← Quay lại trang sách

VIỆN BINH

Vua hỏi quan cơ chính:

-Nay loạn Nga Sơn đã yên.Theo khanh, có nên cất chức thủ trấn Tây Biên không?

Thâm đáp

-Muốn bề tôi hết lòng vì nước, vua phải thưởng phạt công minh. Theo ý thần, đây là lúc hoàng thượng nên phân định công tội những người có trách vụ đối với loạn Nga Sơn.

Vua nghe phải, liền hội triều thần, ban truyền chỉ chiếu.

-Bình định Nga Sơn là công lớn của quan văn vũ khanh và các binh triều. Nay thửơng cho mỗi binh triều năm mươi cân vàng. Riêng Khưu Luân thăng văn vũ công khanh. Thủ trấn Tây Biên để dân làm loạn, bị cất chức đuổi về dân dã.

Đam Chuyết lạy vua

-Thần rủi ro lâm trọng bệnh, không gánh vác được việc nước, mong hoàng thượng gia ân thứ tội

Vua chỉ cười, bảo Chuyết đứng lên

Nhưng quan tể hầu vẫn quì

-Muôn tâu hoàng thượng, thủ trấn Tây Biên là người trong hoàng tộc, cả đời lo phụng sự vua, nay chỉ vì việc rợ Nga Sơn là việc nhỏ mà bị cất chức, thần e sẽ làm náo động bá quan.

Vua chưa kịp nói gì đã thấy Luân đứng lên

-Việc bình định Nga Sơn là trách vụ của thần. Làm tròn việc ấy đâu phải là công lớn đối với muôn dân. Nay bỗng đặt ra phẩm tước mới ban tặng thần, e sẽ bị bá quan cho là hoàng thượng thiên vị.

Chuyết lại lật đật lạy vua

-Có công thì thưởng, có tội thì phạt. Thần xin cúi đầu bái tạ sự công minh của hoàng thượng. Chỉ có điều thần chưa rõ, tước văn vũ công khanh liệt vào đâu trong hàng quan triều.

Vua cười, bảo

-Ta biết khanh đương lo. Mai kia quan tể hầu lập được công to, ta cũng sẽ ban cho tước tể công hầu.

Lệnh vua chưa kịp truyền đi, thủ trấn Tây Biên đã về đến triều. Là người trong hoàng tộc, nên Hiêu Căn được đến gặp riêng vua.

-Ngươi vác xác về đấy ư?

Du giận dữ hỏi

Căn vội vã quì

-Thần đáng tội chết. Nhưng trước khi chết, quyết không để cho đứa khi quân nhởn nhơ trước mặt vua.

-Ngươi nói ai khi quân?

Vua nạt.

Căn nâng thanh bảo kiếm lên ngang mày

-Trước khi thọ tội, xin hoàng thượng cho kẻ tội đồ này được giết Khưu Luân, kẻ dám xóa cờ hiệu vua ban.

-Xóa cờ hiệu của ta?

Du thét, nhảy xuống khỏi giừơng vua.

Căn vẫn quì

-Tâu hoàng thượng, lúc quân triều đến trấn đường Tây Biên, thần lấy làm lạ, vì trên cờ hiệu vua ban chỉ có phẩm tước của Khưu Luân. Hỏi mới biết Luân đã lấy bùn đất bôi mất lệnh bình định loạn Nga Sơn của hoàng thượng.

-Đã đến lúc phải chết rồi ư?

Thủ trấn Tây Biên lộ vẻ kinh ngạc, vì vua bỗng mỉm cười, thốt ra lời ấy.

Căn vừa trở lại dịch xá thì Chuyết đến. Thấy quan thủ trấn có vẻ lo lắng, Chuyết nói liền:

-Ta đến cứu ông đây

Căn lật đật quì

-Thần mang tội lớn với triều đình. Mong quan tể hầu cứu giúp.

Chuyết phẩy tay

-Hãy đứng lên đi. Chuyện của ông ta gỡ được.

Sau khi đuổi hết quân hầu, Chuyết rút từ ngực áo ra tờ tấu thư chép sẵn

« Thần cả đời nguyện đem máu xương vun đắp cho vương triều họ Hiêu bền vững. Nhưng vừa qua gặp chuyện chẳng may, là cầm quân trấn không chống nổi mấy ngàn rợ Nga Sơn hung bạo, khiến dân tình Tây Biên rối rắm. Đó là tội lớn đối với triều đình. Song, lại có quan văn vũ khanh Khưu Luân dám làm điều xằng bậy giữa lúc đem binh triều đi trừ giặc. Một là, dám xóa cờ hiệu vua ban. Đi trừ loạn, nhưng lại lột mũ áo của quan vệ binh ở trấn đường, người từng mang quân trấn đi dẹp loạn. Hai là, dám đem binh triều lên núi Nga Sơn, đắp đập Bơ Man, dẫn nước về ruộng đồng cho giặc. Khi sắp quay về lại bắt binh triều ngồi chung chiếu uống ruợu cùng giặc. Là dòng tộc họ Hiêu, thần cúi mong hoàng thượng chiếu luật triều trị tội kẻ phản nghịch. Nay tấu trình.Hiêu Căn »

Chờ Căn đọc xong, Chuyết bảo

-Hãy ký vào đi

Thủ trấn Tây Biên xám mặt

-Nhưng khi vua nghe tấu thư này, cả Khưu Luân lẫn thần đều bị rơi đầu.

Chuyết nạt

-Vua chẳng chém ngươi đâu mà sợ.

Du cho hội triều thần. Nghe Căn đọc tấu thư xong, vua phán

-Các khanh đã rõ sự tình. Giờ cứ chiếu luật triều xét xử. Hiêu Căn đang giữ thủ trấn Tây Biên, việc luận tội là của pháp hình Độc Tố. Khưu Luân là quan nhất phẩm, việc luận tội ta giao cho tể hầu Đam Chuyết.

Triều thần chợt im như chết.. Thật lâu sau, pháp hình Độc Tố đứng lên

-Muôn tâu hoàng thượng, thủ trấn Tây Biên đã tự nhận lỗi lầm. Chỉ còn chờ vua định tội.

Du nói

-Cuối cùng là do ta định đoạt. Song, quan pháp hình phải xét lỗi lầm ấy thuộc tội hình chi

Căn nhìn sang phía Thâm, cầu cứu.

Quan cơ chính liền đứng lên

-Tâu hoàng thượng, làm quan trấn để dân làm loạn, tất phải bị cất chức. Song, xét cho cùng, binh lính trấn đường Tây Biên chẳng thể chống nổi mấy ngàn rợ Nga Sơn. Nay loạn đã yên, mà Hiêu Căn xưa nay vốn hết lòng với nước, xin hoàng thượng suy xét, giảm khinh.

Chuyết quì mọp trước vua

-Muôn tâu hoàng thượng, triều đình vững chải là nhờ lòng trung kiên của bá quan. Theo thần, thủ trấn Tây Biên vốn dòng hoàng tộc, bấy lâu hết lòng với đương triều. Nay có thay ai cũng chẳng bằng ông ấy.

-Thôi được. Tội của Căn chờ ta phán quyết.

Vua vừa dứt câu, Chuyết đã tiếp

-Nay Nga Sơn tạm yên. Song, theo thần, việc im hơi ấy thật đáng lo. Cứ theo tấu thư của thủ trấn Tây Biên thì vừa qua quan văn vũ công khanh đã câu kết với giặc. Biết đâu, việc im lắng hôm nay là để sửa soạn cho cuộc khởi loạn mai sau.

Vũ hầu Vưu Trấp chợt đứng lên

-Tâu hoàng thượng, nếu quả Nga Sơn đang ngầm khởi lọan như quan tể hầu nghĩ, theo thần, cũng chỉ ông ấy mới biết cách tảo trừ. Vậy xin hoàng thượng hãy cử quan tể hầu cầm quân tây phạt, sớm chừng nào hay chừng nấy.

Trấp vừa dứt lời, Chuyết đã quị xuống sân chầu. Lễ nhạc Bào Tu phải chạy đến đỡ, ông mới đứng lên nổi.

Khưu Luân dõng dạc nói trước bá quan

-Một trăm binh triều làm sao đương nổi mấy ngàn dân Nga Sơn. Mà gươm đao cũng không thể khuất phục kẻ đói cơm. Xóa bớt chữ bình loạn trên cờ là làm theo binh pháp lấy ít thắng đông. Thần có sửa cờ hiệu vua ban cũng chỉ vì muốn yên loạn như vua muốn, sao lại nói có tội. Đắp suối Bơ Man, dẫn nước về cho trăm họ làm ăn no đủ là làm theo kế sách vỗ yên dân, người Nga Sơn sẽ ngàn đời chịu ơn vua, sao lại nói phản nghịch?

Thủ trấn Tây Biên vội vã quì

-Theo thần biết, tự ngày vương triều họ Hiêu định lập, chưa có quan triều nào dám đem binh triều ngồi chung chiếu uống ruợu cùng giặc.

Chuyết đã trấn tỉnh lại, cũng vội vã tâu

-Tội khi quân là tội chém. Xin hoàng thượng hãy mau xuống chiếu.

-Đây là việc binh, nên ta muốn nghe ý kiến của quan thống binh.

Du liếc thấy Cưu đang tựa ghế ngủ. Nhưng lai có quan ngọai điện hối hả vào quì

-Muôn tâu, có sứ giả Di Vang muốn vào chầu hoàng thượng

Du lập tức truyền cho vào

Chuyện là thế này.Vua Xua Lôi mua súng đạn của Đông Mân trang bị cho binh triều. Đạn nổ đau tai, binh triều bỏ trốn cả. Nhà vua buộc lòng phải dùng lại cung tên, rồi sai người sang mua mũi tên có bịt đồng của nước Di Vang. Đông Mân liền cử binh đánh Di Vang.

Sứ giả lạy Du, rồi nói:

-Nay nước nhà thần gặp đại nạn, thần sang đây là để nhờ giúp cho viện binh. Nếu hoàng thượng thương tình cứu giúp, thì cứ một trăm quân đổi lấy một thuyền buôn. Binh lính Chang Lang sang giúp Di Vang hưởng lương bỗng y như binh lính Di Vang. Xong giặc, hết thảy sẽ trở về nước. Kẻ còn sống và cha mẹ vợ con những người tử trận sẽ được hưởng bỗng lộc của nước Di Vang cho đến trọn đời. Hai nước chúng ta vốn giao hảo từ lâu, thần nghĩ hoàng thượng không nỡ chối từ lời thỉnh cầu của thần

Hiêu Du từng muốn lân bang nể mặt, nay lại có dịp để thực hiện ý đồ ấy, nên ưng thuận ngay.

-Hãy mang sang đây năm trăm thuyền buôn để đổi lấy năm vạn quân.

Du nói. Rồi truyền cho sứ giả lập khế ước để hai nước cùng theo đó mà thi hành.

Lệnh trưng binh lập tức được truyền đi khắp nước Chang Lang. Con trai từ mười sáu đến hai mươi đều phải về kinh dự hội tuyển quân. Chỉ trong năm hôm, triều đình đã tuyển được năm vạn trai tráng khoẻ mạnh nhất nứơc.

Du liền hội triều thần, phán

-Vịên binh của ta nay sang Di Vang, trước giúp nước ấy chống giặc, sau là để tỏ rõ sức mạnh của Chang Lang ta. Nay truyền xóa tội cho văn vũ công khanh Khưu Luân, để nhận chức thống binh cầm đầu năm vạn binh triều sang giúp nước Di Vang. Điện đền Chuyên Chiết cùng ngoại điện Nhữ Bột tức tốc lo việc tu sửa cửa Xương Quơn để đón thuyền tàu nước bạn. Truyền con ta là thái tử Hiêu Thuông thôi giữ thủ trấn Đông Biên, tức tốc trở về triều nhận tước quan khai hải, thống giữ năm trăm tàu thuyền, lo việc giao thương buôn bán. Các khanh hãy đem hết sức mình phụng vụ nghiệp lớn của đương triều.

Kinh thành Xương Quơn đầy tiếng khóc của các bậc cha mẹ sắp mất con. Những người già bất chấp lính cấm vệ, chống gậy xông vào dinh thái hậu Tương Linh. Đã từ lâu, bà thái hậu chẳng còn đi đứng nổi. Nay xảy việc hệ trọng, bà chẳng thể nằm im trên giừơng bệnh.

-Lấy bảo kiếm cho ta. Và đưa ta đến đại điện.

Bà Tương Linh lệnh.

Vua cùng sứ giả Di Vang đang ăn luốc hầm ở Cung Nguyệt Khuyết, thì nghe trống triều thúc. Du hoảng hốt bỏ mặc sứ giả, chạy đến đại điện. Thì thấy đã đủ mặt bá quan. BàTương Linh đang nằm trên giừơng bệnh. Giừơng đặt trên ngai vàng, có hoàng hậu Đam Mỵ đứng hầu bên. Chẳng hiểu chuyện chi, vua đứng chết lặng giữa sân chầu.

Thái hậu bảo Đam Mỵ đỡ mình ngồi dậy trên giừơng:

-Nay truyền cho bá quan rõ. Hiêu Du con ta bấy lâu ỷ là vua một nước, bất chấp lời răn bảo của ta, làm bao nhiêu điều trái với đạo lý tổ tiên. Làm vua mà để muôn dân trong nước lầm than, ta oán, thì không thể ngồi thêm ở ngai vàng một khắc một giây nào nữa. Theo lời ký thác của tiên vương, nay ta lên ngôi cửu ngũ, để trị vì đất nước. Truyền bá quan tức tốc làm các việc: Một là trả sứ giả cùng năm trăm tàu thuyền về nước Di Vang. Hai là bãi việc viện binh, cho năm vạn trai tráng trở về quê cũ làm ăn. Kể từ nay, các quan đương triều ai nấy giữ phẩm tước cũ của mình. Việc triều chính nhất nhất phải theo khuôn phép tiên vương đã dày công gầy dựng. Riêng Hiêu Du con ta phải trở lại thọ giáo quốc sư Bồ Đài. Học cả việc làm con cha mẹ, làm dân một nước, và làm vua ở triều. Đến khi ta chết thì con ta mới được lên ngôi kế vị.

Bà thái hậu vừa nâng thanh bảo kiếm lên, vừa nói trước bá quan. Nói xong những lời trên thì ngã xuống giừơng, chết.