← Quay lại trang sách

HỘI VUA

Hiêu Du làm đám tang mẹ theo nghi lễ vua chết. Chính Du thảo ai điếu, đọc trước quần thần, lời lẽ rất thống thiết. Lúc thi hài bà Tương Linh sắp được đưa xuống huyệt mộ cũng là lúc Du cho hội triều thần ở đại điện để làm lễ lên ngôi.

-Vừa qua, mẹ ta có truất ngôi ta, đấy chẳng qua là sự thử thách của thần Cốc. Giờ đây, tiên đế, tức mẹ ta, đã về chầu tổ tiên, ta lên ngôi kế vị như lời truyền dạy của ngừơi. Kể từ nay, và mãi mãi, ta là vua nước Chang Lang.

Chuyết quì

-Thần có đọc qua sử sách nhân quần, song, chưa thấy vua nước nào có đế nghiệp như hoàng thượng. Hai lần được truyền ngôi, hai lần kế vị vua cha và vua mẹ. Tiên vương và tiên đế sẽ an vui nơi tiên cảnh, vì đã có hoàng thượng trị vì đất nước Chang Lang. Đế nghiệp của hoàng thượng lớn lao thế, theo ý thần, kể từ nay nên lập thêm vương hiệu.

-Tức phải đặt thêm tên hiệu của ta?

-Thưa phải

Chuyết đáp.

Vua ngã lưng tựa ngai vàng, vẻ nghĩ ngợi.

Vũ hầu Vưu Trấp chau mày, nhìn sang Khưu Luân. Rồi thúc cùi vào quan thống

binh đang tựa ghế ngủ

-Hoàng thượng gọi ông kìa.

-Thưa phải.

Cưu mở mắt, đáp. Rồi tựa ghế ngủ lại

Vua chợt thở dài.

Chuyết vẫn còn quì, vẻ lo sợ

-Muôn tâu, thần có lời chi sơ xuất, cúi mong hoàng thượng thứ dung.

-Không. Ta chợt nghĩ đến sự ngắn ngủi của đời ngừơi, nên lại sợ chưa làm hết những điều hằng muốn.

Vua nhìn bá quan, nói.

Trấp thấy Luân nháy mắt ra hiệu, nên đứng lên.

-Xin hoàng thượng chớ nghĩ đến cái chết. Điều chắc chắn là muôn đời sau vẫn còn nhớ đến đế nghiệp của hoàng thượng.

Vua trừng Trấp. Nhưng cũng liền tỏ ôn tồn

-Nhưng theo khanh, ta nên đặt vương hiệu là gì?

Trấp đáp

-Việc trọng đại ấy, hoàng thượng nên hỏi quan tể hầu

Chuyết nói liền

-Hoàng thượng nay đâu khác chi bậc thánh sống. Nên theo ý thần, hãy lấy vương hiệu là Thánh Vương.

Du cười ha hả. Rồi truyền bãi chầu. Các quan lục đục kéo nhau ra về. Hết thảy đều lặng lẽ như lúc đưa tang bà thái hậu.

Quốc sư Bồ Đài gượng dậy, nói

-Thần nay như chết chưa chôn. Chẳng còn bao lâu nữa sẽ theo chầu tiên vương cùng tiên đế.

Đam Mỵ đỡ quốc sư nằm xuống giừơng lại

-Xin chớ giữ lễ. Nay có điều muốn thỉnh ý quốc sư, nên Đam Mỵ tôi mạo muội đến đây.

Ông Bồ Đài đưa mắt ra hiệu là đang lắng nghe.

Mỵ tiếp

-Triều đình gặp lúc khó khăn, mà quốc sư thì lâm trọng bệnh. Mỵ tôi rất đau lòng, vì thái hậu vừa nhiếp chính lại vội qui tiên.

Vị quốc sư già không cầm được nước mắt

-Giá thái hậu sống thêm mấy năm nữa, đề chờ cho hoàng thượng bớt đi lòng kiêu hãnh.

Mỵ khẽ thở dài

-Quốc sư chớ nghĩ đến điều đó. Thái hậu vừa mất, hoàng thượng đã hội triều thần, tự tôn vương hiệu

-Ta biết. Vua đã vội nghe đứa xu nịnh, tự cho mình là bậc thánh vương

Hoàng hậu chợt quì xuống bên giừơng bệnh

-Sắp tới, vua các nước lân bang sẽ kéo về đây. Hoàng thượng đã nhất quyết làm hội vua để tỏ sức giàu mạnh của vương triều mới. Rồi đây, tiền bạc thóc gạo của triều đình khánh kiệt. Muôn dân sẽ ta oán vua. Mỵ tôi đã cố sức khuyên ngăn, song, hoàng thượng chẳng nghe. Vì lẽ tồn vong của đất nước, mong quốc sư ra tay cứu giúp.

Hiêu Du cho hội triều thần để nghe chỉ chiếu về việc hội vua.

-Ngoại điện Nhữ Bột, điện đền Chuyên Chiết cầm đầu năm vạn lao dịch đắp năm con đường vào kinh thành Xương Quơn, trên đường có dựng dịch đình, mỗi cái đủ chứa nghìn tân khách. Tể hầu Đam Chuyết xem xét lại việc nộp thuế của dân trong nước và lo soạn thảo văn bài để mừng đón khách. Cơ chính Hiêu Thâm cùng văn vũ công khanh Khưu Luân kiểm tu đền Cốc, Lăng Vạn Tuế và Cung Nguyệt Khuyết, thiếu ngừơi hầu và mỹ nữ thì tuyển thêm, hư hao chỗ nào thì xuất công quĩ triều đình tu sửa, mọi thứ ở các nơi đó phải hoàn mỹ để khách đến quan lãm.

Du đang nói thì bá quan xôn xao có quốc sư Bồ Đài đến. Người hầu của quốc sư quì giữa sân chầu, còn quốc sư thì ôm lấy cổ ngừơi hầu,vẻ rất mệt nhọc.

Du vội bước xuống khỏi ngai vàng, nghiêng ngừơi thi lễ.

-Từ lâu thần quá già yếu, không thể vào chầu, xin hoàng thượng thứ tội.Nay nghe sắp mở hội vua, thần liều đem tấm thân tàn đến tấu bày lên hoàng thượng những điều nghĩ được. Một là thái hậu vừa mất, theo luật lệ triều đình, cả nứoc không được làm các cuộc vui trong ba năm. Hai là Chang Lang vừa bị hạn hán mất mùa, loạn Nga Sơn cũng mới yên, nay bày ra việc đón vua các nước, công quĩ sẽ khánh kiệt, dân chúng sẽ khổ sở vì việc lao dịch. Nước sinh nghèo, dân sinh lòng oán vua, thì vương triều này tất sẽ không bền vững.Vì các lẽ trên, cúi xin hoàng thượng suy xét, bãi việc hội vua.

Quốc sư Bồ Đài vừa dứt lời, Du bước lên ngai vàng, thét

-Nay khanh gần lúc xuống mồ, đầu óc ngu tối làm sao còn dám đến đây luận bàn quốc sự.

Rồi lệnh quân hầu tức tốc cõng ông Bồ Đài trở về tư dinh.

Đã đến ngày đón khách. Ở dịch đình dành cho khách Vân Muôi, Du căn dặn các quan

-Khi tiếp bọn họ, các khanh phải ăn nói thế nào để tỏ rõ quốc hồn quốc tuý của Chang lang ta.

Vua Vân Muôi mũi cao, trán hói, người to dềnh dàng. Vua ấy cỡi ngựa ô, các quan tuỳ tùng cỡi ngựa màu lam, còn đám lính hầu cỡi ngựa màu vàng. Đến cổng dịch đình, vua ấy nhảy xuống ngựa, hô phũ, có nghĩa là vào đi. Tức thì, một nghìn quan quân tuỳ tùng đều xuống ngựa. Hiêu Du đã chờ sẵn ở sân. Lúc vua Vân muôi vừa đi tới, Du nghiêng ngừơi vái chào. Rồi cùng vua ấy tiến vào bên trong dịch đình. Lính cấm vệ Chang Lang đã đứng thành hai hàng ở hai bên cửa vào, liền bồng gươm lên, hô bằng tiếng Chang Lang « Hoàng đế Vân Muôi vạn tuế » Vua Vân Muôi khẽ gật đầu. Đám tuỳ tùng cũng bắt chước làm theo. Lúc hai vua vào đến bên trong dịch đình, các quan Chang Lang đều cung tay, vái chào. Vua Vân Muôi nhìn mọi ngừơi mỉm cười. Du cũng nhìn vua ấy, nhoẻn cười. Rồi hết thảy tiến vào hai hàng ghế làm bằng gỗ trao, nơi thành ghế có chạm hình mây bay, là biểu tượng của bậc thánh vương.

Từ hôm ra chỉ chiếu về việc hội vua, Du đã bắt các quan học tiếng Vân Muôi. Lúc tiếp vua ấy, Du cũng chỉ nói được nửa Vân Muôi nửa Chang Lang.

-Xem đền thần Cốc xong, quí khách sẽ ăn luốc hầm ở Cung Nguyệt Khuyết. Rồi sang vườn thượng uyển ngủ.

Du lượt qua những việc sẽ diễn ra trong lúc khai hội.

Chuyết vốn có mưu đồ làm vua chư hầu của Vân Muôi, nên từ lâu đã âm thầm tìm học nhiều điều về nước ấy. Quan tể hầu đứng lên, nói lại lời Du bằng tiếng Vân Muôi rất thành thạo.

Khi Du cùng các quan cáo từ vua Vân Muôi, để sang dịch đình khác, một vị võ quan Vân Muôi chạy bổ đến chỗ Chuyết. Hai người nói với nhau gì đó khá lâu. Rồi vị quan ấy rút từ ngực áo ra mảnh giấy nhỏ, trao Chuyết.

Quan tể hầu bứoc lại chỗ Luân

-Thư của một võ quan Vân Muôi. Vị võ quan ấy đã cho người đem thư đến nhờ vị quan vừa rồi tìm cách gởi cho con trai là Điên Giác, hiện sống ở Chang Lang ta

Luân như đang trong mơ, nói

-Luân tôi có quen với Điên Giác.

Chuyết liền trao thư cho Luân. Rồi vội vã bước theo vua mình.

Ở dịch đình đón khách Di Vang, Luân chỉ nghĩ đến cha con Điên Giác. Mãi lúc ngồi vào hàng ghế dành cho vua quan Chang lang, mới để ý thấy vua Di Vang chỉ bận đồ cụt và không đội mũ rồng.

-Hai nước chúng ta vốn giao hảo từ lâu. Nay lại được quí quốc mời dự hội vua, thật vô cùng vinh hạnh.

Vua Di Vang nói rất sành tiếng Chang Lang, đoạn lùi ra sau, gập mình sát gối.

Du vội đứng lên, vẻ rất bối rối.

Trong lần đi tìm hiểu cách trị nước của các lân bang, Chuyết ở lại Di Vang khá lâu, nên biết được phong tục nứơc ấy.

-Tâu hoàng thượng, nhà vua Di Vang muốn bày tỏ sự biết ơn triều đình ta đấy.

Nghe Chuyết nói, Du lật đật cúi gập ngừơi để đáp lễ.

Các quan tuỳ tùng vua Di Vang chợt cười ồ, khiến vua ấy lại phải đứng lên

-Ở bản quốc, vua với quan như anh em một nhà, vui đùa với nhau là chuyện thừơng.

Du có vẻ bất ưng, song, liền nói

-Ở bản quốc cũng vậy. Vua yêu bầy tôi như con yêu cha mẹ.

Bấy giờ thì Đông Mân đã giảng hoà với Di Vang. Nhưng để lấy lòng vua Di Vang, Du đã nói dối về chuyện viện binh

-Nay bản quốc vẫn còn lấy làm tiếc ngày ấy đã không giúp được quí quốc. Song, chắc quí quốc cũng lượng thứ, vì viện binh sắp lên đường thì thái hậu ngã bệnh, mất.

Vua Di Vang lật đật đứng lên, cung tay xá liền ba cái

-Lẽ ra ngày ấy bản quốc phải sang đây viếng vong linh thái hậu. Ngặt nỗi nước nhà còn đang trong chiến chinh.

Vua năm nứơc đã đến đủ. Du liền cho khai hội ở Cung Nguyệt Khuyết. Đại sảnh ngập ánh đèn hoa.

Lúc các vị vua khách đã an tọa, Du bước lên ghế chủ hội đan bằng dây trua đỏ thắm, nơi thành ghế có thắt hình mây bay.

-Hoàng đế nước Chang Lang, vương hiệu Thánh Vương năm thứ nhất, xin chúc mừng các vị quóc khách là hoàng đế của năm nước lân bang.

Du vừa dứt lời, nhạc tì tưa trổi lên. Năm mỹ nữ bận áo màu hồng, đội năm mâm rượu chạy đến quì trước năm vị vua khách. Liền sau đó, hằng trăm mỹ nữ bận áo màu xanh bưng những mâm rượu đầy chen vào đám quan quân tuỳ tùng của năm nước.

Rượu nấu bằng hoa via, hái ở đỉnh Mi Sơn. Chén rượu làm bằng vỏ lưa, một loài vỏ ốc quí, lấy ở biển Đại Hải.

Trong lúc khách uống rượu lễ, Du muốn nhân cuộc, lên giọng kẻ cả trong việc hoà hiếu.

-Từ ngày lập quốc đến nay, Chang Lang mới được các hoàng đế các lân bang đến viếng.. Sử sách của bản quốc sẽ ghi chép điều này. Bản quốc nghĩ, kể từ nay, bốn biển đều là anh em, các nước sẽ không còn xâm lấn nhau nữa.

Vua Di Vang và vua Đông Mân nhìn nhau, vẻ áy náy.

Vua Bắc Mân chợt nâng chén rượu lên cao, hỏi

-Nghe vua trị nước đã lâu, sao vương hiệu là năm thứ nhất?

Hiêu Du đã cho tuyển năm người vào chức quan phụ thuyết để lo việc giao tiếp vua năm nước lúc mở hội. Quan phụ thuyết sành tiếng Bắc Mân bước đến cạnh Du, nói lại bằng tiếng Chang Lang điều vua Bắc Mân hỏi. Sắc mặt Du chợt đổi. Nhưng liền lấy lại bình thừơng

-Chang Lang vốn chưa có lệ ấy. Song, nay bản quốc xét thấy nên lập vương hiệu như các lân bang để tiện việc giao hảo.

Nói xong, Du liền cung tay xá liền ba lần để tỏ cám ơn sự lưu tâm của khách.

Vua Bắc Mân nhìn đám quan quân tuỳ tùng, mỉm cười, rồi lại quay sang Du

-Hai nước chúng ta như hai nhà liền vách. Nay quí quốc bày việc giao hảo thế này thì không gì đẹp bằng. Lại nghe Chang Lang dùng phép chăn dân của Bắc Mân, bản quốc càng vui sướng hơn.

Du nháy mắt cho quan phụ thuyết lui ra, rồi vờ như chẳng hiểu lời kia, bước xuống ghế chủ hội, bưng chén rượu màu hồng, tiến đến từng vị vua khách.

Đãi xong một trăm lẻ một món ăn, mất mười bảy ngày. Riêng món lảo xảo, tức đuôi trâu nướng, mất bảy ngày. Do quan quân các nước rất thích món đó, nên Du đã

xuống chiếu bắt dân trong nước chặt tất cả đuôi trâu đem nộp triều đình để đủ đãi khách.

Sau khi uống cạn mấy nghìn vò rượu via, khách rút hết về các dịch đình. Quan nội điện Hiêu Dật chẳng thấy mống mỹ nữ nào ở tửu sảnh, sai lính cấm vệ đi tìm, mới hay cứ một quan quân Di Vang dắt theo một mỹ nữ, nghênh ngang khắp nẻo kinh thành.

Du bảo Dật:

-Thôi, cứ xem như đấy là cách tỏ rõ quốc tuý của Chang Lang.

Rồi đích thân đến dịch đình dành cho khách Vân Muôi để mời vua nước ấy thưởng trăng.

-Quí quốc chỉ dành cho mỗi bản quốc ư? Vua Vân Muôi hỏi. Hoá ra vua ấy cũng nói được tiếng Chang Lang.

Du rất vui, đáp:

-Thưa, chỉ dành cho quí quốc thôi.

Lúc đầu vua Vân Muôi tỏ vẻ không thuận. Nhưng sau đó cũng theo Du lên Vọng Nguyệt Đài. Đêm giữa tháng, trời trong, trăng tỏ. Bên dưới chỗ hai vua nằm là đại sảnh, ngập tiếng nhạc tì tưa.

-Nghe rất êm. Vua Vân Muôi nói.

Du mỉm cười trong trăng

-Đấy là khúc giao hòa. Bọn nhạc công có ý dành riêng cho hai ta đó.

Thấy khách im, vua tiếp

-Giá tình thâm giữa hai nước đời đời bền chặc.

Vua Vân Muôi trở người trên chiếc giừơng lót lông chim

-Bền chặc hay không là do ở quí quốc.

Phải. Chính Du đã hiểu điều đó, nên liền đem chuyện mở đường và xây vọng đài ra nói với khách

-Bản quốc có ý định làm các việc ấy. Ngặt nỗi, công quĩ triều đình eo hẹp.

VuaVân Muôi chợt bước xuống khỏi giừơng, đến tựa ngừơi vào bức lan can. Du cũng bước xuống theo.

-Chỗ có ánh đèn kia là gì vậy?

-Thưa, Lăng Vạn Tuế đấy.

-Lăng ư? Bên Vân Muôi, lăng vua to lớn hơn nhiều. Còn đường quan với vọng đài thì vô kể.

Du liền chợp lấy cơ hội

-Quí quốc có thể giúp Chang Lang các thứ ấy chăng?

Vua Vân Muôi chợt cừơi xòa

-Sao lại không. Bản quốc sẽ cho không Chang Lang khỏan tiền làm các thứ ấy.Đáp lại, quí quốc phải làm các điều sau. Một là, để các thương nhân Vân Muôi thảnh thơi qua lại ải Xương Linh, tức khỏi phải nộp thuế bán buôn. Hai là, Chang Lang nhường cho Vân Muôi cửa biển Xương Quơn, để Vân Muôi trọn quyền dùng trong việc giao thương buôn bán. Ba là, mỗi khi Vân Muôi có giặc xâm lấn, Chang Lang phải gởi sang giúp một vạn binh lính, yên giặc thì quay về.

Du rất mừng, song, cũng rất lo. Sau hồi nghĩ ngợi, vua đáp

-Thưa, được.

Sáng hôm sau, Du đưa quan quân năm nước đi xem Lăng Vạn Tuế.

Vua Tây Miêu có vẻ kinh ngạc lắm

-Lăng xây bằng vàng ư?

Du gật đầu

-Phải. Gần hai vạn rưởi cân đấy.

Vua Bắc Mân chợt hỏi:

-Bản quốc muốn xem lăng tiên đế Hiêu Lịch, chẳng biết có gần đây không?

Du rất bối rối. Nhưng tể hầu Đam Chuyết đã mau miệng đáp

-Thưa, cách đây khoảng hai ngày đường. Xa thế, là do tiên vương muốn yên nằm nơi đất tổ.

-Quê vua là ở đâu vậy?

Chuyết lại đáp thay Du

-Thưa, ở trấn Tây Biên, sát chân dãy Nga Sơn

Vua Bắc Mân biết Chuyết nói dối, vì từng nghe dòng họ Hiêu là ở Nam Biên, nên nói gài chơi

-Xa mấy cũng được. Phiền quí quốc cho bản quốc đến đó cho biết

Lúc quan quân năm nước xem hát rố ở Hí Khúc Đình, Du gọi riêng Thâm, hỏi

-Vua Bắc Mân nó đòi đi xem mộ cha ta, làm sao bây giờ?

Thâm vò đầu, bứt tai

-Giá ngày ấy quốc sư Bồ Đài đừng ngăn cản tiên vương

-Thôi, chớ nhắc chuyện cũ. Hãy nói ta nghe giờ phải làm sao?

Thâm nghĩ ngợi hồi lâu, rồi đáp

-Cứ giả ngơ là thượng sách.

Du cười ha hả. Chợt có tiếng rú chỗ đám quan quân đang xem hát rố. Ở Hí Khúc Đình, đang diễn đoạn cọp moi gan thợ săn, còn vua Khoanh Khoách thì xông vô đánh cọp. Du chen mọi ngừơi bước vào thì thấy vua Tây Miêu nằm sóng soài dưới đất, đám quan quân tuỳ tùng đang vây quanh vua ấy.

-Thôi, cả cọp lẫn vua lui hết.

Du thét

Tiếng trống hát im bặt. Trên sân Hí Khúc đình chỉ còn lại mấy vệt máu làm bằng nước trái choi, vốn có màu đỏ chói.

Vua Đông Mân hỏi Du

-Cọp vồ ai? Còn ai đánh cọp?

Du đáp

-Kẻ thợ săn nước Khoanh Khoách bị cọp vồ. Còn người đánh cọp là vua nước ấy.

-Vua đánh thắng cọp ư?

-Phải. Đã là vua, thì san núi lấp bể. Sá chi chuyện thắng cọp.

Thấy vua Đông Mân thích chí cười to, Chuyết liền xen

-Là do hoàng thượng của bản quốc soạn đấy.

Đêm ấy, Du mời quan quân năm nước ngủ lại ở các cung phòng trong vườn thượng uyển.

Du đang nằm với Mỵ, thì nghe trống triều thúc, vội nhảy xuống khỏi giừơng, chạy đến đại điện, thì thấy bá quan đủ mặt.

Nội điện Hiêu Dật đang quì mọp ở sân chầu

-Vì chuyện nguy cấp thần chẳng biết làm sao, nên phải nổi trống triều, xin hoàng thượng tha cho tội chết.

-Đã xảy chuyện chi?

Du thét

Dật vẫn còn run

-Vâng mệnh hoàng thượng, thần đã cho các sơn nữ vào các cung phòng. Bỗng quan quân nước Tây Miêu ùa ra vườn thượng uyển. Lớp rơi xuống Ngư Hồ, kêu cầu cứu. Lớp dẫm nát các loài kỳ hoa ở Hiên Lãm Thuý. Chuyện xảy quá dị thường. Xin hoàng thượng bảo ban thần phải làm sao.

-Đồ quân man di. Chớ nói nữa, làm ta thêm tức.

Du nạt Dật. Rồi truyền cho bá quan lui về nghỉ.

Một trăm lẻ tám sơn nữ ở vườn thượng uyển vừa đẹp vừa khoẻ, vốn được tuyển lựa từ các miền rừng núi trong nước. Những năm đầu, Du luôn đến vui vầy cùng bọn họ. Nhưng về sau lại chán, bỏ mặc đám gái núi. Nay bỗng gặp đám đàn ông từ các nước đến, bọn họ vui mừng đến lồng lộn lên, làm đám quan quân Tây Miêu kinh hãi.

Sau đêm chơi hoa dỡn nguyệt, quan quân năm nước đều mỏi mệt, nằm mẹp ở các dịch đình.

Du lại hội triều thần truyền chỉ chiếu

-Vừa rồi, các lân bang đã rõ sự giàu mạnh của Chang Lan ta. Nay ta lại muốn bọn họ thấy binh lực của triều đình. Văn vũ công khanh Khưu Luân, vũ hầu Vưu Trấp cùng thống binh Viên Cưu xem xét hào thành, bãi luyện, kiểm lại đàn voi đàn ngựa, để sáng ngày mai cho các nước xem các thứ ấy.

Du đang nói, chợt có quan điện đền hơ hải chạy vào

-Lại chuyện chi?

Vua thét

Quan điện đền khóc

-Sau khi uống rượu và vui vầy cùng các sơn nữ, quan quân nước Đông Mân kéo sang quốc đền xô ngã tượng thần Cốc. Thần có ra sức giảng giải, song, bọn họ chẳng nghe, cứ cho đó là ma quỉ. Cúi mong hoàng thượng tha chết cho kẻ bề tôi này.

Du gục xuống ngai vàng. Hồi lâu lại ngẩng lên nói, như chẳng có gì hệ trọng xảy ra

-Vì nghiệp lớn của đương triều, các khanh hãy gắng lo cho hội vua chu tất.

Qua hôm sau Du đưa quan quân năm nước đi xem bầy ngựa chiến

Thấy thống binh Viên Cưu ngồi tựa tàu ngựa ngủ, vua Bắc Mân hỏi

-Ngừơi ấy làm chức chi trong quân?

Để giữ thể diện triều đình, Du phải nói dối

-Thưa, một chức quan nhỏ trong kỵ binh. Vừa khỏi ốm đau, nên còn mỏi mệt.

Rồi bước lại, lay gọi Cưu

-Quan quân các nước đã đến, dậy đi.

Cưu mở mắt nhìn vua

-Thần đã kiểm lại đàn ngựa chiến của triều đình. Cả thảy là hai trăm con. Một trăm hăm chín con già yếu, không cỡi được. Hai mươi con thì đương đẻ.

-Được rồi. Hãy lệnh bọn kỵ binh đưa ngựa ra bãi luyện.

Cưu vơ lấy chiếc tù và, rúc lên mấy tiếng. Tức thì đám lính kỵ từ căn trại gần đó sắp hàng dài, kéo đến tàu ngựa.

Lúc đám lính kỵ cho ngựa phi trên bãi luyện, vua Vân Muôi nhìn Du cười, bảo

-Ngựa của quí quốc khoẻ quá.

Còn vua Tây Miêu thấy ngựa lớp trong tàu lớp ngoài bãi, nên hỏi

-Ngựa chiến của quí quốc có cả thảy là bao nhiêu?

Biết nước ấy mạnh về kỵ binh, nên Du đáp

-Bản triều có năm trăm tàu ngựa chiến. Tính gọp lại là hai vạn con.

Vua Bắc Mân nói

-Bên bản quốc chỉ có tượng binh, nên muốn xem cho biết cách diễu kỵ binh của quí quốc.

Thấy vẻ lo lắng lộ rõ trên gương mặt Du, Chuyết liền tương kế, gọi to

-Ngự y đâu

Tức thì Du vờ ngã người cho Chuyết đỡ. Khi vua đã được đưa vào long xa, quan tể hầu nói với quan quân năm nước

-Vì vất vả việc hội vua, hoàng thượng của bản quốc bất ngờ ngã bệnh. Giờ đến lượt mời quí quốc đi xem ngựa chiến vượt hào thành.

Theo lệnh Du, Khưu Luân phải đóng vai kỵ binh vượt chín mươi chín hào thành cho các nước xem, vì ngoài Luân chẳng ai làm nổi.

Đã đến giờ hành sự, Luân còn nói với vũ hầu Vưu Trấp

-Khi có giặc, vua cứ cho lũ ngựa già với đám sơn nữ ở vườn thượng uyển lâm trận, việc chi phải đem ngựa chiến vượt hào thành ra dọa lân bang?

Trấp khuyên

-Thấy việc quân của ta mạnh, kẻ có dã tâm xâm lấn cũng chùng bước. Đây là việc nước việc dân, chứ nào phải của riêng vua.

Do có lời tâm huyết của quan vũ hầu, Luân đã gác mọi nỗi bất bình. Lẽ ra chỉ diễu qua một lượt, Luân đã cho ngựa vượt chín mươi chín lượt qua chín mươi chín hào thành. Lúc đưa ngựa vào tàu, ngang qua chỗ Chuyết, Luân nghe vua Bắc Mân hỏi

-Ngừơi ấy giữ chức chi trong quân?

Thì Chuyết đáp

-Là lính kỵ đấy. Hơn hai vạn lính kỵ của bản quốc đều thế cả.

Ngày hôm sau quan quân năm nước đi xem đàn voi chiến. Hôm sau nữa, xem cỡi ngựa bắn cung. Rồi thăm ngôi mộ chung của những người đã chết lúc xây Lăng Vạn Tuế. Quan tể hầu vẫn thay vua tiếp các nước, vì Du vẫn chưa rời giừơng bệnh.

Thấy Luân tự dưng bặt dạng trong mấy ngày ấy, Trấp phải thân hành đến gặp

-Có điều chi làm cháu buồn phiền phải không?

Luân thuật lại cuộc đối đáp giữa Chuyết và vua Bắc Mân. Rồi nói

-Nếu bận áo quan đi đưa đón lân bang, thế nào vua Bắc Mân cũng nhận ra cháu. Chớ để người nước ngoài nghĩ vua quan nứơc ta đều giả dối cả.

Không can gián được vua, hoàng hậu Đam Mỵ buồn rầu, nằm ở hậu cung. Giờ Du lâm bệnh, Mỵ lại lo cha mình cậy quyền lực, làm điều chẳng lành. Mãi khi việc hội vua sắp mãn, Du mới nói thật với Mỵ

-Ta phải giả đau để tránh vua ấy

Mỵ lấy làm lạ

-Tránh vua nào? Mà sao phải tránh?

Du lộ vẻ tức giận

-Lần đầu đòi ta đưa đi xem lăng tiên đế. Sau đó nghe ta bảo Chang Lang có hai vạn ngựa chiến, con trai con ma thú Bắc Mân lại đòi được xem cách diễu kỵ binh.

Mỵ vô cùng ngạc nhiên

-Sao hoàng thượng lại đi nói dối với vua ấy?

Du nạt

-Đồ đàn bà. Vua nước này nói dối với vua nước kia là lẽ thường.

Rồi cho hội triều thần để nghe chỉ chiếu

-Vừa qua các lân bang đã rõ sự giàu có và binh lực của ta. Trước lúc các vua quay về, ta muốn cho bọn họ biết kỷ cương phép nước của Chang Lang. Pháp hình Độc Tố hãy đưa tội nhân ra trước lân bang để ta xử chém

Tố sợ hãi, quì tâu

-Xin hoàng thượng xem xét, vì hiện thời chẳng có tội nhân nào bị tội chém

Du nạt

-Đồ ngu. Đây là xử chém để quan quân các nước xem cho biết, rõ chưa?

Chuyết liền nhớ đến vụ án Mi Sơn, lật đật quì

-Thưa hoàng thượng, nước yên định là nước có kỷ cương. Do đó hoàng thượng hãy xuống lệnh chặt đầu mấy đứa, để lân bang nể vì phép chăn dân của vua Chang Lang.

-Phải. Nhưng theo khanh, nên chặt đầu ai để sáng danh ta?

Chuyết nói liền

-Việc Muỗng ngày nào vẫn chưa xét xử. Nhân đây, hoàng thượng hãy xuống lệnh chặt đầu nó, để lân bang biết pháp luật của ta là rất nghiêm minh.

Biết Chuyết cố hại Muỗng để trừ hậu họa, Tố lật đật quì

-Theo thiển ý thần, nên tìm kẻ khác để chém. Vì vốn quan tể hầu chưa có bằng cứ buộc tội Muỗng

Du chưa kịp nói gì, Chuyết đã lớn tiếng với Tố

-Ta biết rõ quân hầu của ta lấy cắp châu báu nhà ta, ông còn đòi bằng chứng chi?

Cơ chính Hiêu Thâm giận dữ đứng lên

-Thế nếu ta nói ta biết rõ quan tể hầu Đam Chuyết, đồng liêu của ta, đã lấy cắp châu báu nhà ta, thì ông cũng bị tội chém sao?

Chuyết cười xòa

-Nếu là quân hầu của quan cơ chính, Chuyết này tất rơi đầu

Qua cuộc hội vua, Luân ngán ngẫm việc triều chính. Nhưng đến lúc ấy không thể nín được

-Thưa hoàng thượng, nếu phải chặt đầu kẻ vô tội để lân bang xem cho biết, Luân này xin chết thay cho Muỗng

Du vỗ bàn, thét

-Chém Muỗng xong, ta sẽ xử tội nhà ngươi

Rồi truyền bãi chầu.

Từ lâu Tố nghĩ sẽ tìm được bằng chứng về việc cắp vàng để trừ Chuyết, nên đã lưu mẹ Muỗng ở tư dinh. Hằng ngày lại mật sai quân hầu mang đồ ăn thức uống đến ngục Luân Giao cho Muỗng. Mãi hôm lính đao phủ đến dẫn đi, Muỗng vẫn nghĩ là mình được tha.

Hôm ấy quan quân năm nước chẳng thiếu mặt nào, vì muốn xem cho biết cách xử án của Chang Lang

Tố phải đắng cay ngồi ghế pháp hình luận tội Muỗng

-Tội nhân tên là Muỗng, tuổi vị thành niên, đã lấy cắp châu báu của nhà quan tể hầu Đam Chuyết. Chiếu theo phép nước, tội ấy bị chặt đầu. Xin hoàng thượng phán quyết

Du ngồi ghế chủ tòa, hỏi tội nhân

-Tên kẻ cắp kia, ngươi có gì để nói nữa không?

Nhưng Muỗng đã gục xuống sân chầu, bất tỉnh tự lúc nào

Thấy quan quân năm nước chợt xì xào bàn tán, Du liền nói lớn

-Ta vâng mệnh thần Cốc anh minh, truyền chặt đầu đứa cắp, để răn kẻ khác.

Tức thì lính đao phủ xông vào, lôi Muỗng đi.

Cuộc xử án coi như đã xong. Quan quân năm nước lục đục kéo ra khỏi đại điện. Các triều thần Chang Lang cũng lục đục kéo theo sau, chẳng ai nói với ai lời nào

Khi nghe Muỗng bị chém, hoàng hậu Đam Mỵ than với người hầu gái

-Nay vua lấy việc giết người mua vui thiên hạ, cơ nghiệp họ Hiêu coi như sắp đổ.

Còn quốc sư Bồ Đài thì nằm nơi giừơng bệnh nấc lên mấy cái liền, rồi chết.