← Quay lại trang sách

LÚA BƯƠN

Điên Giác nói

-Đường sang nước ấy xa diệu vợi. Một mình Khưu huynh đi, Giác này chẳng yên lòng

Luân bảo

-Xưa thầy ta đến được, nay ta cũng đến được

Rồi đi gặp ông Bơ Man, nói

-Ta sang nước Xua Lôi tìm giống lúa bươn về cho Nga Sơn. Tộc trưởng ở nhà gắng lo việc phòng chống quân triều

Ông Bơ Man có vẻ kinh ngạc

-Nước Xua Lôi ở đâu? Anh Luân đã đến nước ấy rồi sao?

-Ta thì chưa đến. Nhưng thầy ta từng kể cho nghe đường đến nước ấy.

-Mà ta đã có lúa lướt, còn tìm giống ấy chi?

-Nắng hạn, lúa lướt chết khô. Nhưng lúa bươn thì sống được

Ông Bơ Man mừng lắm

-Vậy thì phải bảo tộc trưởng Luốc Bưa với năm bảy người nữa cùng đi

-Đường đến nước Xua Lôi phải qua các nước Tây Miêu, Bắc Mân và Tân Tang. Lương thảo cho mỗi mình ta đã khó, chẳng thể đi nhiều người.

Luân bảo. Rồi gom hết số trầm còn lại với số vàng bạc Gia mang từ Xuyên Lâm lên, để làm lộ phí. Điều Luân lo lắng là phải qua nhiều nước, mà mình chỉ nói được mỗi tiếng Xua Lôi.

Mẹ của Mưng vốn người Tây Miêu, lúc còn sống đã dạy cho Mưng biết tiếng nước ấy

Tộc trưởng Luốc Bưa nói

-Con gái ta rành tiếng Miêu, lại thông thuộc đường núi, nên phải đưa anh Luân sang nước Tây Miêu rồi quay về

Đến ngày lên đường, Luân kêu Giác, dặn

-Ta đi lâu lắm là vài tháng. Nhưng rủi có bề chi, không trở về được, em phải thay ta lo việc hưng binh. Có hai thứ phải bảo trọng, là mạng sống của em với sách vở của thầy và của cha ta

Giác cố nén, nói

-Khưu huynh cũng phải bảo trọng thân mình. Đến chết, Giác này vẫn không quên lời thề ở Ngũ Sơn

Luân cỡi con kim mã. Mưng cỡi con voi già mẹ Mưng đã đem từ Tây Miêu về thuở ấy

Bấy giờ là giữa xuân. Chim khưu đang làm tổ, từng đôi âu yếm trên cành

Con gái ông Luốc Bưa nói

-Người Tây Miêu thích người ở phương xa lắm. Chỉ lo mấy nước kia thôi.

Luân nói

-Theo lời thầy ta, thì người của mấy nước kia cũng rất mến khách.

Đường sang Tây Miêu muôn phần hiểm trở. Lúc men theo các vách đá, khi phải mượn lòng suối mà đi. Luân cố nhớ từng chặng đã qua, để khỏi lạc lối lúc quay về. Chưa ra khỏi rừng núi Nga Sơn thì trời tối. Hai người dừng lại ở một chỗ triền đồi, đốt lửa, ăn cơm vắt

Luân lo lằng hỏi

-Mưng sang Tây Miêu được mấy lần rồi?

-Chỉ một lần đi bán trầm ấy thôi. Nhưng không sao. Em biết tiếng Miêu, đi đến đâu chẳng được

Con gái ông Luốc Bưa im một lát, lại hỏi

-Anh Luân cho em cùng sang Xua Lôi, có được không?

Luân giật mình, đáp

-Tộc trưởng Luốc Bưa đã dặn, đến Tây Miêu thì Mưng quay về

Càng về khuya núi rừng càng yên tĩnh. Luân gối đầu lên con kim mã, nằm nhìn trời, thấy nhớ cha và Xuyên vô kể. Quá nửa đêm thì nghe tiếng thở dài não nuột của Mưng trên lưng con voi già. Luân biết đấy là lúc con gái ông Luốc Bưa không cưỡng lại nổi thần núi Nga Sơn

Mất hai ngày đường, hai người mới đến được kinh đô Tây Miêu

Mưng rưng rưng nước mắt

-Giờ, em phải trở lại Nga Sơn. Chim Khưu có hỏi, Mưng này sẽ nói, anh Luân vẫn nhớ mùa này chim đương làm tổ.

Luân cảm động vô cùng. Song vẫn gắng ra vẻ bình thường

-Ta chẳng thể nào quên người Nga Sơn thân thiết

Vua Tây Miêu đang kén chọn vị võ quan đứng đầu quân ngự lâm. Luân liền ghi tên, xin tỉ thí. Người xem đông nghẹt đấu trường. Có một người đánh ngã được chín người. Đến lúc ấy, Luân nghe quan khảo gọi tên mình. Nhà vua Tây Miêu có vẻ rất đắc ý, vì thấy Luân đã đánh thắng một trăm lẻ chín đấu thủ.

Khi chẳng còn ai tiến vào đấu trường, Luân thả gươm, quì mọp trước vua

-Thần thật đắc tội, mong hoàng thượng thứ dung

Vua ngơ ngác hỏi quan tể tướng đang làm phụ khảo trường thi

-Kẻ ấy ở đâu? Sao lại lạy ta?

Quan tể tướng vốn người Bắc Mân, từng đi nhiều, sành tiếng các nước lân bang, thưa

-Bậc cao thủ vốn người Nga Sơn, tự xưng là kẻ có tội với hoàng thượng

Vua liền ra hiệu Luân đứng lên

-Khanh có tội chi với ta?

Luân thú thật, mình không có ý làm quan Tây Miêu, chỉ đánh liều vào tỉ thí, để được gặp vua, nhờ giúp cho cách sang nước Xua Lôi tìm giống lúa quí về cho Nga Sơn

Vua Tây Miêu từng nghe tiếng ông Đa Trà, nên khi biết Luân là học trò Đa, lấy làm mến phục. Liền lệnh quan tể tướng chỉ cho đường đi nước bước đến nước Xua Lôi

Quan tể tướng nói

-Ta có học tiếng Xua Lôi, nhưng chưa sang nước ấy. Nên không hiểu giống lúa bươn quí đến mức nào

Luân nói

-Theo lời thầy Đa Trà, lúa bươn sống được trong nắng hạn. Chang Lang với Tây Miêu đều là xứ quanh năm hạn hán. Nếu có giống lúa ấy, dân hai nước ắt đủ cơm ăn

Khi nghe quan tể tướng tấu bày điều này, vua Tây Miêu lập tức cử ông cùng Luân sang Xua Lôi.

-Để tiện việc đi đường, ta muốn anh Khưu nhận tiếng làm quan thống lĩnh ngự lâm, ở trong sứ bộ Tây Miêu đi Xua Lôi, có được không?

Nhà vua Tây Miêu hỏi

Luân rất mừng, ưng thuận ngay

Bấy giờ, Tây Miêu đang giao hảo với Bắc Mân, nên việc sứ bộ đi ngang qua nước ấy chẳng có gì khó khăn.

Một hôm, nhân lúc nghỉ chân, Luân hỏi

-Đi thế này, ta có ngang qua núi U Sơn không?

Quan tể tướng giật mình

-Anh Khưu cũng biết chuyện ma núi sao?

Luân nói

-Sách Thịnh Quốc Thư của thầy Đa Trà có chép chuyện ấy

Nể tình Luân, quan tể tướng đưa sứ bộ ngang qua đất Lưa. Nhìn đám con gái giặt gấm ở sông Uẩn Giang, Luân bùi ngùi nghĩ đến Kha Ly

Quan tể tướng nói

-Thân này lìa xa quê cha đất tổ đã bấy nhiêu năm. Nay thì thái tử, con vị vua mất tích ở U Sơn, đang giữ ngôi. Chẳng biết về sau có điều chi xảy ra nữa không

Luân thở dài

-Kẻ ở ngôi cao thường sinh lòng tàn bạo. E rễ tần của Sưng Chu cũng chẳng thể diệt được

Vua Tân Tang lúc còn trẻ thụ giáo ông Đa Trà. Nghe sứ bộ Tây Miêu có bạn đồng sư, vua liền sai quan ngoại giao đi đón về triều.

Trong bữa tiệc tiếp đãi sứ bộ, nhà vua Tân Tang nói

-Ta học thầy Đa Trà tự thuở mười bảy. Nay được muôn dân trong nước yêu vì, là nhờ thầy đã dạy cho ta cách làm người. Vừa rồi, nghe thầy mất, vua Chang Lang cử quốc tang, ta lấy làm thõa mãng trong lòng.

Nghe nhắc đến sự lừa mị của Hiêu Du, Luân bừng bừng lửa giận. Song, cũng gắng kiềm chế, nói

-Thầy Đa Trà mất, lũ môn đệ chúng ta đau xót, nhưng đứa độc ác tàn bạo thì vỗ tay reo

Vua Tân Tang nói

-Ta ở ngôi mười mấy năm. Đem cách trị nước của thầy ra dùng thì muôn nhà no ấm, từ quan chí dân chẳng ai biết nói dối. Vậy mà vừa rồi lại xảy chuyện đau lòng

Quan tể tướng Tây Miêu nhìn Luân, tỏ vẻ lo ngại. Luân liền đứng lên, xin cáo từ

Vua Tân Tang vội nói

-Học trò của thầy ta ở khắp bốn phương. Được gặp nhau thế này là do duyên trời. Anh Khưu cùng sứ bộ hãy nghỉ lại đây ít hôm để lấy sức đi tiếp. Lẽ ra phải đích thân tiễn sứ bộ đến biên ải. Nhưng từ ngày mai, ta phải ngồi ghế chủ tòa, xử kẻ phạm pháp

Nghe vua thân hành xử án, Luân không kiềm chế được sự tò mò

-Thưa, chắc là trọng tội, nên hoàng thượng phải đích thân xét xử?

-Phải. Kẻ ấy vì quá thương mẹ già, đã hái trộm quả lốc chín của nhà bên. Chủ cây lốc đệ đơn lên triều, xin ta đuổi kẻ ấy ra khỏi nước

Luân rất kinh ngạc

-Chỉ hái trộm mỗi quả cây chín, mà bị đuổi khỏi nước ư?

Vua Tân Tang lộ vẻ u sầu

-Mười mấy năm nay mới xảy sự việc thế. Mà luật nước Tân Tang chẳng có chỗ nào nói về tội trộm cắp. Nên ta đành xử theo lời khẩn thiết của nguyên đơn.

Nghe có ghé lại triều, đám quan quân ở biên ải vây quanh sứ bộ Tây Miêu

-Thưa, có nghe nhà vua chúng tôi nói gì về kẻ trộm lốc không?

Luân thuật lại lời vua Tân Tang. Bọn họ vỗ tay, hò reo. Nhưng lập tức lặng im

Luân thấy lạ, hỏi

-Sao vừa vui đấy lại buồn đấy?

Đám quan quân biên ải đáp

-Vui, vì vua đã thuận theo ý dân. Nhưng kể từ nay, nước Tân Tang chúng tôi phải chịu mất một người Tân Tang

Đương kiêm hoàng đế nước Xua Lôi là con vị vua đã bắt dân nấu đá núi

Sau khi xem quốc thư của vua Tây Miêu, vua ấy hỏi

-Các người muốn mua bao nhiêu giống lúa bươn?

Quan tể tướng Tây Miêu đáp

-Thưa, chúng tôi chưa dám định. Vì chưa biết hoàng thượng có thuận ý hay không

Nhà vua liền gọi lớn

-Bảo quan công khố vào chầu

Lập tức, một người nhỏ bé bước vào đại điện, cúi rạp trước vua

-Lúa trong kho còn nhiều hay ít?

-Muôn tâu hoàng thượng, các trấn phía bắc vừa nộp thuế hôm qua, nên kho thóc triều đang đầy

Khi quan công khố đã lui ra, nhà vua nói

-Chủ có thóc ưng thuận rồi đấy

Quan tể tướngTây Miêu nói

-Xin hoàng thượng định giá, để chúng tôi lo liệu

Vua Xua Lôi đáp, chẳng nghĩ ngợi

-Lúa của bản quốc là hạt ngọc trời ban. Một đấu thóc là một cân vàng

Thấy quan tể tướng toát mồ hôi trán, Luân vội nháy mắt ra hiệu, bảo hãy ưng thuận

Khi về đến nhà trạm, quan tể tướng than

-Tây Miêu ta đang nghèo. Vì thương nước thương dân, hoàng thượng ta đã cho vét công khố được năm mươi cân vàng để mang sang đây. Nay, số vàng kia chỉ đổi được năm mươi đấu thóc, làm sao đủ phân phát cho cả nước?

Luân nói

-Nơi nào được phân phát trước, mùa lên phải san sẻ thóc giống cho những nơi chưa có. Cứ mỗi mùa thêm một ít. Lần lần thì giống lúa ấy được gieo trồng khắp nước

Thấy lời Luân có lý, quan tể tướng cũng yên lòng

Về phần mình, Luân đã có mười cân vàng Gia mang từ Xuyên Lâm lên. Trên đường qua các nước, đã đem trầm đổi được mươi cân nữa

Ngày giao vàng lấy thóc đã định. Sứ bộ lại kéo đến chầu vua

Quan tể tướng Tây Miêu nói

-Nay chúng tôi đem vàng để xin đổi lấy bảy mươi đấu thóc

Vua Xua Lôi ngửa mặt cười vang

-Từ Tây Miêu lặn lội sang để mua số thóc chỉ đủ ngựa ta ăn một ngày ư?

Thấy quan tể tướng giận ra mặt, Luân sợ lỡ việc, vội trương vàng ra

Vua Xua Lôi xem vàng xong, lắc đầu

-Bản quốc chỉ dùng vàng ròng. Đây là vàng tạp, nên không thể đổi đủ bảy mươi đấu thóc

Quan tể tướng hỏi

-Thế, hoàng thượng cho chúng tôi được đổi bao nhiêu?

-Sáu mươi chín đấu

Vua đáp

Quan công khố liền đưa sứ bộ đến kho. Vua Xua Lôi đích thân xem đong thóc

Lúc đong đến đấu thứ sáu mươi, vua bảo quan công khố dừng tay, rồihỏi

-Các người định bao giờ trở về Tây Miêu?

Quan tể tướng đáp

-Thưa, nội trong ngày mai chúng tôi sẽ lên đường

Vua nói

-Tính đến ngày mai, sứ bộ đã lưu lại Xua Lôi ta chẵn năm hôm. Nếu có lời mời của ta thì khác. Đằng này, do việc làm ăn mà sang. Nên tổn phí hằng ngày, các người phải lo lấy

Luân nhìn vua ấy, mỉm cười

-Hoàng thượng phân rất phải lẽ. Chẳng biết mỗi ngày tốn mất bao nhiêu?

Vua đáp

-Quan nội hầu của ta đã tấu bày. Cứ tính thành thóc, mỗi ngày sứ bộ ăn tiêu mất hai đấu

Quan công khố vội quì

-Muôn tâu hoàng thượng, giờ thì thóc thêm bớt sao đây?

Vua nạt

-Đồ ngu. Năm ngày ăn hết mười đấu. Tức, phải bớt số thóc đã đong một đấu, rõ chưa?

Sứ bộ Tây Miêu vừa ra khỏi kinh đô Xua Lôi vài dặm thì có người chống gậy chạy theo, tự xưng là bạn quan thiếu phủ họ Thác, ở chân núi Lao

Luân bàng hoàng như đang trong mơ, nói

-Luân này không đời nào dám nghĩ có ngày mình đến được nước Xua Lôi để được gặp bạn cũ của quan thiếu phủ họ Thác

-Ngày ấy, ta và ông thiếu phủ thường lui tới với thầy Đa Trà. Trước khi chết, ông thiếu phủ căn dặn ta phải tìm mọi cách chuyển vật gia bảo này đến thầy ấy. Nay nghe sứ bộ có học trò thầy, ta băng đèo lội suối tới đây

Ông già núi Lao nói, rồi trao báu vật cho Luân. Đấy là một con chim phượng hoàng đang xòe cánh, làm bằng vàng, được đựng trong chiếc hộp nhỏ, cũng bằng vàng

Luân vô cùng cảm động, nói

-Tình thân giữa quan thiếu phủ và thầy Đa Trà là vô cùng sâu nặng. Nhưng nay thầy đã mất, tôn ông là chỗ thâm giao của quan thiếu phủ, xin hãy giữ lấy vật báu này

Ông già núi Lao nói

-Dòng họ ông thiếu phủ chẳng còn ai. Mà ông ấy coi thầy Đa Trà như kẻ sinh ra mình lần thứ hai. Nên mới có việc tặng vật gia bảo này

Ông lão bắt Luân phải nhận báu vật. Vì cho học trò Đa cũng như con của Đa

Nghe sứ bộ thuật chuyện mua thóc giống, ông già núi Lao thở dài

-Sau khi được thầy Đa Trà chữa khỏi bệnh câm, ông Thác nguyện phải làm điều hữu ích cho dân Xua Lôi. Liền đem thóc gieo ở đỉnh núi Lao. Nắng hạn kéo dài, lúa chỉ sống sót năm ba cây. Lại đem những hạt thóc gặt được từ những cây lúa ấy gieo lại. Lại hạn hán kéo dài, lúa chỉ sống sót một ít. Cứ gặt, gieo lại, đến lần thứ mười thì cây lúa chịu được nắng trời. Ông Thác đặt tên lúa bươn, rồi đem phân phát khắp nơi. Từ đó, dân Xua Lôi no cơm ấm áo. Kho thóc triều luôn đầy ắp, như sứ bộ đã thấy

Luân bùi ngùi nói

-Quan thiếu phủ quả là bậc khác thường.

Rồi xin sứ bộ tạm dừng chân, để mình đến thăm nơi thầy từng sống. Qua bãi chăn dê, thấy cỏ cây vẫn tươi xanh.. Vào nhà ông Thác, Luân ngồi thử lên chiếc giừơng Đa từng ăn nằm cùng ông ấy. Rồi trèo lên đỉnh núi Lao để tận mắt nhìn thấy mảnh đất đã sản sinh hạt lúa chẳng sợ nắng trời

Chang Lang Sử Lịch chép

“Bấy giờ là cuối xuân. Sứ bộ về đến nơi thì quan tể tướng nhuốm bệnh, mất. Để tỏ lòng biết ơn đối với một người Bắc Mân đã hết lòng với đất nước mình, vua Tây Miêu phong tặng tước đại quốc công, con cháu đời đời được hưởng lộc triều.Giống lúa bươn lập tức được phân phát cho các địa phương trong nước.

Vua nói

-Trời còn thương đất nước Tây Miêu, nên xui khiến anh Khưu đến mách bảo chuyện hạt giống quí. Ta đời đời ghi tạc ân này

Luân nói

-Nhưng không có hoàng thượng nhân từ, Luân này khó bề đến được nước Xua Lôi

Vua truyền đem bảo kiếm ra, rồi nói

-Nay anh Khưu phải trở lại Nga Sơn. Nhưng ta thì muốn giữ nguyên tước phẩm trong sổ bộ quan triều Tây Miêu. Nếu bằng lòng, xin hãy nhận thanh bảo kiếm này

Luân cảm động, nhận lấy kiếm thống lĩnh ngự lâm

Ngày Luân lên đường về nước, vua Tây Miêu đem năm mươi thớt voi tặng cho Nga Sơn để dùng trong việc chuyên chở

-Khi nào muốn làm quan Tây Miêu, khanh hãy sang đây với ta

Vua nói, lúc từ biệt Luân