép sử. Hết Vân Muôi, rồi Tây Miêu, Xua Lôi, Di Vang. Hễ nước nào có liên quan đến Chang Lang thì ta đến. Còn trong nước, không nơi nào là không có mặt ta. Từ động Tà Bư với nhiều sự tích đến Hoắc Sơn, Nga Sơn, Mi Sơn còn lưu dấu tích bao cuộc chiến chinh. Ba mươi năm liền chỉ làm mỗi công việc tra hỏi, sưu tập, sưu tầm. Việc làm tuy khó nhọc, nhưng rất thú. Từ thuở lập nước Chang Lang cho đến khi triều họ Hiêu đổ, có biết bao vinh nhục, buồn vui. Buồn, đến nước mắt không chảy nổi. Mà vui đến lặng thinh để nghe cõi lòng như sóng dậy. Do đó, nên mới có sách này. Đại triều Cung Tôn năm thứ ba mươi tám. Sử quan Chư Đăng nay ghi lời chú”

Cung Tôn là triều đại nào mà quan viết sử chỉ chép từ thuở lập nước đến triều họ Hiêu? Chẳng ai biết. Vì đây là cuốn sử duy nhất của nước Chang Lang còn lưu lại.