← Quay lại trang sách

- 27 - 29 - Vụ án mạng chữ E-Ellery Queen-

Bài nói chuyện ‘Những tai nạn trong nghề điều tra hình sự của tôi’ mà Ellery trình bày tại Đại học Bethesda có thể được xếp vào loại tai nạn lớn nhất của anh. Nó xảy ra tại một trường đại học gần Washington DC, nơi đầy rẫy những tai nạn.

Anh đang tặng chữ ký cho mấy thính giả cuối cùng trong hội trường đã vắng người thì nghe tiếng kêu, gần như là gào lên.

“Ông Queen, chờ đã!”

Bình thường, anh chưa từng thấy ông hiệu trưởng nào chạy với vẻ hộc tốc như thế.

“Có chuyện gì vậy, giáo sư Dunwoody?”

“Phải! Chắc vậy! Tôi cũng không biết nữa!”

ông Hiệu trưởng Đại học Bethesda thở hổn hển. “Tổng thống với Lầu năm góc... Tướng Carter... Tiến sĩ Agnon không... Ôi trời, ông Ellery, đi với tôi ngay!”

Băng vội qua khuôn viên đại học cạnh giáo sư Dunwoody, Ellery cố hiểu ra sự vụ qua mấy lời lắp bắp của ông ta. Tướng Amos Carter có hợp đồng với tiến sĩ Herbert Agnon của Đại học Bethesda, một trong những nhà vật lý hàng đầu, để nghiên cứu trong một dự án tối mật của Lầu Năm Góc. Hàng ngày, qua một đường dây điện thoại riêng, Tổng thống nhận báo cáo trực tiếp của Agnon từ khu nghiên cứu đặt ở tầng trên cùng của Tòa Tháp, thành trì khoa học của trường Bethesda.

Tối nay, vào giờ thường lệ, Tiến sĩ Agnon đã không báo cáo. Tổng thống bèn gọi lại mà không ai trả lời. Gọi về nhà thì bà vợ cho biết tiến sĩ vẫn chưa về.

“Thế là Tổng thống gọi cho tướng Carter”, giáo sư Dunwoody kể tiếp. “Vì biết ông đang có mặt tại đây nên Tướng Carter bảo tôi mời ông tới ngay. Hiện ông ta đang ở trên Tháp”.

Ellery suy ra liền. Công trình của Agnon có dính tới Lầu Năm Góc và Tổng thống. Vậy là có vấn đề về an ninh, bất cứ cái gì xảy ra với ông ta cũng sẽ có tầm vóc toàn cầu.

Ngay lối vào Tòa Tháp bê tông mười tầng, anh đã thấy cảnh sát đứng đầy. Nhưng trong đại sảnh chỉ có ba người: Tướng Amos Carter, người anh quen từ lâu, một nhân viên bảo vệ phụ trách ca trực đêm, và một phụ nữ với khuôn mặt xinh xắn nhưng tái nhợt và vô hồn.

“Nhưng chồng tôi”, bà ta đang nói, như một cái máy. “Ông không có quyền, Thiếu tướng. Tôi phải gặp chồng tôi”.

“Rất tiếc, bà Agnon”. ông tướng nói. “A, Ellery kia rồi...”

“Có chuyện gì vậy, tướng Carter?”

“Agnon chết rồi. Bị ám sát”.

“Ám sát?” Khuôn mặt đỏ au của Dunwoody bỗng tái nhợt. “Trời ơi. Trời ơi. Sao thế được?”

Tướng Carter sừng sững như một bức tường.

“Chuyện còn gay go hơn thế nữa. Mọi ghi chép của ông ta về dự án nghiên cứu đều đã bị trộm sạch. Ellery, tôi cần anh lắm”.

“Tôi sẵn sàng đây. Liệu tôi có thể... Bà Agnon, tôi được biết bà cũng là nhà vật lý. Bà có giúp gì cho chồng trong dự án này không?”

“Tôi chẳng biết gì cả”, bà đáp vẫn bằng giọng máy móc. “Dự án của Herbert là tối mật”.

Giáo sư Dunwoody ôm vai bà, và bà ta bật khóc trông chẳng giống nhà khoa học chút nào. Thấy cảnh đó, Ellery khẽ nhướng mày, rồi anh quay sang tướng Carter.

Anh được biết tầng trên cùng của Tòa Tháp chỉ có hai phần: phòng thí nghiệm và phòng làm việc riêng của Agnon dành cho dự án tối mật của Lầu Năm Góc. Chỉ có một lối lên đó: đường thang máy riêng chỉ đi một tuyến từ tầng trệt lên thẳng đây, không dừng lại ở đâu cả.

“Đâu có ai dùng thang máy này mà không bị ghi tên và kiểm tra, phải không?”

“Đúng”. Người bảo vệ nói. “Tôi được lệnh phải ghi tên mọi người lên tầng này vào sổ tiếp khách. Ông Agnon cũng làm một sổ như vậy. Để đối chiếu. Tối nay chỉ có một khách thôi. Mời ông xem”.

Ellery nhìn vào sổ. Anh thấy có 23 khách trong tuần này. Vị khách cuối cùng - với ngày giờ thăm viếng đúng vào tối hôm đó - là giáo sư James G. Dunwoody.

“Ông lên gặp Tiến sĩ Agnon tối nay hả, thưa giáo sư?”

“Phải, anh Ellery ạ”. ông hiệu trưởng đổ mồ hôi.

“Tôi không liên can gì với dự án nghiên cứu này. Tôi chỉ ghé thăm vài phút. Lúc tôi về ông ta vẫn bình yên...”

Tướng Carter làm như không để ý gì. “Ellery, anh lên đó xem có thấy được manh mối gì không”. ông ta quay qua vị hiệu trưởng và bà vợ nạn nhân với cái nhìn u ám, rồi nói tiếp, “Vài phút nữa tôi lên theo liền”.

Trong văn phòng của Agnon, Ellery thấy ông ta ngồi ở ghế, gục xuống bàn, một con dao rọc giấy bằng thép cắm trên lưng. Cả văn phòng bừa bãi vì bị lục lọi.

Anh ngẩng lên khi tướng Carter bước vào.

“Coi nè”. Anh nói.

“Anh kiếm nó ở đâu ra vậy?”

“Trong tay phải Agnon, vo thành một cục”.

Anh vuốt tờ giấy ra. Chỉ là một mẩu giấy vuông nhỏ, thứ để ghi chú trên bàn làm việc, trên đó có viết bằng bút chì một nét gì đó cứ như một mẫu tự. Nó như hình dưới đây:

“Chữ E”. Tướng Carter nói. “Vậy là cái quái gì?”

“Vậy là nó không phải ký hiệu liên quan tới dự án nghiên cứu. Không phải bí số mật mã chứ, Thiếu tướng?” Ellery hỏi.

“Không. Ý anh là Agnon đã viết cái này trước khi chết hả?”

“Dĩ nhiên, nhát đâm không làm ông ta chết liền, tuy kẻ sát nhân cứ tưởng như thế. Sau khi sát thủ bỏ đi, Agnon đã gượng tỉnh lại và ghi cái này. Nếu đây không phải ký hiệu liên lạc giữa ông với Agnon, thì ta đang có thông điệp cuối cùng của Agnon về lai lịch thủ phạm”.

“Sao ông ta không viết cả cái tên ra?” ông tướng thắc mắc liền.

“Có thể ông ta sợ hung thủ sẽ trở lại, thấy mẩu giấy và thủ tiêu nó đi”, Ellery rầu rĩ đáp. “Nhưng tôi không ưa cách giải thích đó chút nào”. Anh trầm ngâm nhìn mẩu giấy.

“Theo tôi thấy”, ông tướng trở lại với những sự kiện cụ thể. “Người duy nhất lên đây tối nay là Dunwoody. Ông này bồ bịch với bà Agnon. Hai ông bà từng to tiếng về vụ này. Agnon có kể tôi nghe. Thế nên tối nay tôi phải tới gặp Dunwoody. Tôi không muốn can dự chuyện đời tư người khác, nhưng Agnon là dự án quốc gia, tôi không muốn ông ấy bị rối trí. Dunwoody cũng công nhận từng bị Agnon quát tháo về chuyện này. Nhưng ông ta nói ông ta biết mình có lỗi, và tối nay đã lên đây để xin lỗi Agnon”.

“Nhưng tôi nghi”, ông tướng nói tiếp sau một lúc im lặng. “Tối nay Dunwoody đã lên đây giết Agnon. Cũng có thể Pola Agnon, vợ Agnon, là gián điệp muốn đánh cắp kết quả dự án này. Bà ta vốn là dân tị nạn chính trị mà. Bà ta lợi dụng Dunwoody. Chuyện kiểu này thường gặp lắm. Mình phải tìm cho ra mớ giấy tờ ghi chép của Agnon. Không thể để chúng chuyển ra nước ngoài được. Ellery, anh nghe kịp không?”

“E”, Ellery nói.

“Cái gì?”

“E”, Ellery lặp lại. “Chữ này đâu dính gì tới tên James G. Dunwoody hay Pola Agnon. Hay nó dính tới công thức của Eistein E=mc2, trong đó E là năng lượng?” anh im lặng một lát. “Phải rồi. Có thể lắm! Chắc nó không phải chữ E rồi”.

Anh xoay tờ giấy chín mươi độ theo chiều kim đồng hồ.

“Như vầy là chữ M!” ông tướng nói. “Ai có tên viết tắt là M nhỉ?” rồi ông ta bồn chồn. “Nè, Ellery, tôi không ngồi đây suy luận với anh được. Tôi phải đi báo cáo cho Tổng thống...”

“Khoan”, Ellery lẩm bẩm và xoay tờ giấy thêm chín mươi độ nữa.

“Bây giờ là số 3! Số 3 có nghĩa gì trong dự án không, Thiếu tướng?”

“Chẳng có nghĩa gì cả”.

“Vị khách thứ ba chăng...? Để coi sổ tiếp khách”.

Ellery chụp cuốn sổ trên bàn Agnon. “Vị khách thứ ba trong tuần này của Agnon là...”

“Ai vậy?” Carter giật giọng hỏi. “Tôi cho thẩm vấn tay đó liền”.

“Là ông chứ ai, Thiếu tướng”. Ellery đáp. “Dĩ nhiên, tôi cho rằng...”

“Dĩ nhiên cái quái gì”, ông tướng đỏ mặt tía tai. “Bây giờ anh làm tới trò gì đây?”

Ellery lại xoay tờ giấy chín mươi độ nữa. Và nó trông kỳ cục thế này:

“W?”

“Không chắc”, Ellery đáp. “Tôi nghĩ nó không phải chữ W đâu. Này, Agnon gốc Hy Lạp phải không?”

“Vậy thì sao?”

“Vậy thì có thể Agnon muốn viết chữ omega trong bảng mẫu tự Hy Lạp. Chữ omega này viết giống chữ w trong mẫu tự La tinh”.

“Omega, nghĩa là cuối cùng?” ông tướng vặn lại. “Đây là cái kết thúc cuối cùng của Agnon rồi. Còn gì nữa?”

“Một nhà khoa học thì có cách nghĩ riêng của họ.

Ông ta không thể viết điều vô nghĩa lúc sắp chết. Chắc chắn ông ta muốn cho ta biết manh mối về hung thủ. Ông biết vị trí chữ omega trong bảng mẫu tự Hy Lạp chứ?”

“Biết. Rồi sao?” ông tướng đáp.

“Agnon không thể ghi tên hung thủ vì ông ta không biết tên hắn. Đó là một kẻ lạ. Nhưng ông ta biết hắn”.

“Anh nói gì tôi không hiểu?” ông tướng gắt lên.

“Vậy nghĩa là tôi đã biết hung thủ là ai rồi!”

* Câu hỏi: Theo bạn, hung thủ là ai, và Ellery đã suy luận thế nào?

28

Vàng thau lẫn lộn

Mignon Eberhart

Tôi gặp nàng ở phòng mạch thú y. Hôm đó chỉ là đợt khám định kỳ cho con chó Happy của tôi. Nàng là một phụ nữ cực kỳ hấp dẫn nhưng con chó của nàng thuộc loại thấy mặt là ghét liền. Nàng vắt chiếc áo mưa xanh lơ trên tay. Hai bàn tay và cổ tay nàng trắng ngần, để trần, không đeo món trang sức nào, và cũng không có nhẫn ở ngón áp út. Điều đó làm tôi thấy vui vui vì tôi vẫn còn độc thân, sống thoải mái bằng nghề tư vấn đầu tư ở một ngân hàng.

Cả hai chúng tôi ngồi ở phòng chờ vì ông bác sĩ chưa tới. Trời đang mưa và đã hơn bảy giờ tối. Nàng quay nhìn ra cửa còn tôi giữ chắc sợi dây buộc con Happy và nhìn nàng. Con Happy coi bộ thích con chó kia vì nó cứ chồm tới làm tôi giữ sợi dây đến đau cả tay. Con kia cùng chồm lại. Nàng chỉ lơ đãng quát nhẹ, “Nằm im, Lola”, rồi tiếp tục nhìn ra cửa.

Tôi kềm con Happy lại và nhìn đồng hồ. Đã bảy giờ mười hai phút. Tôi gợi chuyện, “Bác sĩ Sherman lại tới trễ rồi”.

Nàng lơ đãng gật đầu. “Phải, bảy giờ mười hai rồi”. Nàng nói mà mắt không rời khung cửa, với vẻ bồn chồn lo lắng.

Tôi nghĩ con Lola của nàng chắc bị bệnh nặng, nhưng trông nó rất bình thường, thậm chí còn hung hăng nữa. Tôi gợi chuyện tiếp. “Ông Sherman này giỏi lắm, chắc chắn sẽ chăm sóc được cho Lola của cô...”

Nàng liếc nhìn tôi. “Ồ, nó đâu bị bệnh gì. Tôi chỉ định đem nó gửi ở đây thôi”.

Ngay lúc đó cánh cửa mở ra và một người bước vào. Không phải Sherman. Đó là một người nhỏ con, gầy gò, mặc áo mưa kéo cao cổ và đội mũ sụp tới tận mắt. Hắn cầm một xắc tay phụ nữ đỏ chói. Chẳng nói một lời, hắn bước tới dúi vào người nàng. Nàng lập tức đẩy ra và lùi lại. Cả Lola và Happy đều chồm lên gầm gừ. Gã đàn ông sựng lại, nhưng rồi lại sấn tới đưa cái xắc cho nàng. Nàng lui lại đến sát tường. Con Happy chợt bung tới khiến tôi tuột cả sợi dây. Gã kia hoảng hồn nhảy lui ra cửa và lẹ tay đóng cửa lại. Con Happy tông vào cửa cái rầm. Tôi lật đật nắm lại sợi dây, trong khi đó nàng khẽ hỏi tôi. “Xin lỗi, ông tên gì vậy?”

Tôi đáp theo phản xạ. “Wickwire, James...”

“Cám ơn”, nàng nói rồi dúi sợi dây buộc Lola vào tay tôi và lao ra cửa. Còn lại tôi, hai tay hai sợi dây, với hai con chó lao vào làm quen nhau, hít hít ngửi ngửi, đi lòng vòng khiến dây của chúng quấn lung tung vào chân tôi. Tôi đang xoay sở tháo ra thì nghe đoàng một tiếng. Cả tôi lẫn chúng đều sựng lại. Rõ ràng đó là một tiếng súng.

Tôi chưa gỡ xong dây thì cửa bật mở, Sherman bước vào, kêu lên, “Ngoài kia có người bị bắn”. Rồi anh ta trở ra ngay. Hai con chó thấy cửa mở bèn lao ra. Tôi vội chạy theo. Chúng chen ngay vào đám đông ở lề đường. Tôi liếc nhìn vào thì thấy gã đàn ông nhỏ thó lúc nãy giờ đã nằm úp mặt ở đó trên vũng máu.

Không thấy cái xắc tay đâu, và cả nàng nữa. Tôi không tin nàng giết người. Vả lại tôi còn phải lo lôi cổ hai con chó trở lại phòng khám bệnh. Lát sau, Sherman bước vào. “Cảnh sát tới rồi. Happy có chuyện gì không?”

Sherman khám thường lệ cho Happy, và xác định không hề làm dịch vụ giữ chó giùm thân chủ. Thế là khi xong việc, tôi đành đem cả hai con chó về nhà.

Cho một con vào phòng tắm, một con vào phòng ngủ, lòng cứ thắc mắc tại sao ban đầu nàng không nhận cái xắc tay mà sau đó lại lao theo gã kia, vài phút sau là nghe súng nổ. Thế nghĩa là gì?

Đến mười giờ, bản tin TV cho biết: người bị bắn chết ở phố đó, giờ đó, là Sol Brunk, kẻ đã cùng một hoặc hai đồng bọn bắn một nhân viên phát lương lúc sáu giờ tối hôm đó, cướp đi khoảng 200.000 đô. Tuy nhiên người phát lương chưa chết, và vẫn còn đủ sức để nhận ra hình của Brunk, vốn đã có nhiều tiền sự.

Có tin đồn rằng một trong hai đồng bọn của y là phụ nữ nhưng họ không có mô tả nào chính xác, vì người phát lương bị bắn từ phía sau trong khi Sol Brunk khống chế anh ta ở trước mặt. Do đó anh ta chỉ thấy được mặt của Brunk. Không có đề cập gì tới cái xắc tay màu đỏ hay con chó Lola. Tôi chẳng hiểu gì cả, nhưng không thể tin rằng bàn tay trắng trẻo như của nàng lại có thể siết cò súng.

Tôi uống một cốc rượu và lờ mờ nhận ra có điều gì kỳ lạ ở nàng mà tôi chưa giải mã ra. Lúc gần nửa đêm, tôi chợt nghe tiếng gõ ở cửa sau. Cửa mở. Hóa ra là nàng. Nàng nhảy bổ vào vòng tay tôi, nhưng tôi còn đủ tỉnh táo để đóng cửa lại. “Có người đang tính giết tôi”. nàng kêu lên.

Tôi vẫn còn ngờ chuyện nàng cũng có thể là một sát nhân, hoặc đồng lõa, và tôi dè dặt hỏi, “Đó là xắc tay của cô phải không?”

“Dĩ nhiên rồi! Lola đâu?”

Tôi gạt chuyện đó đi. “Cô đã ở đâu từ tối tới giờ?”

Thế là nàng kể cho tôi nghe mọi chuyện.

Lúc sáu giờ, nàng ở một quán rượu quen. Đó là một quán được ngăn thành những ô riêng và phải nhìn từ trước mặt mỗi ô mới nhìn thấy người bên trong, chứ người trong mỗi ô không thể nhìn thấy ô khác. Nàng ngồi trong một ô, uống một cốc trong khi con Lola nhấm nháp một túi đậu phọng. Lúc sáu giờ băm ba, có hai người vào quán, ngồi ở ngăn kế bên, và bắt đầu nói chuyện. Họ không ngờ có nàng ở ô bên cạnh vì cả nàng và Lola đều im lặng.

Nàng nghe họ nói chuyện về vụ lỡ bắn chết tay phát ngân nào đó nên bây giờ phải ngồi đây để có chứng cớ ngoại phạm. Ngay lúc đó, Lola ăn xong túi đậu và bắt đầu rục rịch. Thế là họ nghe động, đứng lên nhìn qua vách ngăn và thấy nàng. Nàng hoảng hồn và vội đứng dậy kéo Lola đi liền, bỏ quên cái xắc tay đỏ trong quán. Đi vài bước, nàng thấy bảng hiệu phòng khám thú y và vào đó ngay. Nàng không dám đi xa hay về nhà vì biết giấy tờ trong sắc có ghi đủ họ tên, địa chỉ của nàng. Quả như thế, một trong hai tên đã đuổi theo nàng vào tới phòng khám.

“Và tay đó đã bị bắn”. Tôi nói.

“Tôi thấy. Lúc đó tôi vội chạy xuống xe điện ngầm và nghe tiếng súng. Quay lại thì thấy y gục xuống lề đường”. Nàng nói.

“Ai bắn y?”

“Thì đồng bọn của y chứ ai? Một tay trẻ đẹp trai, đội mũ nâu”. nàng đáp. “Chắc hắn muốn chiếm trọn số tiền cướp được. Rồi hắn dí theo tôi, qua bao chuyến xe điện, rồi taxi. May là tôi còn ít bạc nhỏ trong túi. Trước đó tôi đã kịp tra danh bạ điện thoại và biết được địa chỉ của anh. Hắn cứ bám theo tôi mà không làm gì được vì luôn có đông người chung quanh. Taxi chở tôi cứ chạy lòng vòng khu nhà anh mãi, rồi tôi mới lẻn xuống chạy tới cửa sau”.

Tôi húyt sáo gọi Happy, đếm tới ba rồi hỏi, “Sao cô biết bọn chúng vào quán lúc sáu giờ băm ba? Ở đó có đồng hồ không? Làm sao chúng có bằng cớ ngoại phạm được?”

“Ồ dễ lắm. Có một đồng hồ gần cửa quán, nó hơi thấp. Một đứa trong bọn chắc đã chỉnh lại trong khi tên kia nói chuyện với tay bồi quầy để che mắt. Bọn chúng sẽ chỉnh lại cũng theo cách đó khi rời quán. Khi chạy khỏi quán, tôi thấy nó bị trễ nửa tiếng”.

“Cô có tận mắt thấy... hắn chỉnh đồng hồ không?”

tôi hỏi.

“Không cần thiết. Tôi có trực giác về thời gian. Kỳ lắm. Tôi luôn biết chính xác giờ giấc trong ngày. Giống như... chó vậy. Nó luôn biết lúc nào là tới giờ ăn”.

“Thế sao cô không chịu nhận cái xắc?” tôi hỏi tiếp.

“Lúc đó tôi sợ lắm. Tôi đâu dám nhận với hy vọng y ta sẽ nghĩ rằng y nhìn lầm người và bỏ đi.

Nhưng chắc y nhớ mặt con Lola. Khi y rút lui vì con chó của anh tấn công, tôi nghĩ mình phải trốn ngay vì chắc chắn y sẽ quay lại tìm tôi”.

Chuyện sao mà khó tin thế. Trực giác về thời gian?

Happy đã chạy xuống quẩn dưới chân tôi. Tôi phải nắm xích cổ của nó và nghĩ tới việc gọi cảnh sát để bàn giao vụ này cho họ. Ngay lúc đó chuông cửa sau vang lên. Tôi bước tới.

“Đừng! Đừng!” nàng kêu lên, nhưng tôi đã mở cửa.

Một người bước vào rất nhanh. Áo khoác và nón của hắn đều màu nâu, trông hắn đẹp trai và nhã nhặn. “Ô kìa, dì Masie”, hắn nói. “Cháu đến để đưa dì về. Rất tiếc vì dì tôi đã quấy rầy, thưa ông”. Hắn quay sang tôi với vẻ phân trần. “Dì Masie không sao đâu, chưa cần phải vào viện tâm thần. Nhưng dì ưa hoang tưởng lắm, nhất là khi uống một hai cốc...”

Trong khi đó nàng lẩn ra sau lưng tôi. “Hắn chính là tên đồng bọn. Hắn đã bắn cái tên giữ xắc tay của tôi...” nàng kêu lên kinh hoảng.

Cả hai đều có một câu chuyện nghe rất hợp lý.

Tôi chưa biết phải tin vào ai, nhưng rõ ràng, tin lời hắn là tôi thoát ngay khỏi rắc rối này.

“Coi kìa, dì Masie”, hắn kêu lên và bước tới.

Nàng bấu chặt cánh tay tôi và kêu lên, “Hắn có súng đó!”

Tôi nhìn xuống bàn tay với cổ tay trắng muốt của nàng đang bấu vào tôi. Tôi chợt nhìn ra sự thật.

Ngay lúc đó, nàng gào lên “Lolaaaa...” còn gã kia thò tay vào trong áo khoác, còn tôi thì buông dây xích con Happy ra. Nó phóng ngay vào kẻ lạ. Trong phòng tắm có tiếng con Lola lồng lộn.

Mọi chuyện kết thúc tốt đẹp sau đó. Gã kia gào la xin tôi giữ con chó lại khi Happy cứ chồm lên cổ họng hắn. Tôi lấy dây trói tay hắn lại trước khi gọi điện cho cảnh sát. Hắn có một khẩu súng dắt trong thắt lưng và còn giấu xắc tay của nàng trong áo khoác.

Và quan hệ giữa hai chúng tôi, cũng như giữa Lola và Happy, đương nhiên là rất tốt đẹp suốt từ đó đến nay.

* Câu hỏi: Do đâu mà nhân vật chính trong truyện tin rằng mình đã nhìn ra sự thật và quyết định thả chó ra kịp thời?

29

Cuộc chơi truy tìm thủ phạm

Nedra Tyre

Sáu anh chị em chúng tôi luôn tụ họp tại nhà dì Felicity vào thứ ba đầu tiên trong tháng để dùng bữa tối rồi chuyện trò vui chơi với nhau chút đỉnh.

Hai ông anh lớn, Carl và Matthew, là luật sư.

Ông anh thứ ba, Andrew, là giám đốc ngân hàng đầu tư. Sau ba ông anh là tới ba chị em gái, gồm Alicia, chị lớn, vốn là doanh nhân rất quảng giao; rồi tới tôi, Sue, đứa bất tài nhất, và cô em út, Jeannie, đứa học hành giỏi giang nhất nhà và hiện còn đang học đại học.

Ba mẹ chúng tôi chết trong một tai nạn máy bay cùng với chồng của dì Felicity. Lúc đó Carl, anh cả, mới mười hai và Jeannie, em út, mới năm tuổi. Dì Felicity đã đem tất cả chúng tôi về nuôi nấng, bán ngôi nhà của cha mẹ tôi và đầu tư rất khôn ngoan vào nhiều cổ phiếu uy tín. Nhờ đó, khi trưởng thành, anh chị em tôi đứa nào cũng có được một tài sản làm vốn.

Tôi không có thiên hướng kinh doanh như các anh chị lớn hay trí óc thông minh như Jeannie, nên tôi ở lại với dì Felicity trong khi các anh chị lớn đều lập gia đình và ra riêng. Dì Felicity rất cần tôi, nhất là khi dì phát bệnh hen suyễn. Tôi cũng hoan hỉ khi mình có thể thay các anh chị em để chăm sóc dì lúc tuổi già, để đền đáp công lao dì đã chăm sóc bọn tôi hồi nhỏ. Tôi coi sóc việc nhà, gọi và nhận điện thoại thay cho dì vì dì run tay nên khó bấm số cho gọn gàng được. Tôi còn lo mua sách báo, tổ chức tiệc và tiếp đãi khách khứa khi dì tôi muốn kỷ niệm chuyện gì đó với các bạn già. Mỗi ngày tôi sử dụng điện thoại cả vài chục lần, một phần cũng vì các anh chị em của tôi thường xuyên gọi điện về để hỏi thăm sức khỏe của dì, phần khác là dì Felicity cứ bắt tôi gọi điện để biết tin tức của mọi người ra sao.

Sau những bữa tối ăn chung mỗi tháng một lần ấy, dì Felicity thường rủ bọn tôi chơi trò truy tìm thủ phạm. Cách chơi cũng đơn giản như trẻ con thường chơi. Luôn luôn là có một án mạng, một danh sách những kẻ tình nghi, và nạn nhân luôn để lại một manh mối. Dựa trên manh mối ấy, chúng tôi phải đoán ra thủ phạm. Trò chơi thường kết thúc lẹ làng vì bọn tôi chẳng có đứa nào thông minh và kiến thức rộng như Jeannie.

Thí dụ, danh sách tình nghi gồm Horace, Lewellyn, Mary Ann, Joan, Louis, Margaret và Lawrence. Còn nạn nhân chỉ kịp nguệch ngoạc để lại một chữ George.

Cả bọn chúng tôi vò đầu bứt tóc mà chả tìm được cách suy luận nào. Khi dì Felicity hỏi ý kiến lần lượt thì đứa nào cũng chịu thua. Tới Jeannie thì nó nói liền “Thủ phạm là Mary Ann”. Dì Felicity yêu cầu giải thích thì nó bảo, “Mary Ann Evans khi viết tiểu thuyết đã lấy bút hiệu là George Eliot, vậy George tương đương với Mary Ann”.

Một lần khác, danh sách tình nghi gồm Cleo, Annette, Josephine, Melissa, Maude, Frank, James và Warren. Còn manh mối chỉ là một nét vẽ uốn lượn như con rắn, trông giống chữ S.

Carl đoán, “Thủ phạm là Cleo, vì tên này giống Cleopatra, người đã chết vì rắn cắn, mà chữ S gợi tới con rắn”.

“Sai bét”, dì Felicity nói. “Vì tên trong danh sách là Cleo, chứ không phải Cleopatra”.

“Thủ phạm là Josephine”, Jeannie nói liền, “vì chữ S là nét vẽ phác một con thiên nga, vốn là biểu tượng mà Josephine, vợ của Napoleon, yêu thích”.

Và cứ như thế, Jeannie thắng cuộc hoài đến độ chỉ vài lần chơi, tức vài tháng sau, bọn tôi đều chán, nhưng vẫn cứ chơi chỉ vì muốn chiều ý dì Felicity.

Tuy nhiên, cuộc chơi cũng sớm chấm dứt.

Cuối tuần đó, một bạn cũ của dì, vốn là một nhạc trưởng nổi tiếng, tới lưu diễn tại thành phố của chúng tôi. Và dì đã mở tiệc chiêu đãi ông ta và toàn ban nhạc. Các anh chị em của tôi cũng dẫn vợ hoặc chồng tới dự, chỉ vắng Jeannie vì mắc đi thực tập ở tận Florence bên Ý. Chưa bao giờ tôi phải lo toan nhiều công việc và gọi nhiều cú điện thoại như thế.

Tối hôm đó, khi dọn bữa tối lên cho dì, tôi mệt đừ đến nỗi dì Felicity bắt tôi đi ngủ ngay, thay vì phải chăm sóc đưa dì vào tận giường. Dì nói để nhờ bà đầu bếp Finch làm việc này cũng được.

Tôi chỉ kịp liếc qua phòng của dì để yên chí rằng mọi thứ dì cần đều đã có sẵn: hai tập thơ của Keats và Hopkins, một ly cốc tai anh đào cho dì nhấm nháp khi đọc sách. Sau đó tôi đi ngủ luôn.

Sáng hôm sau, tôi thức dậy sau giấc ngủ 12 tiếng, cảm thấy thừa sức để gọi cỡ một trăm cú điện cho dì tôi. Tắm rửa xong, tôi lên phòng của dì. Tôi thấy tập thơ Hopkins rơi dưới sàn. Tôi đặt nó lên cái bàn thấp cạnh giường. Dì vẫn thường đánh rơi sách khi thiếp ngủ. Rồi tôi kéo rèm cho nắng sáng tràn vào, sau đó vén mùng để đánh thức dì dậy. Nhưng dì không mở mắt, cũng không mỉm cười với tôi như mọi khi.

Chỉ cần chạm vào người dì là tôi hiểu dì đã chết.

Tôi hoảng hồn gọi tên dì dù biết là đã vô vọng. Rồi tôi nhận ra mình còn phải làm nhiều việc khác.

Đầu tiên là tôi gọi bác sĩ Cowan. Ông này tới ngay lập tức, an ủi tôi vài câu và bắt đầu khám nghiệm ngay. Sau đó tôi báo tin cho tất cả anh chị em.

Họ cùng vợ và chồng cũng tới ngay. Chẳng mấy chốc trong nhà đã đầy bạn bè và người quen. Mãi sau cùng tôi mới gọi cho Jeannie bên Ý, nhưng cố thuyết phục nó rằng dì Felicity sẽ không muốn nó bỏ dở việc nghiên cứu để về dự đám tang của dì.

Việc đón tiếp khách khứa và chuẩn bị tang lễ làm tôi kiệt quệ. Nhưng điều làm tôi kinh khủng nhất là khi bác sĩ Cowan kéo tôi vào phòng riêng và nói nhỏ, “Tôi e rằng bà Felicity chết không bình thường. Có dấu vết thuốc ngủ trong ly cốc tai anh đào của bà. Có thể bà ấy đã dùng quá liều”.

Tôi nói lại chuyện này với Alicia. Chị ấy cũng hoảng hồn nhưng tỉnh táo hơn tôi.

“Tiền”, Alicia nói. “Dì Felicity rất giàu và sẽ để lại cho chúng ta rất nhiều tiền. Đó là động cơ sát nhân cho mọi anh chị em chúng ta. Dĩ nhiên là trừ Jeannie”.

“Vô lý”. Tôi phản bác. “Chúng ta ai cũng dư dả.

Mình đâu cần đến tiền của dì”.

“Mày ngây thơ quá, Sue à. Tình cờ tao biết Andrew đang rất kẹt tiền mặt. Carl có nhân tình nhưng vợ anh ấy không chịu li dị nếu chưa lột hết tiền của anh ấy. Còn Matthew...”

Tôi giơ tay chặn chị ấy lại vì không muốn nghe và tin những chuyện đó.

Sau cùng thì ngôi nhà cũng yên ắng lại. Chỉ còn tôi và vợ chồng bà đầu bếp Finch. Căn nhà khi không còn dì Felicity hình như đã mất hết sinh khí và cá tính. Tôi trằn trọc đến quá nửa đêm mà vẫn không ngủ được. Tôi không thể tin gia đình mình lại có kẻ sát nhân.

Sau cùng rồi tôi cũng thiếp ngủ. Trong đêm khuya, tôi tưởng như có tiếng người đi vào phòng của dì. Nếu là thủ phạm, chắc y ta muốn xóa dấu vết hoặc để thủ tiêu manh mối mà dì đã để lại, nếu có. Trò chơi của dì Felicity cũng chỉ là trò giải khuây và chỉ để chứng tỏ sự thông minh và hiểu biết của Jeannie.

Ý nghĩ đó khiến tôi bình yên chìm vào giấc ngủ.

Nhưng tôi thấy bất an khi tỉnh giấc vào sáng hôm sau. Tôi quyết định xem lại phòng của dì lần nữa.

Bước vào căn phòng đó, tôi nhìn quanh. Chẳng có gì lạ. Rồi tôi nghĩ ra, nếu trong giây phút cuối, dì hiểu ra có kẻ nào đã cho dì uống một thứ thuốc nào đó, thì lúc đó dì đã ở trên giường, và không còn đủ sức rời giường tới bàn viết nữa. Như vậy, nếu có manh mối thì nó phải ở loanh quanh cái giường này.

Nhưng cái bàn thấp cạnh giường thì chẳng có gì cả. Vẫn hai tập thơ, mấy cái ly để uống cốc-tai. Ngăn kéo trên đựng mỹ phẩm và thuốc men. Ngăn kéo dưới là giấy bút, nhưng chẳng có một chữ viết nào cả.

Tôi kéo khăn trải giường. Rõ ràng bà Finch đã thay khăn mới. Nếu có manh mối nào thì bà cũng đã tống hết vào thùng rác. Dưới nệm, trong áo gối, khắp nơi, tôi chẳng thấy gì cả.

Nhưng tôi không bỏ cuộc.

Tôi cầm tập thơ Keats lên, chẳng có gì trong đó cả. Dì Felicity chắc chắn biết rằng tôi không có kiến thức văn học và lịch sử như Jeannie, nên nếu có để lại manh mối, chắc chắn dì phải tính sao cho tôi có thể nhìn ra, vì Jeannie đang ở tận bên Ý. Rồi tôi cầm tới tập thơ Hopkins. Trong đây thì có một mảnh giấy để đánh dấu chỗ dì Felicity đang đọc dở. Tôi cầm tờ giấy đó lên. Ở mặt sau có một chữ viết bằng bút chì.

Chữ đó là TERENCE.

Tôi đọc to tên này lên. Nghe nó quen quen, nhưng tôi không biết tại sao quen. Tôi phóng xuống nhà, vào thư viện và tìm cuốn bách khoa nhân vật. Tôi rà qua cả chục tên Terence mà chẳng hiểu gì cả. Vô ích thôi.

Manh mối mà dì cho rằng dễ đoán với tôi nhất thì coi bộ tôi cũng đoán không ra.

Terence. Terence. Terence. Chẳng có nghĩa gì cả.

Rồi có tiếng điện thoại reo. Tôi chạy vội ra ngoài. Đó là ông Frame, chủ dịch vụ mai táng. Ông ta hỏi hai giờ chiều mai làm lễ chôn cất dì tôi thì có được không. Tôi bảo để tôi hỏi ý kiến các anh chị rồi sẽ trả lời sau. Ông ta đồng ý.

Tôi sẽ phải gọi cho bác sĩ Cowan để cho ông ta biết rằng dì tôi đã phát hiện mình uống phải chất gì đó pha trong cốc-tai, hiểu ra người cuối cùng vào thăm dì đã đầu độc dì. Dì đã gom hơi tàn để ghi lại manh mối về thủ phạm, nhét vào tập thơ trước khi nó bị rơi xuống sàn. Nhưng trước hết tôi phải gọi điện thông báo giờ tang lễ.

Tôi luôn gọi cho Carl đầu tiên, vì đó là anh cả. Đường dây của anh bị bận. Thế là tôi gọi cho Matthew. Anh nhất trí ngay.

Tôi gọi lại cho Carl. Đường dây vẫn bận. Nên tôi gọi cho Andrew rồi Alicia. Cả hai đều chấp thuận giờ giấc đó.

Tôi chỉ còn phải thông báo cho Carl thôi. Tôi lại bấm số của Carl: 837-3623. Đường dây vẫn bận. Tôi định bụng chờ chút nữa bấm số gọi lại vậy.

Đột nhiên, khi còn cầm điện thoại trên tay, tôi hiểu dì Felicity đã để lại một manh mối rất đơn giản mà chắc chắn riêng tôi sẽ hiểu ra, hoặc nhận ra, dễ dàng.

* Câu hỏi: Tại sao Sue suy ra được thủ phạm là ai?