← Quay lại trang sách

-24 - 26 - Một âm mưu hoàn hảo-Christianna Brand---

Bill vừa từ nhà vệ sinh bước ra đã vội sớt ngay đĩa sò trên tay Theodore và bưng đến đặt ngay trước mặt lão Harold Caxton.

Theodore cười, “Rửa tay sạch chưa đó, ông bạn?”

Bill đỏ mặt nhìn Harold, rồi quay sang nhìn Elizabeth đang ngồi im lìm đối diện Harold. Thanh tra Cockie, khách mời trong bữa tiệc cưới của chủ nhà lầm bầm:

“Mấy tay trẻ này giỡn chẳng đúng chỗ chút nào cả!”

Harold lừ mắt nhìn Theodore và Bill, rồi cúi xuống nhìn dĩa sò với vẻ giận dữ.

“Elizabeth, em biết là anh không thích món sò này chút nào, sao không làm món thịt hun khói?”

Elizabeth, cô dâu trong bữa tiệc cưới hôm nay cười gượng:

“Anh biết là nhà không có đầy tớ nên em chọn mấy món thật đơn giản”, và như để thêm phần thuyết phục, cô thêm. “Với lại mấy lần đi ăn ở nhà hàng, thấy món này ngon nên em đặt luôn”.

Như để làm vui lòng cô dâu, Harold Caxton nuốt vội con sò cuối cùng và chùi mấy ngón tay múp míp vào khăn trải bàn, lão chuyển sang nói chuyện với tay thanh tra.

“Bọn ong bắp cày làm tổ trên cây du rồi”, nói xong lão móc khăn ra và xỉ mũi thật mạnh. “Quỷ bắt cái chứng cảm lạnh này đi!”

“Tôi thấy ông đang nghiên cứu chúng”. Thanh tra Cockie nói, ám chỉ mấy con ong. “Trên bàn phòng khách có một lọ thuốc diệt côn trùng mà”.

“Ừ, tôi chỉ muốn diệt sạch lũ chết tiệt này!” Lão nói và nhìn quanh, lộ vẻ khó chịu, làm như khách khứa ở đây toàn là những con ong bắp cày vậy.

Dù hôm nay là tiệc cưới của mình, Harold cũng không giấu được vẻ khó chịu. Lão khó chịu với bà vợ trước đã chết cách đây vài tháng, và bây giờ đang tiếp tục khó chịu với bà vợ thứ hai, Elizabeth, vốn là y tá của bà vợ quá cố, còn quá trẻ, rất đẹp với đôi mắt xanh lơ và một trái tim nhạy cảm. Và lão cũng khó chịu với mọi người có mặt ở đây, Theodore, con trai của lão vì chán lão nên bỏ đi sống ở London, Bill con riêng của bà vợ quá cố đã bị lão đẩy đi sống nhờ những người bà con ở New York từ lúc còn nhỏ xíu, cả với bác sĩ Ross trẻ tuổi trị bệnh cho bà vợ quá cố, và hiện đang phụ trách theo dõi huyết áp và chứng hen suyễn cho lão, rồi khó chịu với mấy người bạn và cả những bà con nghèo khổ của lão nữa. Và dĩ nhiên lão cũng không chừa thanh tra Cockie, người được Elizabeth mời dự tiệc cưới này. Thanh tra Cockie có mối giao hảo với Elizabeth và đã rất ngạc nhiên khi hay tin cô lấy một lão khó ưa như Harold.

“Nhưng tôi cần một nơi nương tựa. Sống một mình cứ bị bọn trai trẻ quấy rầy hoài. Chán lắm”.

“Nhưng một y tá có tay nghề như cô có thể dễ dàng tìm được những công việc thú vị”. Thanh tra Cockie phản đối, nhưng rồi ông thở dài. “Harold Caxton giàu quá mà!”

Khi họ quyết định cưới nhau thì đầy tớ cũ trong nhà Harold nghỉ việc hết vì họ không muốn làm việc dưới quyền mụ y tá đó.

Bữa ăn tiếp tục với thịt nguội, rau trộn, dưa chuột thái - nước tinh khiết được bày lên (vì ông Harold kiêng rượu hoàn toàn.) Theodore lo thái thịt, Bill bưng, cả ông bác sĩ cũng chạy tới lui; duy chỉ có cô dâu là ngồi đó, im lặng.

Mấy dĩa thịt được bưng đi, mấy trái đào ngâm rượu được gắp ra. Bill bày muỗng nĩa bạc ra bàn.

Harold Caxton xỉ mũi, cất khăn tay vào túi, nhặt lấy muỗng nĩa bên cạnh, xem nó sạch chưa và xỉa vào trái anh đào, nhúng vào nước si-rô, đưa lên mũi ngửi - rồi lão nhìn quanh với vẻ giận dữ và đau đớn. Khuôn mặt lão trắng bệch, tím dần rồi chuyển sang đỏ bầm, lão chúi xuống bàn mặt úp gọn vào cái đĩa.

Elizabeth la lên. “Ông ấy nuốt phải hột anh đào rồi!”

Bác sĩ Ross chạy tới liền, chộp lấy tóc và cằm lão, đẩy lão ngồi dựa ra, lấy chiếc khăn ăn chùi si-rô bám đầy mặt lão. Rồi với sự nhanh nhẹn lành nghề, bác sĩ đặt lão nằm xuống sàn, gọi to. “Elizabeth, lấy giùm túi thuốc! Trên ghế trong phòng khách đó”.

Nhưng cô vẫn ngồi đó, há hốc kinh hoàng.

Theodore đang đứng cạnh cửa, chạy vội ra phòng khách mang túi thuốc vào. Bill đang quỳ cạnh bác sĩ, đỡ lấy nó và mở ra. Elizabeth tới quỳ bên cạnh, run rẩy, miệng lắp bắp. Ông bác sĩ la to:

“Lấy kim tiêm, một ống adrenalin”.

Ông tiêm ngay dưới da nạn nhân, nhồi ngực và hô hấp nhân tạo. Một lát sau, ông bắt mạch và buông xuôi:

“Vô ích. Ông ta chết rồi”.

Mọi người sững sờ. Elizabeth quỳ trợn mắt nhìn ông, rồi cô đứng phắt dậy, chạy bay qua phòng khách.

“Lọ cyanide biến mất rồi”.

Ông bác sĩ cầm khăn ăn đậy quả anh đào nạn nhân ăn dở.

Thanh tra Cockie đăm chiêu, cứ đi tới đi lui.

“Ai mua thức ăn cho bữa tiệc này vậy?”

“Tụi tôi đã thảo luận. Tôi, Bill và Theodore. Thật khó vì nhà không có đầy tớ mà tôi thì ở London. Theodore mang xuống hầu hết. Một hai món lấy của nhà hàng Fortnum”. Elizabeth đáp.

“Một hai món nào? Có anh đào không?”

“Có. Theodore tự tay mang xuống hôm qua. Anh ta lên xuống London suốt, để giúp Bill. Nhưng...” cô la lên.

“Không lẽ Theodore làm chuyện khủng khiếp này? Đó là cha ruột anh ta mà!”

Cockie quay sang Theodore. Anh ta la lên.

“Mấy người điên hết rồi. Ông ta là cha...”

“Anh đã dọn món anh đào lên, nhưng thực tế là ai đã khui hộp ra? Ý tôi nói là nó có bị mở nắp trước đó không?”

“Ồ không, nó vẫn còn nguyên xi”.

“Ai có thể chứng minh chuyện đó?”

“Elizabeth có thể xác nhận. Tôi đã chở cô ấy từ London về dự lễ cưới ở nhà thờ. Trên đường đi, tôi có ghé vào đây để đi vệ sinh. Cô ấy cũng vào để xem các thứ đã ổn chưa. Cô ấy có thể khẳng định mấy hộp anh đào vẫn còn nguyên xi”.

“Kể tôi nghe về vụ ghé vào nhà coi”.

“Tụi tôi ghé chỉ ba phút, trễ giờ rồi và ông biết tánh ông già tôi mà. Tôi nhào vào nhà vệ sinh, và khi ra tôi thấy cô ấy đang đứng ngay cửa phòng ăn nhìn vào và nói. ‘Vậy là tốt quá rồi’. Xong cô ấy vào nhà vệ sinh, rồi chúng tôi ra xe đi liền tới nhà thờ”.

“Vậy lọ cyanide vẫn ở trên bàn trong phòng khách chứ?”

“Phải, vì cô ấy nói ơn Chúa là Bill đã mua giùm rồi nên cô ấy khỏi bị ông già rầy rà”.

“Lúc đó không có ai ở nhà sao?”

“Không, Bill đã đến nhà thờ với ông già”.

Đến phiên Cockie thẩm vấn riêng Bill.

“Lúc mẹ anh mất anh có về không?”

“Không. Tôi ngồi tù hết sáu tháng vì đánh thằng cha ve vãn vợ tôi, tôi mới được tha cách nay mấy tuần thôi”.

“Vậy anh đã có vợ ở New York? Ly dị chưa?”

“Rồi. Và cô ta bỏ đi, hình như về nước Anh”.

“Có phải anh đã mang thuốc độc vào nhà này không?”

“Phải. Tôi mua thuốc diệt côn trùng giùm Elizabeth”.

“Nhưng theo tôi biết thì cô ấy có mua một lọ thuốc độc loại này ở London nữa mà?”

“Cô ấy nói đã làm vỡ nó rồi, và nhờ tôi xuống nhà thuốc ở làng mua liền trước ngày cưới để ông già khó chịu đó khỏi quạu làm mất vui trong ngày này”.

“Có phải anh đã trao dĩa thịt nguội cho bố dượng anh không?”

“Tôi? Chúa ơi, bộ ông không thấy mấy bà cứ giựt lấy dĩa trên tay chúng tôi để dọn lên sao?”

“Anh có nói với họ là dĩa này dành riêng cho ông Harold không?”

“Ông cứ đi hỏi họ xem. Nhưng dù sao thì thuốc độc cũng không có trong thịt nguội. Ông ta ăn đào rồi chết mà”.

“Thôi được, cám ơn anh”.

Cockie bắt tay ông bác sĩ.

“Hay thiệt. Ông ta chết ngay trước mũi ông và tôi. Nhân nói về cái mũi...”

“Tôi có ngửi thấy hơi thở của ông ta, chỉ có mùi rượu anh đào...”

Ông thanh tra đăm chiêu.

“Một bữa ăn kỳ cục. Ông ta là chú rể, lẽ ra mọi người phải làm vui lòng ông ta chứ, đúng không?

Đàng này ông ta ghét sò thì lại phải ăn sò. Không ưa thịt nguội thì có thịt nguội; ông ta hoàn toàn kiêng rượu, lại được dọn món anh đào ngâm rượu”.

Cockie ngồi chống cằm, đôi mắt chim ưng của ông nhìn vào khoảng không trước mặt. “Chắc hẳn có một kế họach được chuẩn bị chu đáo, nhưng là ai đây...?”

“Ông không nghĩ là Elizabeth chứ?”

“Elizabeth không hề chuẩn bị thức ăn. Cô ta vắng nhà liền ba ngày trước đó. Trừ một khoảng thời gian ngắn cô ta ghé qua trên đường đến nhà thờ. Mỗi người chỉ ở riêng một mình trong một hai phút - không đủ thời gian để mở nắp lọ, bôi lên quả anh đào, mà hộp anh đào vẫn còn nguyên xi, hay bôi lên thịt nguội hay mấy con sò.

Hay có thể Elizabeth đã thuyết phục ông ta uống thuốc gì đó trên đường từ nhà thờ về, vì cô ta là y tá mà”.

Bác sĩ Ross phản đối ngay.

“Ông ta bị cảm thường xuyên nhưng không bao giờ uống thuốc, dù trong nhà đầy thuốc viên cũng như thuốc nước”.

Sau đó là những cuộc điều tra, thẩm vấn - rồi những bức thư gửi đến Harold, đến nhà hàng Fortnum, đến hiệu thuốc trong làng, những cú điện thoại cho các luật sư của Caxton, các mối quan hệ của Bill ở New York, và cho những đầy tớ cũ.

Buổi chiều, thanh tra Cockie đứng ngoài ban công với bốn người trong cuộc.

Vẻ mặt Cockie thật nghiêm trang, ông nhìn thẳng vào Elizabeth.

“Đây là một vụ giết người có sắp đặt - chẳng có gì lưu lại. Tôi cứ tự hỏi phải chăng miếng anh đào đầu tiên ông ta ăn là miếng anh đào định mệnh?”

“Ông thanh tra, Harold đã chết. Chẳng có gì làm ông ấy sống lại - cả ông, cả chúng ta” Rồi cô òa khóc nức nở. “Sao ông không nghĩ ông ấy chết là do nhồi máu cơ tim? Ông ấy cao huyết áp mà”.

“Nhưng chồng bà đã bị giết, bà không nghĩ vậy sao?”.

“Nhưng đâu có chứng cứ gì cho thấy có người có ý định giết ông ấy. Không thể có thuốc độc trong miếng anh đào đó được”.

“Sao bà biết?”

Elizabeth đỏ mặt. “Không ai dại dột làm một việc lộ liễu như vậy cả”.

À, thanh tra Cockie gật gù, nhưng chai thuốc diệt côn trùng biến đi đâu?

Chợt ông thanh tra đổi đề tài.

“Elizabeth, hình như bà đã có một đời chồng rồi?”

Elizabeth bối rối, ba người đàn ông còn lại nhìn nhau.

“Phải, nhưng tôi đã ly dị với ông ta hồi ở Mỹ mấy tháng trước”.

“Bà thích món sò lắm hả?”

“Phải, nên tôi mới đặt món sò cho tiệc cưới”.

“Dù hôm trước ngày cưới bà đã ăn một dĩa sò và mua thêm một dĩa nữa mang về phòng mình!”

Elizabeth ngập ngừng.

“Hôm đó tôi...”

Ngay lúc đó người bà con của ông Harold bước vào xin gặp ông thanh tra.

“Thưa ông, tôi vừa tìm thấy lọ cyanide nằm trong bình hoa ở phòng khách”.

Và bà ta đưa ra, ông thanh tra cầm lấy, nhìn kỹ, nó vẫn chưa bị khui.

Mọi người ồ lên ngạc nhiên. Riêng Cockie mỉm cười, gật gù.

“Bây giờ thì tôi biết chắc thủ phạm rồi”.

* Câu hỏi: Ai là thủ phạm? Và người đó đã giết nạn nhân bằng cách nào?

25

Một cuộc thí nghiệm

William Brittain

Chuông reo hết tiết, đám học trò hớn hở ùa ra ngoài. Thầy Strang đang cất chiếc đầu lâu học cụ vào túi nhựa thì một người mặt mày thiểu não bước vào.

“Ồ, Donato. Có chuyện gì vậy? Vào đi”.

“Tôi vừa gặp ông Guthrey”, Russ Donato, giáo viên dạy hóa, nói. “Tôi bị đình chỉ công tác”.

“Đình chỉ? Anh giỡn hả?”

“Ông Guthrey vừa đưa tôi giấy đình chỉ ba mươi ngày. Tôi không thể dạy ở đây hay bất kỳ nơi nào khác trong tháng tới. Có lẽ là không bao giờ nữa”.

Quai hàm Strang trễ ra. Dù chỉ mới dạy ở trường Aldershot này hai năm, nhưng Donato đã chứng tỏ là một giáo viên hóa giỏi. Ông giỏi chuyên môn, nghiêm túc, trẻ tuổi, đẹp trai, rất được lòng học sinh.

“Sao vậy, Donato?”

“Chỉ tại con bé Sheila Palinger ở lớp mười. Nó nói với ông Guthrey là... ơ... nó ở trong phòng tôi, rồi... biết nói sao đây, Strang?”

“Nó nói là anh gạ gẫm nó, phải không Donato?”

“Phải, bây giờ tôi bị đình chỉ công tác, trong khi chờ Sở giáo dục điều tra”.

Strang mày mò mấy cái que thủy tinh trên bàn, cuối cùng ông hỏi. “Mà anh có làm chuyện đó không, Donato?”

Donato bất ngờ quay lại, mặt ông đỏ lên vì giận. Ông to tiếng.

“Dĩ nhiên là không rồi. Bộ anh nghĩ tôi làm vậy sao?”

“Chuyện đó Sở giáo dục sẽ bỏ ra ba mươi ngày để điều tra. Anh có muốn kể tôi nghe không?”

Donato nhún vai. “Chẳng có gì nhiều. Hôm qua tôi ở lại muộn trong lớp, chấm bài để sáng mai trả. Khoảng bốn giờ thì Sheila bước vào nhờ tôi giải thích bài thi học kỳ môn tiếng Anh. Tôi bảo nó đến gặp giáo viên tiếng Anh của nó. Nhưng nó nói mọi người đã về hết rồi, mà nó lại cần thông tin ngay”.

“Con bé không thi môn hóa à?”

“Không, nó chuyên về các bộ môn nghệ thuật. Dù không phải chuyên môn của mình nhưng tôi cũng ráng giúp. Nó chỉ ở trong phòng tôi không quá năm phút”.

“Nhưng chắc là ông Guthrey biết rõ là trong năm phút ngắn ngủi thì chẳng có gì xảy ra được”.

“Nhưng nó thì nói đã ở trong phòng tôi cả nửa tiếng. Con bé quả có tài thuyết phục. Nó kể vanh vách mọi thứ trong phòng tôi, cả những thứ tôi không thể nhớ”.

Strang đăm chiêu nhìn cái đầu lâu, cuối cùng ông nói.

“Đừng quá lo. Sở và ông hiệu trưởng không làm gì hại anh đâu. Nhưng dù sao thì anh đã bị buộc tội.

Để tôi gặp ông Guthrey thử coi”.

“Nhưng liệu họ có thể tống tôi đi chỉ vì lời nhảm nhí của một đứa con nít không, ông Strang?”

“Tôi e rằng có thể đấy, nếu có chứng cứ. Anh chưa được bổ nhiệm làm giáo viên chính thức. Họ có thể sa thải anh chỉ vì họ không thích kiểu giày anh mang, hay thậm chí màu vớ của anh nữa kìa. Nhưng đừng lo. Để tôi gặp ông Guthrey thử coi”.

Donato lắc đầu. “Con bé này là thứ ưa gây rắc rối. Cứ theo hỏi mấy câu ngớ ngẩn về bài tập của nó và lẩn quẩn chỗ bàn làm việc của tôi hoài”.

“Donato này, đừng về vội. Để tôi xem ông Guthrey nói sao về chuyện này rồi gặp lại anh sau”.

Khi Strang đến cầu thang dẫn lên văn phòng hiệu trưởng, ông mới thấy thật khó giấu vẻ lo lắng.

Trong phòng ngoài, khi đi ngang qua hộp đựng đồ thất lạc ông thấy có một cuốn sách giáo khoa hóa học nằm bên trên. Ông bước vào cánh cửa đề tên Marvin W.

Guthrey mà không gõ, và ngồi ngay trước bàn làm việc khổng lồ của Guthrey.

Đàng sau chiếc bàn đó là một ông nhỏ con với mái tóc xoăn bạc trắng đang nói chuyện qua điện thọai. Cặp mày ông ta nhướng lên lộ vẻ ngạc nhiên khi thấy ông thầy giáo sinh vật.

“Tôi sẽ gọi lại cho ông sau về chuyện này”, ông ta nói vào điện thọai, “Hoặc chúng ta sẽ bàn về nó trong cuộc họp Ban giám hiệu. Từ đây đến đó tôi sẽ cố điều tra chuyện này”. Ông hiệu trưởng gác máy, quay sang Strang. “Anh cần gì?”

“Tôi đến đây vì chuyện của Donato”.

“Chắc Donato đã kể anh nghe hết mọi chuyện”, Guthrey nói. “Fred Landerhoff, ở Sở giáo dục, từ sáng đến giờ đã gọi cho tôi bốn lần. Chính ông ta ra lệnh cho tôi đình chỉ công tác Donato”.

“Làm sao ông chắc được là Donato có tội hay không?”

Guthrey thở dài. “Thiệt là khó. Từ lúc chuyện này nổ ra, tôi nhận được cả trăm cú điện thoại hỏi sao tôi lại thuê một người như Donato. Dĩ nhiên là nếu không có chứng cớ thì chúng ta sẽ giữ Donato đến cuối năm học. Nhưng tôi e rằng những công dân tử tế ở thành phố này sẽ làm căng khiến Donato không chịu nổi phải bỏ đi. Mà dễ gì anh ta tìm được một chỗ dạy khác nếu phải ra đi”.

“Nếu anh ta có ý định tấn công một cô gái, hay làm bất cứ chuyện gì khiếm nhã, chắc chắn anh ta không làm chuyện đó trong lớp học. Nếu vậy, hãy cho anh ta một cơ hội để tự bào chữa. Đừng vội kết tội một người vì những lời không chứng cứ của một đứa học trò”.

“Nhưng tôi bị rơi vào thế kẹt. Sẽ chẳng có cách nào tìm ra chứng cứ đâu. Donato khai hoàn toàn khác hẳn những lời của Sheila. Và chẳng phụ huynh nào chịu tin là con họ nói dối đâu”.

Im lặng bao trùm, chỉ có tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ treo tường. Cuối cùng Strang nói.

“Chúng ta phải tìm cho ra chuyện gì đã thực sự xảy ra hôm qua. Nếu Donato có tội, thì ít nhất chúng ta cũng tẩy sạch được ngôi trường của mình. Còn nếu anh ta vô tội - mà tôi tin chắc - thì chúng ta sẽ cho mọi người hiểu rằng không ai có thể đưa ra một lời vu cáo mà thoát được sự trừng phạt. Ông Guthrey này, tôi có thể nhờ ai đó dạy giùm mấy tiết sinh vật tới được không?”

“Anh định làm gì?”

“Tôi muốn gặp Sheila. Con bé vẫn còn ở đây chứ?”

Ông Guthrey méo miệng cười. “Từ sáng tới giờ hai mẹ con nó cứ đóng ngay trước văn phòng tôi, kể đi kể lại chuyện này, và thư ký báo họ muốn gặp tôi lần nữa. Tôi phát mệt vì cứ phải nghe họ nói”.

“Bây giờ mình cứ gặp họ, nhưng lần này ông cứ để tôi tiếp”. Strang nói.

Ông Guthrey gọi thư ký, và vài phút sau Sheila bước vào, đi cùng bà mẹ.

Sau khi giới thiệu xong, Strang vào đề ngay, “Em có thể kể lại cho tôi nghe mọi chuyện không?”

Bà mẹ Sheila chen vào, “Sheila đã kể cho ông hiệu trưởng nghe mọi chuyện rồi. Tối hôm qua nó cũng gọi điện kể hết cho ông Fred Landerhoff, bạn tôi ở Sở rồi. Đừng bắt một đứa trẻ như nó cứ lặp lại hoài câu chuyện không hay này”.

“Mẹ”, Sheila lên tiếng, “con kể lại được mà. Con còn kể cho các bạn trong lớp và cả trường nghe nữa kìa”.

“Vậy em kể đi”.

“Hôm qua khoảng bốn giờ kém năm, đã tan học và các phòng học trống trơn. Em có mấy thắc mắc về môn tiếng Anh, và thầy Donato là người duy nhất còn lại trong trường, nên em bước vào phòng thầy. Thầy ấy... chỉ có một mình”.

“Có ai thấy em vào không?”

“Khi em bước vào, thầy bảo em ngồi xuống, rồi thầy đến bên cửa sổ và kéo rèm xuống. Lúc đó em không hiểu tại sao. Trong lúc chờ, em thấy trên bàn thầy Donato có một xấp bài thi. Bài trên cùng tám điểm. Một cuốn sách hóa mở ở trang bảy mươi ba”.

Strang tròn mắt. Con bé này quả có trí nhớ thật tuyệt. “Em có nhớ màu cà-vạt của thầy ấy không?”

Ông châm biếm hỏi.

“Ồ, nhớ chứ. Nó màu xanh, sọc đỏ. Mỗi ô vuông đều có một chấm trắng ở giữa”.

Strang thậm chí không nhớ nổi màu cà vạt mình thắt hôm nay nữa. Ông nhìn xuống. Nó màu nâu với những sọc xanh.

“Thầy Donato cầm quyển sách bước qua chỗ em”, Sheila nói tiếp. “Em nhớ mình nghĩ căn phòng sao tối quá, nhưng em vẫn thấy chiếc nhẫn vàng lấp lánh trên tay thầy. Khi thầy cúi xuống, một tay thầy chỉ vào cuốn sách, còn tay kia vuốt nhẹ tóc em. Rồi thầy gấp sách lại và nhìn vào mắt em. Em cảm thấy hơi sợ nhưng không dám nói gì. Xét cho cùng thì thầy Donato là thầy giáo. Rồi thầy nói... nói...”

“Ông ấy nói sao?” Strang hỏi nhẹ nhàng.

“Thấy ấy nói thầy thấy em... em dễ thương và... rất sung sướng khi được gặp riêng em. Rồi thầy bắt đầu sờ em. Thầy ấy... thầy ấy... thầy... ôi!” Cô ôm lấy mặt.

Guthrey hắng giọng. “Rồi em làm sao, Sheila?”

“Em không biết phải làm gì. Em nhớ là mình đã đứng dậy, lùi về phía cửa và bỏ chạy khỏi phòng”.

“Sheila này, em ở trong phòng thầy Donato bao lâu?” Strang hỏi.

“Khoảng nửa giờ”.

“Vậy mà thầy Donato nói em ở trong đó chỉ có năm phút”.

“Thầy ấy nói dối!” cô gái kêu lên. “Thậm chí thầy ấy còn đủ thời gian để làm thí nghiệm trước khi bắt đầu nói chuyện với em mà”.

“Thí nghiệm? Donato đâu có nói vụ thí nghiệm này với tôi đâu. Thí nghiệm gì vậy, Sheila?”

“Em không biết, em đâu có thi môn hóa. Nhưng dù sao thì thầy ấy vẫn làm thí nghiệm trong khi em ở đó. Điều đó chứng tỏ rằng em phải ở trong phòng đó hơn năm phút”.

“Em có nhớ gì về cuộc thí nghiệm đó không, Sheila?”

“Nhớ chứ. Có một cái giá bằng sắt trên bàn, bên dưới là một cái đèn cồn. Có một vật bằng thủy tinh lớn giống như cái chai và mấy cái ống. Ồ, em không biết, thật khó giải thích. Nó giống như những gì thầy có thể thấy trong mấy bộ phim khoa học viễn tưởng. Nhưng em có thể vẽ nó ra”.

Rồi cô vẽ một giá tròn bên trên ngọn đèn cồn. Trên giá có chiếc bình cổ cao đậy nút cao su. Một ống thủy tinh và một cái phễu được gắn qua mấy cái lỗ trên nút. Bên cạnh bình cao cổ là hai cái chai.

“Sheila, hai chai này chứa cái gì?”

“Để em nhớ coi. À, một chai có nhãn ghi cái gì như ‘Hickle’.”

“Hickle?”

“Phải. Còn chai kia chứa thứ bột đen ghi là ‘Fess’.”

“Tôi chưa từng nghe đến chất gì là ‘Hickle’ hay ‘Fess’ cả”. Guthrey nói.

Strang ngẫm nghĩ một lát, rồi viết ra giấy. “Em thấy mấy chữ này trên nhãn phải không, Sheila?”

“Phải”.

Ông xoay tờ giấy cho Guthrey thấy. Đó là hai chữ HCl và FeS.

Bà mẹ phản đối. “Chuyện đó đâu chứng minh điều gì chống lại Sheila. Con bé đâu rành môn hóa”.

“Đúng”. Ông Strang đồng ý. “Rồi sao nữa, Sheila?”

“Thầy ấy trộn hai thứ vào nhau, đổ nó vào bình lớn, rồi đặt lên ngọn lửa. Sau đó em chẳng nhớ gì nữa, vì lúc đó thầy ấy bắt đầu... thầy biết rồi đó”.

“Thôi được rồi, cám ơn Sheila, em đã giúp tôi rất nhiều. Bây giờ tôi có ý này, tối nay lúc tám giờ, mời em và mẹ em vào trường, chỉ để làm rõ một số điều thôi”.

Hai mẹ con nhìn nhau, nhún vai. “Miễn là ông Donato bị đuổi khỏi trường này là được rồi”.

“Tôi bảo đảm là toàn bộ sự việc sẽ được đưa ra ánh sáng. Tối nay tôi muốn mời ông Landerhoff, thầy hiệu trưởng, và cả ông Donato nữa”.

Tối đó mọi người tập trung đầy đủ. Strang đã chuẩn bị sẵn sàng cho một cuộc thí nghiệm.

Ông Fred Landerhoff, đại diện Sở giáo dục nói:

“Điều này hơi bất thường. Tôi muốn nói rõ là tôi có mặt ở đây là do yêu cầu của bà Palinger. Tôi muốn mọi việc rõ ràng...”

Strang khoát tay, “Xin quý vị bình tĩnh. Hôm nay tôi sẽ diễn y những gì đã xảy ra trong phòng ông Donato như em Sheila đã kể, và sau đó để cho quý vị phán xét xem ông Donato có tội hay vô tội”.

Ông kéo các rèm cửa xuống, làm y như những gì Sheila đã kể và vẽ trong tờ giấy hôm qua. Ông trộn hai chất HCl và FeS lại và đặt lên ngọn đèn cồn.

Chỉ một lát sau ông Fred Landerhoff đã xua tay và nói:

“Thôi, giờ thì tôi tin là ông Donato vô tội rồi”.

* Câu hỏi: Tại sao ông Fred Landerhoff biết là thầy Donato vô tội?

26

Kẻ khiêu vũ một mình

James McKimmey

Bernie McFarlane, thường ghé quán Dixon độ ba lần mỗi tuần, trên đường đi và về. Anh trở thành quen mặt với anh bồi đứng quầy, và anh cũng quen mặt nhiều khách thường xuyên ở đó. Nhưng anh không hề chú ý tới Frank Gravy.

Một bữa nọ, khi anh đang nhâm nhi ly Scotch quen thuộc, một ai đó bỏ đồng xu vào máy nghe nhạc.

Bản Stardust dịu dàng vang lên. Anh cảm thấy cực kỳ thư giãn và dễ chịu với cuộc sống của mình. Sau đó tới bài Tea For Two. Anh không nhớ ở Dixon có bao giờ chơi bản này chưa, nhưng đó cũng là một bài anh thích. Đột nhiên, người mà sau này anh biết là Frank Gravy tuột xuống khỏi chiếc đôn cao ở quầy, bước ra giữa phòng, quay người một vòng và bắt đầu khiêu vũ, đôi mắt nhắm nghiền, hai tay vòng ra như đang ôm một bạn nhảy vô hình.

Ông ta trạc tuổi Bernie, trông buồn bã và nghiêm trang, ăn mặc lịch sự đúng mức, nhưng không sát thời trang lắm. Hết bản nhạc, ông ta dừng lại, gập người chào, rồi trở lại leo lên chiếc đôn, cứ như không có gì xảy ra. Cả quán rượu im lặng. Có người khẽ ho. Rồi tới một bản nhạc mới.

“Bộ thằng cha này xỉn hả?” Bernie hỏi Pete, anh bồi quầy.

“Đâu có, mới một chai bia hà”. Pete đáp. “Mới xuất hiện mấy bữa nay. Lần nào cũng vậy”.

Lúc Bernie uống hết nửa cốc. Pete nói. “Để tôi cho ông coi”. Anh ta đi lại máy quay đĩa, bỏ một đồng xu vào. Bản Tea For Two lại nổi lên. Mọi người quay nhìn Gravy, và màn khiêu vũ một mình lập lại, y hệt như cũ. Bernie uống hết cốc rượu và đi về. “Dixon như vậy thì kì cục quá. Chắc mình phải đi kiếm quán khác”. Anh thầm nghĩ.

Nhưng anh vẫn trở lại quán ấy, không dễ gì thắng được thói quen. Frank Gravy đã thành một tiết mục thường xuyên ở đây. Anh cằn nhằn chuyện đó với tay bồi quầy. “Sao anh cứ để người ta chơi bản đó để thằng cha kia nhảy một mình. Làm vậy quán này mất hết không khí yên tĩnh cũ”. Hôm sau, anh thấy có tờ giấy ghi chữ “Máy hư” treo trên máy quay đĩa.

Hai hôm sau, vào buổi sáng, Bernie thấy báo đưa tin Frank Gravy, phụ trách tiếp tân của khách sạn Bell, đã bị bắt vì giết người cướp của vào ngày 20 tháng 4. Anh hoàn toàn sững sờ. Bài báo cho biết Gravy, 44 tuổi, đã làm cho Khách sạn Bell 22 năm qua.

Nạn nhân án mạng là Colin Avery, 56 tuổi, Giám đốc Khách hàng của khách sạn, sếp trực tiếp của Gravy.

Cô hầu phòng Ruby Higgins nhìn thấy Gravy cầm mô hình khẩu đại bác bằng sắt, vật trang trí thường đặt trên bàn Colin, từ phòng Colin bước ra và bỏ vào một phòng xép.

Cảnh sát ghi nhận Colin bị vật cứng đập vào đầu bể sọ, chết tại chỗ, các ngăn kéo ở bàn làm việc bị kéo tung, tiền bạc bị mất sạch. Còn mô hình khẩu đại bác dính máu được tìm thấy trong phòng xép. Chủ khách sạn nói có ít nhất là năm chục ngàn USD đã bị mất.

Frank Gravy bị bắt nhưng một mực phủ nhận tội ác cho dù dấu tay của ông ta rành rành trên hung khí.

Trưa hôm đó, Bernie nhận một cú điện.

“Chào ông Bernie. Tôi là Gravy đây”. Anh giật mình ngạc nhiên. “Tôi phải hỏi mãi mới biết số điện thoại của ông. Tôi muốn ông làm luật sư cho tôi. Ông có thể tới trại tạm giam để bàn chuyện không?”

Anh ngạc nhiên vì cứ nghĩ ở Dixon chẳng ai biết anh làm nghề gì. Tình trạng ẩn danh đó cũng là một điều thú vị. Nhưng anh cũng nhận lời, và hôm sau tới trao đổi một buổi với Gravy, đóng tiền cho ông ta tại ngoại và tiến hành điều tra theo những manh mối đã được cung cấp.

Ngày xử án thu hút rất nhiều báo chí và công chúng theo dõi, kể cả những khách quen của Dixon. Bên công tố mau chóng đi qua các thủ tục: trưng chứng thư cho thấy Gravy hoàn toàn không bị bệnh tâm thần, hồ sơ xét nghiệm dấu tay của Gravy trên hung khí. Nhân chứng đầu tiên được mời là cô hầu phòng Higgins. Đó là một nhân viên mẫn cán. Cô khai rằng hôm đó lúc 11 giờ trưa, cô dọn phòng trên tầng bốn. Cô kê cái xe đẩy ở cửa thang máy để dọn khăn nệm các thứ ra, rồi phát hiện mình quên cây lau sàn. Cô bèn cho thang máy xuống tầng một để lấy. Tại đó, cô ra khỏi thang máy thì thấy Gravy bước khỏi văn phòng của Colin Avery, tay cầm mô hình đại bác vấy máu, đang mở cửa phòng xép. Nhìn vào cửa phòng còn mở, cô thấy ông Colin nằm gục trên bàn. Cô tông chạy ra cửa và bảo một anh tài xế taxi ngoài đường gọi cảnh sát.

“Vậy là thang máy nằm nguyên ở lầu bốn từ lúc cô làm việc cho đến khi trở xuống lầu một. Tức là không có ai dùng thang máy, trong khoảng mười hay mười lăm phút đó?” Công tố viên hỏi.

“Đúng”.

“Ông Gravy có biết cô đang làm việc trên lầu bốn không?”

“Biết. Tôi luôn làm việc như cái đồng hồ”.

“Vậy là chỉ có Gravy và nạn nhân ở lầu một trong thời gian đó?”

“Đúng”.

Đến lượt Bernie chất vấn.

“Cô thấy ông Avery gục trên bàn, nhưng cô đâu có bước vào, phải không?”

“Không. Ai mà dám bước vào. Tôi chạy xuống nhà ngay lập tức”.

Công tố viên mời anh tài xế taxi. Anh này khai đã đậu xe chờ khách từ 10:30 tới 11:05, lúc cô Higgins chạy ra la hét gọi cảnh sát. Anh không thấy ai vào khách sạn cả. Tòa tạm nghỉ ở đây.

Buổi chiều, Bernie vào tòa, mang theo một máy cassette. Anh trình ra một báo cáo của cảnh sát nói về cái chết vào ngày 23 tháng 4 của một người tên là Maxwell Starling bị đập đầu chết ở Vineyard, cái ví của ông ta trống trơn. Cảnh sát kết luận là giết người cướp của, chưa rõ thủ phạm. Rồi anh xin tòa cho anh được chứng minh. Anh nhớ lại lần nói chuyện với Gravy tại phòng của ông ta ở khách sạn, sau khi được tại ngoại.

Ông ta đã chỉ tờ báo đưa tin vụ này và nói:

“Tay Starling này ưa làm trò thôi miên với tôi lắm. Làm như để thao dợt. Bây giờ hắn cũng bị giết rồi. Khách sạn này coi bộ xui thiệt”.

“Starling cũng ở đây vào hôm Colin Avery bị giết hả?” Bernie hỏi.

“Ông ta trú dài hạn ở đây mà. Phòng ba hai ba, tầng ba”.

Bây giờ, Bernie nói với tòa:

“Tôi muốn mời nhân chứng của tôi, ông Frank Gravy”.

Cả phòng xử ồ lên khi Gravy bước lên bục nhân chứng.

“Ông Gravy”, Bernie hỏi. “Ông có nhớ mình đã vào phòng ông Colin Avery và đập đầu ông ta bằng mô hình đại bác bằng sắt không?”

“Không, thưa ông”.

Bernie im lặng một lát rồi quay lại bàn của mình, bấm nút máy cassette. Những âm điệu của bản Tea For Two trỗi lên.

Frank Gravy bước xuống và bắt đầu nhắm mắt khiêu vũ với người bạn nhảy vô hình. Cả phòng xử im lặng. Có người bật cười. Quan tòa gõ búa. Bernie tắt máy và Gravy trở về chỗ.

“Ông vừa làm gì?” Bernie hỏi.

“Tôi không biết”. Gravy ngơ ngác.

“Thưa tòa, tôi muốn chứng minh rằng: Hiện trường hôm đó không chỉ có bị cáo và nạn nhân. Mà còn có kẻ khác. Kẻ này đã đập chết Avery, lau sạch dấu tay rồi điều khiển Gravy vào phòng lấy mô hình đại bác đem cất trong phòng xép. Một công việc vô hại trong những lúc bình thường. Người đó đã cố tình giấu cây lau sàn để cô Higgins phải trở xuống tầng một và nhìn thấy Gravy đang làm việc đó”.

“Phản đối!” công tố viên kêu lên. “Đó là suy diễn”.

“Vô lý! Tôi đang biện hộ cho thân chủ mà”.

Bernie nói.

“Bác bỏ phản đối”. Tòa tuyên bố.

“Có thể thân chủ tôi đã vui vẻ tham gia những cuộc thực tập thôi miên để làm những hành động vô hại, như khiêu vũ một mình hay cất giấu đồ đạc, nhưng làm hành động giết người? Khó tin lắm”.

Bernie mỉm cười nhìn quanh và nói tiếp. “Giả sử kẻ thôi miên thân chủ tôi là Maxwell Starling, người mà cảnh sát đã báo cáo là bị giết để cướp của vài hôm trước. Nhưng vào bữa xảy ra vụ án này, ông ta đã trú tại khách sạn Bell. Chính ông ta đã đập đầu Avery rồi dùng một kỹ thuật nào đó điều khiển Gravy làm những việc còn lại. Kỹ thuật đó có thể là một băng nhạc...”

“Phản đối!” công tố viên lại kêu.

“Bác bỏ!” Quan tòa đáp.

“Sau khi cô Higgins chạy ra ngoài tri hô”, Bernie đắc thắng tiếp. “Ông ta chỉ cần tắt nhạc. Gravy sẽ trở về bàn làm việc mà chẳng nhớ gì cả. Còn thủ phạm thì trở về phòng mình với mớ tiền lấy được. Hắn đã làm thế này”.

Anh bước tới bàn tang vật, cầm mô hình đại bác lên, vung một cái như đập vào đầu một người đang ngồi trước mặt. Sau đó đặt xuống bàn. Bước sang bàn mình, anh nhấn nút cassette. Lần này là bản In the Good Old Summer Time.

Frank Gravy bước tới bàn, cầm mô hình lên và đi ra cửa. Ông ta hỏi nhỏ viên cảnh sát câu gì đó rồi đi ra. Bernie tắt máy rồi kêu anh cảnh sát. “Anh ra kéo ông ta vào”.

Khi cả hai trở vào, Gravy trông rất hoang mang.

Ông ta trả mô hình lại bàn và trở về bục nhân chứng.

“Ông ta đã hỏi anh cái gì?” Bernie hỏi anh cảnh sát.

“Ông ta hỏi phòng xép ở đâu”.

Hôm sau, bên công tố kêu thêm các bác sĩ để chứng tỏ thôi miên không thể có tác dụng gì cả, Bernie chỉ bật bản Tea For Two lên và Gravy lại khiêu vũ một mình. Có thể anh không thuyết phục được quan tòa, nhưng anh đã gây ấn tượng mạnh với bồi thẩm đoàn. Khi phát biểu bào chữa lần cuối xong, anh tự tin rằng mình chưa từng làm một màn trình diễn nào hoàn hảo như vậy.

Bồi thẩm đoàn hội ý chưa tới năm phút và nhất trí rằng Gravy vô tội. Tất cả những người quen của anh lao tới chúc mừng.

Tối thứ sáu kế đó, khi nhân viên đã về hết và Bernie chuẩn bị đóng cửa văn phòng thì điện thoại reo. Mấy ngày qua, sau vụ xử, anh rất bận vì bỗng dưng số khách hàng tăng vọt. Anh nhấc điện thoại lên. “Bernie nghe đây”.

“Gravy đây. Tôi rất muốn cám ơn ông. Ông có thể ghé phòng tôi bây giờ không. Để uống với tôi một ly và để tôi gửi thù lao cho ông luôn. Năm ngàn đô để cứu sống mạng mình thì thật rẻ. Với lại, tôi còn có một ngạc nhiên cho ông”.

Bernie bật cười và nhìn quanh. Văn phòng vắng hoe.

Anh trả lời, “Tôi cũng có một ngạc nhiên cho ông. Thù lao của tôi là năm mươi ngàn chứ không phải năm ngàn đâu. Đó chỉ là khoản ông đã kiếm được. Tôi biết ông muốn lên làm Giám đốc Khách hàng từ lâu. Và tôi cứu ông được thì cũng có thể đưa ông vào tay cảnh sát được. Hãy gửi tiền vào tài khoản của tôi số... tại ngân hàng...”

Và anh gác máy trước khi bên kia kịp trả lời.

* Câu hỏi: Thái độ của Bernie nghĩa là gì? Và sự thực chuyện gì đã xảy ra?