← Quay lại trang sách

- 14 -20 - Lanh tay lẹ mắt-Thomas Stanwick

Stewart Whites về thị trấn quê hương Baskerville để dự lễ hội Chiến sĩ trận vong hàng năm.

Bữa sáng ở kho đạn cũ là dịp cho ông bắt kịp những tin đồn ở địa phương. Cuộc diễn hành ở phố Main bắt đầu lúc 10 giờ, với cờ xí, cựu chiến binh, vệ binh địa phương trong đồng phục thời thuộc địa, lại có ban nhạc trường học chơi rất sôi nổi. Các nhà lãnh đạo, viên chức thị trấn, và cả những cựu chiến binh danh dự vẫy chào khi đoàn diễu hành đi qua.

Stewart cũng đứng xem trên lề đường trước cửa hàng Ollie’s Army & Navy Store. Ngay khi một đơn vị bồng súng trường đi qua chỗ ông, đoàn diễu hành đứng lại. Trong hai phút, khi mọi người đều im lặng hoàn toàn, đơn vị này biểu diễn một màn bồng súng, di chuyển nó quanh người và tung lên không trung theo một trình tự được tính toán nhịp điệu chính xác.

Khi họ kết thúc, ban nhạc phía sau chơi liền một điệu quân hành và đoàn diễu hành tiếp tục, trong tiếng hoan hô la hét của đám đông.

Ngay sau đó, Stewart nghe tiếng quát tháo giận dữ trong cửa hàng sau lưng ông. Bước vào trong, Stewart thấy Ollie Fortison, ông chủ cửa hàng đang đỏ mặt tía tai đứng sau quầy với ngăn kéo của máy nạp tiền trống trơn. Ollie, cựu trung sĩ huấn luyện, trợn mắt nhìn bốn người khách đang hoang mang trong cửa hàng.

“Có chuyện gì vậy, Ollie?” Stewart bước tới hỏi.

“Chuyện này nè!” Ollie chìa cái ngăn kéo trống trơn ra. “Mới năm phút trước tôi kiểm tra thấy được hơn ba trăm, bây giờ biến mất sạch”.

“Kể lại từ đầu cho nghe coi”.

Ollie hít một hơi dài.

“Anh biết đó, Stewart, tôi mở cửa bán hàng cho tới khi hết diễu hành, để bán thêm cờ xí các thứ.

Tôi vừa mở ngăn kéo kiểm lại tiền thì đám đông bên ngoài đột nhiên im re. Rồi tôi nhớ ra là tới tiết mục biểu diễn của đội súng trường. Tôi cũng muốn xem, nên tôi chạy tới nhìn qua cửa kiếng, để nguyên ngăn kéo như vậy. Ngu quá trời! Có mấy người khách cũng bu quanh cửa kiếng nhìn ra như tôi, nhưng tôi không nhớ là khách nào. Khi hết màn diễn tôi trở lại quầy thì thấy tiền đã mất sạch!”

“Đứng ngoài đường tôi còn nghe tiếng ông la nữa. Gọi cảnh sát đi, Ollie”. Stewart quay sang những khách hàng, “Và tôi đề nghị quí vị ở lại đây để chờ cảnh sát tới lấy lời khai”.

Stewart quen mặt hai trong số bốn khách đó. Thứ nhất là Ellen Lilliot, một cô tóc nâu xinh đẹp mặc áo thun sát nách, quần soóc, và đôi guốc gỗ cột dây quanh cổ chân, cô có quầy bán hoa dưới phố. Thứ nhì là Paul Breen, quản trị viên hói đầu đã ngoài năm mươi. Breen mặc đồ lớn cứ như sắp đi làm với giày doanh nhân bóng loáng. Hai khách còn lại đều là thanh niên, một cậu có tóc húi cua kiểu lính, mặc quân phục và đi giày bốt cao cổ; còn cậu kia mặc áo thun, quần lửng, đi giày vải thể thao.

Nhìn quanh cửa hàng, Stewart không nhận ra điều gì bất thường. Trên các kệ trưng bày là áo quần, dụng cụ cắm trại, và đủ loại quân trang quân dụng lặt vặt. Sàn nhà lót gỗ thuộc loại được lau chùi và đánh bóng thường xuyên. Mọi sự hết sức bình thường. Ngay khi Ollie gọi điện cho cảnh sát xong, Stewart hỏi:

“Sau khi ông phát hiện mất tiền, có ai rời khỏi cửa hàng không?”

“Không thể được!” Ollie đáp. “Ở đây chỉ có một cửa ra vào, lại có chuông tự động nữa. Cứ mở cửa là chuông reo. Hồi nãy ông bước vào nó cũng reo đó.

Từ hồi bắt đầu diễu hành tới giờ đâu có thêm ai vào đây”.

“Nếu thế”, Stewart mỉm cười nói nhỏ, “ông phải bảo đảm không cho vị khách nào đi ra trước khi cảnh sát tới, nhất là...”

* Câu hỏi: Stewart sắp vạch mặt kẻ trộm, kẻ đó là ai, và tại sao ông đoán ra?

15

Ông chủ nhà tội nghiệp

Kevin Hammonds

Thám tử Rob Michael đến hiện trường thì thấy một đám đông đã bu quanh nạn nhân. Xác của Louis Andrews nằm ngay trên vỉa hè trước tòa nhà mười hai tầng của ông ta.

“Ông ta là Louis Andrews”, anh cảnh sát bảo vệ hiện trường nói. “Chủ cao ốc này”.

“Rơi từ nóc nhà xuống hả?” Thám tử Michael hỏi.

“Không”, anh cảnh sát đáp. “Cửa lên nóc nhà còn khóa phía trong và chỉ có Andrews giữ chìa khóa.

Mớ chìa đó còn nằm trong túi của ông ta”.

“Có nhân chứng không?”

“Chỉ một người”, anh cảnh sát dẫn Michael tới gặp một bà già đang ngồi trong tiền sảnh toà nhà.

“Đây là bà Seana Walters, ngụ ở tầng mười. Bà này nói thấy có người rơi xuống qua cửa sổ vài phút trước đó”.

Thám tử Michael cùng bà Walters trở lên căn hộ của bà ta để nghe lại lời khai.

“Tôi đang treo tấm màn cửa mới thì nghe tiếng la khủng khiếp”, bà Walters nói, “Rồi qua cửa sổ tôi thấy ông ta rớt xuống như một bao khoai”. Bà ta ngồi xuống cái ghế đu ngay cạnh ô cửa sổ bà ta vừa đề cập.

Michael nhìn quanh căn hộ. Nó gần như trống trơn.

Ngoài cái ghế đu và tấm màn cửa mới thì chỉ có một chiếc trường kỷ cũ ở cuối phòng và một cái TV cũ.

“Sau khi thấy vậy thì bà làm gì?” Michael hỏi.

“Tôi lập tức kêu cảnh sát”, bà ta đáp. “Rồi dùng thang máy xuống tiền sảnh”.

Michael leo thang lên tầng 11 và hỏi chuyện Sam Carton, người sống ngay bên trên căn hộ của bà Walters.

“Tôi chẳng thấy gì cả”, Sam nói. “Vợ tôi đi làm cả ngày. Tôi phải chăm sóc bọn trẻ”. Michael bước tới cửa sổ phía mặt tiền và cố mở ra. “Không mở cái cửa đó được đâu. Tôi đóng đinh chốt lại lâu rồi. Nhà có trẻ con mà, mình phải cẩn thận”. Michael thấy dấu mũ đinh đóng chốt cửa bên dưới lớp sơn khô cứng.

“Ông biết rõ nạn nhân không?” Michael hỏi.

“Tôi không muốn nói xấu người chết”, Carton đáp. “Nhưng ông Andrews chẳng tốt lành gì. Khu này hồi xưa vốn tồi tàn, bây giờ thì đỡ hơn nên có người cũng muốn đến ở. Thế là tự nhiên ông ta thông báo tăng tiền nhà lên gần gấp đôi. Nhiều người đã ngụ ở đây nhiều năm. Bây giờ làm sao họ trả nổi? Hay ông ta muốn tống bớt người nghèo để nhận khách thuê khá giả hơn?”

Sau cùng, Michael leo một tầng nữa để gặp người ở tầng 12, bà Grace Andrews, vợ của nạn nhân.

“Ông ấy mới đi khỏi một tiếng là bị té”. Bà góa phụ nức nở. “Ông nói phải làm mấy việc lặt vặt, lại còn hứa về ăn trưa nữa chứ”.

“Việc vặt gì vậy?” Michael hỏi.

“Ổng không nói rõ”, bà Andrews đáp trong khi tưới bồn hoa hồng ngoài bậu cửa sổ mặt tiền. “Ông ấy lúc nào cũng lo cho nhu cầu của khách trọ. Ông ấy tốt bụng lắm”.

“Còn ai khác có chìa khóa lên nóc không?”

“Không, chỉ mình ông ấy có”. Bà Andrews đáp.

“Ông hỏi chi vậy?”

“Để loại suy thôi”, thám tử đáp. “Đến đây thì tôi suy ra ai rồi”.

* Câu hỏi: Michael đã suy ra ai?

16

Cái chết của nhà điểu học

Philippe Jette

Buổi sáng rất đẹp khi bác sĩ Halldent bắt đầu đi bách bộ. Trời nắng ấm và chim hót khắp nơi. Nhưng khi rẽ theo con đường mòn thì ông thấy Vincent Lowery, nhà điểu học nổi tiếng thế giới, nằm úp mặt xuống đất với một lỗ đạn xuyên lồng ngực. Giữ nguyên hiện trường, bác sĩ Halldent chỉ rờ vài chỗ trên cái xác và xác định nạn nhân mới chết trong vòng một giờ.

Nhìn theo đường mòn, Halldent thấy cơn mưa tối qua giúp ông nhìn rõ những dấu chân trên đất ướt. Có hai nhóm dấu chân tới chỗ cái xác, nhưng chỉ có một dấu đi ngược lại theo đường mòn về phía Tây. Ông đi theo dấu chân đó và tới cửa một căn nhà gỗ khiêm tốn.

Khi ông gõ cửa, thư ký của Vincent Lowery ra mở. Đó là một người thấp bé, hói đầu, với cặp mắt láo liên. Ông ta thở hổn hển và coi bộ đang choáng váng sợ hãi.

“Tiến sĩ Lowery bị bắn chết rồi”, ông ta lắp bắp một cách hoảng loạn. “Tôi đang tính xuống thị trấn kiếm bác sĩ rồi báo cảnh sát”.

“Tôi là bác sĩ đây, và cũng thường giúp thanh tra Winters điều tra phá án. Bình tĩnh lại đi, và kể lại đầu đuôi mọi việc”. Halldent nói.

“Ông Vincent với tôi sáng nào cũng đi dạo sau khi mặt trời mọc, vì đó là lúc tốt nhất để quan sát thói quen kiếm ăn của nhiều loại chim. Sáng nay cũng vậy, nhưng khi đi được chừng 15 phút thì có tiếng súng nổ.

Tiến sĩ Vincent ôm ngực gục xuống liền. Tôi không biết phải làm sao nên trở về đây, chuẩn bị chạy xuống thị trấn thì ông tới”.

“Ông có thấy ai trong rừng sau khi nghe tiếng súng không?”

“Hình như tôi nghe có tiếng chân chạy xa xa, nhưng thật tình lúc đó tôi sợ quá và lập tức chạy về đây”. Anh thư ký lắp bắp. “Lúc này là mùa săn, chúng tôi vẫn thường nghe tiếng súng nổ nên chắc đây là tai nạn”.

“Ông mô tả hiện trường lúc đó được không?”

Halldent nói.

“Tôi nhớ lúc đó tiến sĩ kêu tôi để chỉ cho thấy một con chim tước bách hương hiếm gặp đang đậu trên một ngọn cây ngay trước mặt chúng tôi. Ngay lúc đó thì tôi nghe tiếng súng nổ và tiến sĩ Lowery ngã vật xuống”.

“Được rồi”, Halldent nói ngay. “Khi gặp cảnh sát, ông ráng bịa ra một chuyện khá hơn. Còn tôi thì tự hỏi tại sao ông phải nói láo như thế”.

* Câu hỏi: Làm sao Halldent biết anh thư ký nói láo?

17

Ngài cố Thống đốc

Stan Smith

Khoảng 9:30 tối, bà gia nhân Lidya Bronson đưa cảnh sát vào thư phòng của Robert Calvins. Ông cựu Thống đốc nằm chết trên thảm trong vũng máu. Giấy tờ trên bàn giấy bừa bộn. Khung cửa sổ kiểu Pháp mở hé, gió lùa vào lạnh cả căn phòng.

Thanh tra Joan Katrine cũng tới. Bà thẩm vấn Lidya trong phòng ngủ nhỏ xíu của gia nhân.

“Tôi đã làm cho ông Calvins ba chục năm rồi”, bà ta nói, “và chưa bao giờ gặp chuyện gì kinh khủng như thế này. Tôi không dám nói ông ta là người tử tế, nhưng từng này tuổi rồi tôi còn kiếm được việc làm ở đâu nữa?”

“Bà nói đêm nay ông Thống đốc có khách hả?”

Katrine hỏi nhẹ nhàng.

“Có người tới lúc 7:30 nhưng ông Calvins đích thân ra mở cửa. Ông có dặn tôi trước rằng sẽ có khách tới bàn chuyện chính trị và muốn đích thân đón khách. Nên khi nghe chuông cửa tôi vẫn tiếp tục rửa chén. Rửa xong, tôi về phòng này coi TV. Khoảng 8:00, tôi nghe cửa ngoài đóng lại”.

“Nhưng bà không biết khách đó là ai?”

Lidya lắc đầu.

“Sau 9:00 một chút”, Lidya tiếp, “tôi đi một vòng kiểm tra cửa nẻo với đèn đuốc thì thấy thư phòng còn sáng đèn, rồi có gió lùa dưới cửa lạnh cả chân tôi. Nên tôi gõ cửa. Không nghe tiếng động nên tôi mở cửa nhìn vào, và thấy...” Lidya nhún vai.

“Thống đốc có ghi hai cái tên trong lịch hẹn hôm nay”, Katrine nói. “Patrick Shepard và William Mason.

Bà có nghĩ khách đêm nay là một trong hai ông này không?”

“Tôi không biết. Họ mà vào thư phòng rồi thì bên ngoài chẳng nghe được gì”.

Patrick Shepard, nghị sĩ của tiểu bang, có mặt ở nhà tối hôm đó, và Katrine tìm gặp dễ dàng. Họ ngồi trong phòng khách, trên lầu văng vẳng tiếng nhạc nhè nhẹ.

“Robert bị giết à?” Shepard giật mình. “Kinh khủng quá. Cả tối nay tôi ở nhà đọc sách, chẳng nghe radio hay xem TV gì cả”.

“Hôm nay ông có ghé thăm ông ấy không?”

“Không, nhưng ông ta có gọi điện cho tôi ở văn phòng lúc 4 giờ chiều. Ông ta muốn giảng hòa sau vụ tụi tôi cãi nhau”.

“Cãi nhau về chuyện gì vậy?”

“Ồ, chúng tôi vốn là đồng minh chính trị, nhưng gần đây ông ấy lại ủng hộ một ứng viên nghị sĩ khác. Robert còn nhiều ảnh hưởng lắm”.

“Vậy là ông ta có thể có kẻ thù chính trị”, Katrine mỉm cười. “William Mason có phải là kẻ thù như thế không?”

“Có thể lắm”, Shepard đáp. “Ông ta cũng là thượng nghị sĩ, và đối địch Robert nhiều năm nay”.

“Calvins có nói ông ta sẽ gặp Mason tối nay không?”

“Chẳng nói gì với tôi cả”.

Katrine tới ngay nhà William Mason. Ông này mặc đồ ngủ ra mở cửa. Trong phòng khách, ông ta lấy khăn lau mấy cái ly.

“Chắc thanh tra tới vì vụ ám sát Calvins”, ông ta nói mệt nhọc. “Nghe tin trên TV tôi kinh hoàng quá”.

“Đúng vậy. Tôi được biết ông có xung khắc với ông ấy từ lâu. Trên lịch hẹn của ông ta cũng có tên ông. Lý do gì vậy?”

“Tôi không rõ. Có thể ông ta dự định gọi điện cho tôi. Điện thoại có reng mấy lần nhưng tôi để máy tự động trả lời. Tôi muốn nghỉ ngơi”.

“Ông biết có ai muốn hại Thống đốc không?”

“Tôi cũng nghĩ nát óc mà không ra”, Mason nói.

Có người chắc cũng nghĩ tôi thù oán ông ấy. Nhưng thiệt tình tôi bị bao tử hành suốt ba bữa nay mà chưa bớt. Tôi chẳng ra khỏi nhà, ngoài chuyện bước ra ngoài bỏ bao rác hôm qua và coi thùng thư. Tôi sống một mình, bà thấy rồi đó”.

“Có ai tới thăm ông mấy ngày nay không?”

“Không. Nếu nhớ ra gì, tôi sẽ gọi cho bà. Bây giờ bà đi rót giùm tôi cốc nước được không?”

Katrine rót nước trong căn bếp, nhìn thấy chồng thư trên kệ bếp. Liếc vào thùng rác để xác minh chuyện Mason có đi bỏ rác. Trong thùng rác chỉ có mớ thư quảng cáo và mấy vỏ lon súp, sữa và thịt hộp dầm ớt. Thỏa mãn, bà đưa cốc nước ra cho chủ nhà và cáo lui.

Khuya đó, lúc 3:00 sáng, Katrine bật dậy và gọi cho công tố viên tiểu bang.

“McCoy hả?” bà nói. “Ông viết cho tôi lệnh bắt khẩn cấp. Tôi nghĩ ra nghi can trong vụ Calvins rồi”.

* Câu hỏi: Katrine nghi ai là thủ phạm?

18

Đường dây điệp viên

Thomas Stanwick

Gerald Everton, nhà lo-gic học, sáng nay có khách lạ tới thăm. Với khả năng suy luận, ông thường giúp giới an ninh phá nhiều vụ án quan trọng. Nên người khách sáng nay đến cũng vì lý do đó. Ông ta là Alan Cooper, nhân viên FBI. Sau khi chào hỏi, tự giới thiệu, nhấp một hớp trà, ông ta đi ngay vào công việc.

“Sau một thời gian điều tra, chúng tôi khám phá ra một đường dây gồm năm điệp viên ở Royston, họ bán bí mật của công nghiệp quốc phòng cho một tòa đại sứ nước ngoài ở New York. Tên họ năm người này đã được xác minh. Chúng tôi đang nghe và xem trộm các liên lạc của họ với nhau.

Chúng tôi tin rằng nhờ những liên lạc này mà chúng tôi sẽ tìm ra một đường dây tương tự ở Midwest, nên chúng tôi chưa muốn bắt họ vội. Rắc rối là ở chỗ họ liên lạc với nhau qua bí danh, và chúng tôi muốn xác định bí danh của từng người để hiểu trọn vẹn các liên lạc của họ”.

Everton lấy ra giấy bút sẵn sàng và hỏi, “Đến nay các ông thu được sự kiện nào rồi?”

Cooper mở sổ tay ra.

“Chúng tôi có các bí danh như sau”, ông ta nhếch miệng cười. “Comet, Cupid, Dasher, Dancer và Donder. Còn các điệp viên ở Royston gồm có: Một là Sal Abelardo, kỹ sư xây dựng của hãng Spacetech có vợ làm trong một nhà xuất bản và có vẻ không biết gì về chuyện ông chồng làm gián điệp. Thứ nhì là Peter Bircham, độc thân, làm gác dan ở nhà xuất bản nói trên. Thứ ba là John Cantrell, quản trị viên của công ty Aeroco, vợ chồng ông ta sống chung với em gái ruột của ông ta trong một tòa nhà ở trung tâm thành phố. Thứ tư là Tim Delmarin, độc thân, chuyên viên viễn thông cũng của công ty Aeroco. Người thứ năm là Telly Ephesos, nhân viên ngoại giao đã về hưu từng công tác hai mươi năm ở nước ngoài, ông ta có vợ nhưng không có anh em gì cả”.

Everton im lặng ghi chép trong khi Cooper ngồi chờ. Khi thấy Everton ngừng bút, Cooper nói tiếp.

“Qua các liên lạc nghe trộm được và qua điều tra, chúng tôi biết thêm được mấy chi tiết sau. Cantrell với bí danh ‘Dasher’ đôi khi cùng đưa vợ đi nghỉ hè chung. Bí danh ‘Cupid’ rất bất mãn với công việc hiện nay. Bà Abelardo thường xuyên thư từ với vợ của bí danh ‘Donder’. Hai bí danh ‘Comet’ và ‘Dasher? chưa từng ra khỏi tiểu bang. Bà Abelardo từng hứa hôn với anh trai của ‘Donder’. Sau cùng, Bircham tháng nào cũng đi Mexico City”.

Ngưng một lát, Cooper tiếp.

“Ông Everton, việc xác định bí danh của từng điệp viên là rất quan trọng đối với chúng tôi. Mong ông giúp cho càng sớm càng tốt”.

Everton ngồi im đọc lại các chi tiết ghi chép trên giấy, ngón tay ông vân vê mấy sợi ria mép. Lát sau ông viết vài dòng trên giấy và đưa cho Cooper.

“Đây, bí danh của từng điệp viên đây. Chúc chiến dịch thành công”.

* Câu hỏi: Bí danh nào là của ai?

19

Ăn trưa ở quán Quill

Eleanor Valleroy

Thanh tra Gilbert Bodwin của Scotland Yard cùng cố vấn Lesley Stanford bước vào căn hộ của Roger Sumpter lúc gần bốn giờ chiều. Sumpter, một người ngoài năm mươi, nằm bật ngửa trên ghế bành phòng khách, một lỗ đạn khoét ngay cuống họng. Máu chảy đầm đìa áo quần và chiếc ghế. Cái gối nhỏ để hãm thanh tiếng súng nổ vất ngay trên bàn. Những món khác trong phòng chẳng có gì đáng chú ý ngoài một bình oxy dựa trong góc phòng. Các nhân viên điều tra đang thu nhặt các chứng cứ hiện trường.

Bodwin trao đổi một lát với hai nhân viên rồi cùng Lesley bước ra hành lang khi Trung sĩ Caufield ra hiệu.

“Đây là Matthew Hanselman, thưa sếp”, Caulfield nói, chỉ vào một người mặt mày xanh lét đứng bên cạnh. “Ông này phát hiện xác chết và gọi điện cho cảnh sát từ căn hộ tầng dưới”.

“Tôi bán bảo hiểm, sếp”, Hanselman bồn chồn nói. “Tôi có cái hẹn lúc ba giờ với ông Sumpter. Một người giao hàng bước vào đây ngay trước tôi, nên tôi vào theo không cần bấm chuông, lên căn hộ số 3 của Sumpter như ông ấy chỉ dẫn. Khi gõ cửa không thấy ai mở, tôi vặn thử tay nắm thì thấy nó không khóa. Tôi hé dòm vô thì thấy ông ta nằm đó, máu me tùm lum. Tôi hoảng hồn chạy xuống tầng dưới, đập cửa một căn hộ, rồi gọi nhờ điện thoại ở đó”.

“Ông không bước vô hả?” Bodwin hỏi.

“Không sếp. Đến giờ tôi cũng không muốn vào nữa kìa!”

“Cám ơn, ông Hanselman”. Bodwin quay sang Lesley. “Bây giờ đi hỏi chuyện hàng xóm thôi, đi với tôi không?”

“Tôi có hẹn ăn trưa với bạn ở quán Quill”, Lesley đáp, “Hay ngày mai ông ăn trưa với tôi ở đó rồi kể chuyện cho tôi nghe, được không?”

Quill là một quán nhỏ gần khu nhà nơi xảy ra vụ án. Thực phòng ngộp mùi khói thuốc lá và khói từ nhà bếp. Bodwin và Lesley chọn một bàn trong góc.

“Sumpter bị suyễn, sống bằng nghề làm cố vấn quảng cáo”, Bodwin nói, “bị nghi có chơi trò đe dọa tiết lộ bí mật của người khác để tống tiền. Tụi tôi đang nghiên cứu giấy tờ của y xem có manh mối gì về động cơ giết người không”.

“Có tin gì từ hàng xóm không?” Lesley hỏi tiếp.

“Có chứ. Căn hộ tầng trên không ai ở. Hai căn tầng dưới là của hai bà già. Căn số 1 của bà Karen Sabre, góa phụ gần tám mươi rồi. Lúc 11:30, bà này có nhìn ra cửa sổ và thấy Sumpter đi vào tòa nhà. Khoảng 12:15, bà ta thấy một người nữa tới bấm chuông, nhưng không biết đó là ai. Bà Ruth Wentworth, sống trong căn số 2, cũng nghe tiếng chuông. Bà này cũng ngoài bảy mươi rồi”.

“Hai bà là bạn bè hả?” Lesley hỏi.

“Phải. Lúc 12:30, hai bà cùng ăn trưa với nhau.

Họ còn ngồi chơi với nhau trong căn số 2 đến hơn 3 giờ thì Hanselman đập cửa xin gọi nhờ điện thoại.

Wentworth có bấm nút mở cửa tòa nhà cho người giao hàng và đã nhận gói hàng, của một đứa cháu gửi cho.

Bà này không thấy người đàn ông lạ và Hanselman vào lúc nào, nhưng có tiễn người giao hàng ra khỏi cửa”.

“Vậy là phải tìm ra người đàn ông lạ mặt kia?”

Lesley nói.

“Tìm thấy rồi. Qua mô tả của bà Sabre, tụi tôi tìm ra một gã tên Paul Meyers, điều hành một công ty kiểm toán ở gần đây. Khi nói chuyện với Meyers ở văn phòng ông ta, ông ta thừa nhận có ghé thăm Sumpter.

Ông ta nói đang nhờ Sumpter làm thiết kế quảng cáo cho công ty của ông ta, và họ là bạn bè”.

“Theo Meyers”, Bodwin nói tiếp, “ông ta với Sumpter có tới đây ăn trưa, tháng nào cũng một hai lần như vậy. Meyers ghé lại rủ Sumpter đi, nhưng Sumpter nói bị kẹt công việc nên Meyers đi ăn một mình”.

“Chắc ông phải xác minh người giao hàng tới đó vào giờ nào”. Lesley nói.

“Đang điều tra. Cả Wentworth lẫn Hanselman đều không nhớ được tên công ty trên áo người giao hàng, nhưng chúng tôi đang liên lạc với người cháu của bà ta”.

“Tìm ra khẩu súng chưa?”

“Chưa. Mà cửa vào tòa nhà còn nguyên vẹn, được khóa cẩn thận”.

“Coi bộ ông điều tra đúng bài bản đó”. Lesley nói, nhưng xác định được kẻ tình nghi thì tập trung điều tra dễ hơn. Biết tôi nghi ai không?”

* Câu hỏi: Lesley nghi ai? Tại sao?

20

Dấu giày kẻ trộm

Hy Conrad

Chiều thứ bảy, Nina và Max chạy chơi trong rừng.

Lúc nghỉ xả hơi, Max nói:

“Hôm nay lạ ghê, không nghe thầy Reed tập kèn”.

Reed là thầy dạy nhạc trong trường. Khu rừng này nằm kế điền trang của thầy và thứ bảy nào chơi ở đây hai đứa cũng đều nghe thầy tập kèn trong căn chòi gỗ sau tòa nhà chính của thầy.

Ngay lúc đó hai đứa nghe tiếng quát tháo xa xa.

“Nghe giống tiếng thầy quá”. Max nói.

Hai đứa chạy ra bìa rừng, dừng lại trước sân sau nhà thầy. Giữa sân sau là căn chòi gỗ. Thầy Reed đang đứng ngay cửa chòi mở rộng, mặt mày cau có.

Khi hai đứa chạy tới, thầy đang cố kềm cơn giận dữ. “Thầy lại bị ăn trộm nữa rồi. Tối qua chắc thầy quên khóa cửa chòi”.

Max với Nina chưa từng vào đây nhưng có nghe nói về chuyện của thầy. Năm ngoái căn chòi tập kèn của thầy cũng bị trộm vào vơ vét sạch. Khi sắm đồ đạc mới, thầy đã bắt vít hết vào nền nhà, từ cái bàn, cái ghế cho tới tủ hồ sơ. Nhìn thoáng qua, mọi thứ vẫn gọn gàng. Rồi Nina thấy những mảnh vỡ của con heo đất trên bàn. “Nó đập con heo đất của thầy rồi hả?”

cô bé hỏi.

“Thầy đựng bộ sưu tập những đồng xu bạc trong đó”. Thầy Reed tức tối nói, rồi chỉ một chỗ trống trên kệ gắn cao trên vách. “Mọi khi thầy vẫn để nó ở đó”.

“Vậy là kẻ trộm thấy cửa không khóa nên lẻn vào, thấy con heo đất nên lấy xuống, đập ra...” Max nói với vẻ rành rọt.

“Coi nè”, Nina nói, “Có dấu giày. Đâu phải của thầy, phải không?”

“Không”, thầy Reed đáp, cúi xuống coi dấu giày.

“Từ thứ bảy rồi thầy đâu có vào đây. Ở đồng trống thế này, sàn nhà đóng bụi nhanh lắm”.

Max dò theo dấu giày, từ cửa tới kệ, trở lại cái bàn giữa chòi. Rồi dấu giày đi lung tung trong phòng.

Còn Nina săm soi ở chân chiếc tủ hồ sơ. “Đây có vẻ là dấu đầu gối”. Cô bé chỉ hai dấu tròn trước tủ hồ sơ.

“Làm gì mà kẻ trộm quỳ gối ở đây?” Cô bé cũng quỳ xuống nhìn vào gầm tủ và thấy ngay một vật kim loại.

Nina thò cánh tay gầy gò vào gầm tủ hẹp và nhặt được một đồng xu bạc trong đó.

“Kẻ trộm chắc muốn nhặt lại đồng xu này”, cô bé nói khi đưa đồng xu cho thầy Reed.

“Y đi giày thể thao hiệu SkyMaster”. Max nói tiếp. “Coi dấu giày là biết liền. Thế nào em cũng tìm ra kẻ trộm cho thầy”.

Hai đứa bắt đầu điều tra. Nơi chúng đến đầu tiên là tiệm Garvey, hiệu giày dép duy nhất trong thị trấn.

Ông Garvey cho biết SkyMaster là kiểu giày mới nhập về. “Bác nhập về tuần rồi, mới bán được ba đôi”. Rồi bác kiểm tra trên máy vi tính để tìm tên khách hàng qua hóa đơn.

“Người thứ nhất là Todd Jones, biết nó không?”

“Cháu biết chứ”. Nina đáp. Dân thị trấn này lạ gì Jones, nó cao kều, gầy gò, chơi vị trí trung phong trong đội bóng rổ của trường trung học.

“Đôi thứ hai bán cho Ollie Infree. Chắc hai đứa không biết tay này”. Ông Garvey nói.

Nhưng chúng biết. Ollie Infree là chúa ăn cắp vặt. Nó ưa mặc đồ màu đỏ nên trông giống một ông già Noel lùn tịt mà không có râu và từng bị bắt giữ nhiều lần, nhưng lần nào cũng thoát không bị kết án. Đôi thứ ba bán cho Mona Everest. Cô này cao như Jones và to con như Ollie, từng là võ sĩ môn vật tự do. Hai năm trước cô ta giải nghệ, về đây mở trại nuôi chó kiểng.

“Mình phải đi dò xét từng người thôi”. Nina lầm bầm khi rời hiệu giày. “Không chừng còn phải lẻn vào nhà họ...”

“Khỏi cần”, Max nói ngay. “Tớ biết kẻ trộm là ai rồi”.

* Câu hỏi: Max suy ra kẻ trộm là ai?