- 30 - 32 - Ông hàng thịt tinh ý ở Nice-James Holding-
Cho đến buổi sáng khám phá ra cái xác ở quầy đông lạnh bày hàng, thì trong đời ông hàng thịt Jacques Beauregard chẳng có chuyện gì sôi động.
Sáng đó, như thường lệ, Martin Roget, cậu bé học việc mê đọc truyện hình sự, dậy vào lúc 7 giờ, rời phòng ngủ trên lầu, xuống nhà quét dọn, mở khóa kho lạnh, và vác thịt ra quầy đông lạnh bày hàng vốn quay mặt ra cửa kính mặt tiền. Xong bấy nhiêu việc, cậu mới lên gác gõ cửa đánh thức ông chủ. Ông Beauregard lúc đó mới dậy, tự làm bữa ăn sáng và chuẩn bị mở cửa hàng lúc 8 giờ rưỡi.
Hôm 28 tháng 7 đó, mọi việc không như thường lệ. Thằng Martin chạy ào lên phòng ông lúc 7 giờ 10, đập cửa ầm ĩ và gào lên, “Ông chủ! Dậy mau lên!
Xuống ngay! Có cái xác trong quầy đông lạnh!”
Mặc nguyên đồ ngủ, ông tung cửa phòng chạy ra, “Mày nói tầm bậy cái gì đó?” ông xuống tới cửa hàng, “Cái xác gì đâu, đồ ngốc?”
“Kia kìa”, nó chỉ quầy bày hàng đông lạnh đã mở toang.
“Tôi mới tính mang thịt ra bày...” Nó ngưng giữa chừng khi thấy ông chủ không còn nghe nó nói nữa.
Ông Beauregard gần như nằm dài trên quầy, nửa kinh hoàng, nửa ghê tởm. Ông cũng công nhận gã đó đã chết, hai mắt mở trừng trừng, hai tay xếp trên ngực, nằm đè trên đống thịt bán chưa hết hôm qua. Ông buột miệng rủa thầm “Mồ tổ cha nó!” rồi ông nói với Martin:
“Nè, ai như ông Maurice!”
“Đúng là ông ấy”, Martin đáp, “ông khách luôn trả tiền mặt”.
“Có một xác chết trong nhà mà mày còn nghĩ tới tiền được hả? Kêu cảnh sát liền cho tao?” ông Beauregard nạt.
“Dạ, tôi kêu liền, ông chủ”. Martin đáp và bước tới điện thoại.
“Khoan!” Ông Beauregard gọi giật lại khi Martin vừa đi hai bước. “Để tao nghĩ đã”.
Ông ta đứng tựa quầy, xoa cằm. “Rõ ràng ông Maurice bị ám sát. Có máu sau lưng ông ta chảy ra quầy kìa”. Ông ta bước tới. “Để tao coi thử”.
“Nếu mình thay đổi hiện trường là cảnh sát bực lắm đó”. Martin có ý kiến. “Chắc chắn họ sẽ muốn tìm dấu tay hay các thứ dấu vết khác”.
“Chắc chắn sẽ không có dấu tay hay manh mối gì đâu”. Ông liếc nhìn cái quầy một lượt. “Tiếp tao một tay coi”.
Họ mở rộng cửa sau quầy, lật cái xác lên, đủ để thấy một vết dao đâm ở lưng ông Maurice. “Được rồi”, ông Beauregard nói, “Để tao nghĩ tiếp”.
Họ im lặng một hồi, chỉ nghe tiếng đồng hồ tích tắc trong cửa tiệm còn đóng kín cửa. Đã 7 giờ 45 và họ phải mở cửa lúc 8 giờ rưỡi nếu không muốn mọi người thắc mắc.
“Nghe nè. Nếu mình gọi cảnh sát như luật pháp yêu cầu, thì mình đã làm đúng chuyện mà thủ phạm muốn mình làm, vì y bỏ xác vào đây mà”.
“Dạ”, Martin đáp.
“Nếu mình không làm thế. Tên sát nhân sẽ rất rối trí”.
“Để chi vậy?”
“Rối trí thì y sẽ lộ mặt ra”. Beauregard nói tiếp.
“Vả lại, nếu cả thị trấn Nice này biết có cái xác nằm trên quầy thịt của mình thì còn ai chịu tới đây mua thịt nữa? Thế là mình phá sản, thấy chưa?”
“Đúng thế”.
“Còn lý do nữa khiến tao không muốn gọi cảnh sát”.
Ông ta chờ Martin ngớ ra một lát rồi tiếp. “Người ta có thể nghi tao, hoặc mày, đã giết ông Maurice, vì vết dao trên lưng ông ta có vẻ là của loại dao nhọn như dao xẻ thịt”.
“Chết cha!” thằng Martin che miệng kêu. “Làm sao bây giờ?”
“Mình phải mở cửa bán hàng như thường”. Ông Beauregard đáp. “Tao với mày khiêng xác vào kho lạnh rồi tính sau. Mày là dân đọc truyện hình sự mà. Phải bình tĩnh và tỉnh táo mới được”.
Họ cùng nhau khiêng ông Maurice vào kho đông lạnh ở sau cửa hàng vốn dùng để dự trữ thịt, đặt ông ta vào vách, khuất sau những súc thịt treo tòng teng bằng những cái móc. Khi đặt cái xác xuống, Martin thấy một mảng tóc trên đỉnh đầu ông Maurice có vẻ như bị lật ra. Nó bèn đưa tay giật thử thì mảng tóc tróc lên, lộ ra cái đầu hói. “Hóa ra ông Maurice có dán một mảng tóc giả, ông chủ ạ”. nó kêu lên.
“Người ta hói thì xài tóc giả chứ có gì đâu!” ông Beauregard nói. Họ trở ra ngoài, lau sạch máu me ở quầy trưng bày. Sau đó, ông Beauregard liếc nhìn một vòng với vẻ hài lòng khi thấy khung cảnh cửa hàng không có gì khác thường. “Bây giờ, mình ăn sáng rồi mở cửa bán hàng như thường lệ. Và mày cố đừng có hé môi hay tỏ ra hoảng sợ đấy. Được không?”
“Dạ được”. Martin đáp.
Lúc ăn sáng, Beauregard nói tiếp.
“Tao đã đơn giản hóa mọi việc. Giống như xẻ một con bò thành những tảng thịt nhỏ vậy. Có ba câu hỏi mình phải trả lời. Thứ nhất, ai giết Maurice? Thứ nhì, tại sao giết? Và thứ ba, tại sao nó cố tình bỏ xác vào quầy bày hàng của mình? Hiểu chưa?”
Martin hăng hái gật đầu khi thấy ông chủ tin tưởng thảo luận với mình. Nhưng nó không thấy cách nào trả lời được mấy câu hỏi đó.
“Tao cần có thời gian đi tìm hiểu. Thấy chưa? Đến trưa, bán hàng xong, tao sẽ đi”. Sau cùng ông chủ hàng thịt nói.
Lát sau, họ mở cửa bán hàng như thường lệ. Không có chuyện gì đặc biệt xảy ra trong buổi sáng. Chỉ có điều, hai thầy trò sáng nay có vẻ đãng trí. Họ đã vài lần tính lộn tiền hoặc cắt nhầm phần thịt cho mấy khách hàng quen.
Gần trưa, lúc đã vắng khách, ông Beauregard chợt búng tay tách một tiếng.
“Có gì vậy?” Martin hăm hở hỏi. “Ông chủ nghĩ ra chuyện gì à?”
“Mày nhớ sáng qua không?” ông ta hỏi và trầm ngâm. “Mày nhớ sáng qua ông Maurice có vào đây, mua hai tảng sườn với bốn trái thận cừu không?”
“Nhớ chứ. Tôi đứng ngay quầy chứ đâu”.
“Khi ông ta ra tới cửa thì gặp ông...”
“Luật sư Bonfils”, Martin tiếp lời. “Người còn thiếu mình chín ngàn năm trăm franc”.
“Mày nhớ hay lắm”. Ông Beauregard nói. “Lúc đó tao thấy ông Maurice bật cười kỳ cục lắm, rồi hỏi ông Bonfits, ‘Xin chào ông luật sư. Bà nhà có khỏe không?’ Lúc đó tao ngạc nhiên lắm vì tao vẫn nghĩ ông Bonfits độc thân, lúc nào cũng mua thịt chút đỉnh cứ như cho một người ăn. Tao nghe ông ta lí nhí, ‘Cám ơn, cũng khỏe’. Khi ông Maurice đi ra, ông luật sư mới tới xin tao bán thiếu cho chút đỉnh nữa. Nhưng lần này tao thấy ánh mắt ông ta tức tối lắm”.
Tới giờ ăn trưa, Martin đóng cửa hàng còn Beauregard đi xem ngõ sau của tòa nhà. Ông nhìn cái ổ khóa cổ lỗ sĩ của cửa sau.
“Một thằng nhóc cũng mở được cái khóa này. Kẻ sát nhân chắc chắn đã đưa xác Maurice vào theo lối này. Thôi mình ăn trưa đi. Rồi tao còn phải đi thăm dò chút đỉnh nữa”.
Sau bữa trưa, ông Beauregard rời cửa tiệm rồi đến chiều ông ta mới quay về. Martin hỏi liền, “Có manh mối gì không, ông chủ?”
“Điều tra hai tiếng, tao mới trả lời được hai câu hỏi”, ông ta đáp.
Họ vào trong nhà. Ông Beauregard cởi mũ áo và ngồi xuống bàn.
“Tao gọi điện tới văn phòng luật sư Bonfils. Chiều nay ông ta đi vắng. Tới nhà ông Bonfils trọ, gặp bà chủ trọ, ông ta cũng không có ở nhà. Tao bèn xin gặp bà Bonfils. Té ra đó là bà Constance, khách hàng quen của mình. Bà chủ trọ nói bà ấy đã bế con về thăm mẹ. Tao bảo tao muốn gặp bà Constance để đòi chút tiền nợ, rồi than thở chuyện nhiều khách mua chịu tao nhiều quá. Bà ta bèn cho tao biết bà Contance cặp bồ, sống chung với ông Bonfils từ lâu nay. Họ có một con gái là Zou-Zou, và coi bộ rất nghèo dù ông Bonfils kiếm tiền cũng khá. Họ còn thiếu bà ta tiền trọ nữa. Tao bảo tao sẽ chờ chút xem bà Constance có về không. Bà chủ cho tao vào chờ trong phòng của họ. Tao lục được mấy cuốn sách có ghi, ‘Sách của Pierre St. Clair’ rồi còn viết thêm ‘Paris, 1979’ nữa. Tao so sánh với chữ ‘Bonfils’ viết ở thùng thư trước nhà trọ thì thấy giống nhau. Vậy là tao có một cái tên, một thành phố và một thời điểm.
Sau đó tao tới thư viện, lục báo Le Soir của Paris vào quãng những năm đó, tao xem mục ‘Xã hội thượng lưu’, thế là tao tìm được thẩm phán Pierre St. Clair, một người đã biến mất khỏi Paris do xấu hổ vì có vợ ngoại tình tùm lum. Có vẻ bà vợ này vừa giàu vừa đẹp, nhưng lại quá quắt, nên ông ta chỉ có nước bỏ đi vì bà ta không chịu ly dị. Có lẽ bà ta muốn dùng anh luật sư hiền lành làm bung xung cho cuộc sống trác táng của bà ta.
Tao độ chừng ông ta đã về Nice này, mở văn phòng hành nghề luật, sống ổn thỏa. Rồi ông ta gặp và yêu bà Constance. Hai người có con và luôn phải giấu diếm. Rồi có một tên khốn nạn đã biết ông ta ở Paris và nhận ra ông ta ở Nice, sau đó biết ông ta có vợ con ở đây, tức là phạm tội song hôn...”
“Và y đã tống tiền ông Bonfils?” Martin hỏi liền.
“Tao chắc vậy. Mày thử nghĩ một ông luật sư bị tống tiền riết rồi nghèo mạt luôn. Vậy mà gặp mình ở chỗ hàng thịt, tên tống tiền còn xỏ lá hỏi thăm về bà vợ bất hợp pháp của mình nữa chứ”.
“Không lẽ ông Maurice là tên khốn nạn đó?” Martin hoang mang.
“Nếu mày là ông luật sư đó thì mày làm sao?” ông Beauregard hỏi lại.
“Chắc tôi giết tên đó quá”. Martin đáp.
“Vậy là tao đã có giả thuyết cho hai câu hỏi: ai giết ông Maurice, và tại sao lại giết ông ta. Nhưng tao chưa giải thích được câu hỏi thứ ba: Tại sao thủ phạm lại bỏ xác vào cửa hàng nhà mình? Không lẽ nó muốn ướp lạnh cái xác?”
Martin trầm ngâm không đáp. Ông Beauregard tiếp:
“Nếu thủ phạm là ông Bonfils, thì ông ta đâu có thù oán gì tao. Tao cho ông ta mua chịu mà vẫn bán thịt có chất lượng. Tao vẫn đối đãi đàng hoàng tử tế với ông ta. Lẽ gì mà ông ta muốn vu oan giá họa cho tao...”
Martin chợt ngẩng đầu lên, vẻ mặt tươi tỉnh, “Tôi nghĩ ra rồi, ông chủ! Mình vô nghiên cứu cái xác là biết liền”.
* Câu hỏi: Martin tìm ra giả thuyết gì cho câu hỏi thứ ba?
31
Stan sát thủ
Geogre Simenon
Maigret đang gặp chuyện nhức đầu mà chưa có giải đáp. Trong bốn năm qua, một băng tội phạm đã tấn công năm nông trại ở miền Bắc nước Pháp. Tất cả đều là những nông trại hẻo lánh. Tội ác luôn xảy ra sau khi gia đình nạn nhân vừa bán nông sản xong và có một khoản tiền mặt lớn.
Tội ác rất dã man. Băng này giết người không gớm tay. Chúng giết sạch mọi người trong trang trại, kể cả trẻ em. Tất cả đều bị cắt cổ bằng dao. Không thể có chi tiết nhận dạng nào và không ai biết băng này có bao nhiêu tên.
Các nông trại lân cận đều ghi nhận có xuất hiện một xe tải nhỏ lạ mặt. Một thanh niên còn cho biết có trông thấy một tay chột mắt trên xe. Rồi tới một vụ ở Rheims. Băng cướp đã bỏ sót một tớ gái ngủ trên rầm thượng. Cô này trở thành kẻ sống sót đầu tiên. Cô ta nghe bọn này nói một thứ tiếng lạ mà cô nghĩ là tiếng Ba Lan. Qua một lỗ ở sàn nhà, cô thấy chúng trùm mặt nạ, nhận ra một tay chột mắt và một tay râu tóc xồm xoàm. Rồi tới một báo cáo của cảnh sát Lille, nơi có nhiều làng của dân Ba Lan nhập cư. Báo cáo này cho biết có nghe dân Ba Lan kháo nhau rằng đó là băng của Stan Sát thủ. Nhưng khi cảnh sát hỏi han dân làng thì chẳng ai hé môi một tiếng.
Thế là bế tắc. Cảnh sát chỉ biết gọi chúng là: Stan, Râu, và Chột.
Nhiều tháng trôi qua chẳng có tiến triển gì, cho đến khi một cảnh sát chuyên theo dõi các khách sạn phát hiện manh mối. Anh này phụ trách quận Saint Antoine vốn có nhiều dân Ba Lan nhập cư. Tại một khách sạn trên đường Birague, anh nhận ra một nhóm có một tay chột mắt và một tay râu tóc rậm rạp. Tay râu ria và vợ mướn một căn, thường xuyên có năm bảy khách đồng hương ghé lại ăn ngủ. Tay chột mướn phòng kế cận và cũng thường xuyên có khách. Bọn họ có vẻ nghèo, làm đủ việc vặt kiếm sống, và buổi tối túm tụm nhau ngủ trong hai phòng ấy, kể cả ngủ dưới sàn.
Nhưng những chi tiết ấy không hề là cơ sở để bắt giữ bất cứ ai cả. Vả lại Maigret hiểu rằng một băng nhóm dám cắt cổ mười sáu người trong bốn năm thì sẽ không ngại chuyện xả súng vào bất cứ ai khi thấy có nguy cơ bị kết liễu cuộc đời với án tử hình. Vả lại đó cũng là khu dân cư đông đúc.
Trong khi chờ đợi một giải pháp, Maigret đành cho nhân viên rải quanh khách sạn sáu tầng ấy: Janivier làm bồi bàn cho quán cà phê đối diện khách sạn, Lucas mướn một phòng ở tòa nhà đối diện, có cửa sổ nhìn xuống cửa sổ phòng của cặp vợ chồng Ba Lan, ngoài ra còn một lô nhân viên khác làm người bán báo, khách qua đường, tài xế taxi cứ thay phiên lởn vởn quanh khu vực đó hăm bốn trên hăm bốn.
Rồi Michael Ozep xuất hiện.
Bốn hôm trước Ozep đến sở cảnh sát, nhất định đòi gặp Maigret. Ông đã để tay này chờ hai tiếng, nhưng y không nản lòng. Khi được gặp Maigret, y tự giới thiệu liền:
“Michael Ozep, cựu sĩ quan quân đội Ba Lan, hiện đang dạy thể dục tại Paris...”
“Mời ngồi, cứ nói tiếp”.
Tay Ba Lan nói nhanh, phát âm ngọng nghịu đến khó nghe. Y giải thích rằng y xuất thân từ gia đình đàng hoàng, từng có vợ và một con trai, nhưng rồi vì một bất hạnh gia đình (cô vợ là con gái ông đại tá chỉ huy của y), y bỏ quê nhà lưu lạc xứ người, sống với nỗi tuyệt vọng cùng cực.
“Tôi không chịu nổi cuộc sống này, dạy thể dục cho bọn vô văn hóa và thất học”, y kể lể. “Tôi đã tự tử nhiều lần”.
“Đồ khùng...” Maigret thầm nghĩ. Ông không lạ gì với những kẻ bất bình thường muốn thổ lộ chuyện riêng với cảnh sát.
“Ba tuần trước tôi từ cầu Austerlitz nhảy xuống sông Seine, nhưng đội tuần tra đường sông vớt được”.
Maigret bịa ra một cớ để sang phòng bên cạnh, gọi điện cho đội tuần tra đường sông. Họ xác nhận vụ tự tử này.
“Sáu bữa sau, tôi bật hơi gaz để tự tử, nhưng một tay bưu tá tới mở cửa để giao thư...”
Một cú điện cho cảnh sát ở khu vực Ozep cư trú. Chuyện này cũng có thật.
“Tôi thực sự muốn chết. Đời tôi chẳng còn ý nghĩa gì. Nên tôi nghĩ ông cần một người như tôi...”
“Để làm gì?”
“Giúp ông bắt Stan Sát thủ”.
Maigret nhíu mày, “Ông biết hắn sao?”
“Không, nhưng tôi nghe đồn về hắn. Tôi thù ghét những tên Ba Lan làm ô uế đất nước này, một đất nước đã tiếp nhận họ. Tôi biết Stan sẵn sàng giết người. Nhưng tôi lại sẵn sàng chết. Ông cứ cho tôi biết hắn ở đâu, tôi sẽ tới gặp. Ít nhất tôi sẽ làm hắn bị thương trước khi tôi chết”.
Maigret chỉ còn nước trả lời theo thủ tục, “Xin để lại địa chỉ. Có gì tôi sẽ tìm ông sau”.
Michael Ozep sống trong một căn hộ ở đường Tournelles, không xa đường Birague lắm. Một cuộc điều tra nho nhỏ cho thấy ngay y nói thật mọi chuyện, nhưng Maigret không thể sử dụng y được.
Nhưng Ozep không chịu thua, vài bữa sau y lại tới sở cảnh sát ngồi lì cả buổi, nhất định đòi gặp Maigret. Có bữa y còn theo Maigret về đến tận nhà. Chịu hết xiết, Maigret dọa sẽ bắt giam y vì tội cản trở người đang thi hành công vụ.
Sau một tuần mai phục ở đường Birague và điều tra ráo riết, Maigret nhận được chỉ vài thông tin. Ba kẻ tình nghi đứng tên mướn hai phòng khách sạn gồm có Boris Saft, tức tên Râu, sống với cô vợ tóc vàng tên là Olga Tzerewski; còn tên Chột là Sasha Vorontsov. Cô vợ đi chợ mỗi ngày, lo bữa ăn cho cả ba cùng mọi khách khứa vãng lai. Không thấy họ làm gì kiếm tiền.
Lucas quan sát từ dãy nhà đối diện cho biết chúng có vài khẩu súng. Có ba tay thường xuyên ghé lại hai căn hộ này. Cảnh sát đặt tên cho chúng là: (1) Nhà hóa học, vì tay này từng nộp đơn xin việc ở một nhà máy hóa chất; (2) Đậu ve, tay này lúc nào cũng đội một cái mũ xanh; và (3) Béo, tay này ăn mặc sạch sẽ nhất bọn. Nhưng không cách chi biết tên nào là Stan.
Maigret quyết định chờ thêm một tuần nữa. Ông chờ một diễn biến mới từ phía nhóm người ăn không ngồi rồi kia. Kế đó, ông nghĩ tới giải pháp sử dụng Ozep, vì dù sao tay này cũng là dân Ba Lan, dễ xâm nhập khu khách sạn và tiếp cận đối tượng hơn mọi cảnh sát Pháp. Ông cho gọi Ozep tới sở.
“Ông vẫn sẵn sàng tham gia nhiệm vụ nguy hiểm này chứ?” Maigret hỏi.
“Sẵn sàng”.
“Nếu tôi yêu cầu ông tới gần tên Chột và bắn vào đùi hắn thì ông có dám không?”
“Dám chứ. Nếu ông cấp cho tôi một khẩu súng”.
“Hoặc ông tiếp cận tên Râu, rồi cho hắn hay cảnh sát sắp bố ráp khu Ba Lan đó?”
“Quá dễ, tôi sẽ chờ hắn ngoài đường và làm thế thôi”.
Tay này đi gặp những tên sát nhân mà cứ như đi đánh răng vậy. Maigret thầm nghĩ rồi hỏi tiếp.
“Ông chưa từng biết ai trong bọn đó?”
“Chưa, thưa Thanh tra”.
“Được rồi. Tôi sẽ cho ông tham gia. Chút nữa tôi với ông sẽ đến khu đó”. Maigret nhìn xuống đất nhưng cực kỳ chú ý phản ứng của Ozep. “Tôi sẽ chờ ở ngoài cho đến khi cô gái tóc vàng chỉ còn lại một mình. Ông sẽ tới gõ cửa và bảo rằng ông là dân Ba Lan và tình cờ nghe lỏm được là cảnh sát sẽ bố ráp khách sạn đó vào một giờ sáng ngày mai...”
Ozep nín thinh.
“Ông hiểu không?”
“Hiểu”.
“Làm được không?”
“Tôi muốn nói điều này, Thanh tra...”
“Biết sợ rồi hả?”
“Không. Không sợ”. Ozep lúng túng. “Tại tôi hay bị rụt rè với phụ nữ lắm. Mà phụ nữ thì nhạy hơn đàn ông nhiều. Tôi sợ khi nói chuyện với phụ nữ tôi sẽ đỏ mặt. Và khi tôi đỏ mặt...”
Maigret ngồi im lặng ngẫm nghĩ về lời giải thích này.
“Tôi muốn tiếp xúc với đàn ông, tên Râu hay tên Chột, hay bất cứ tên nào khác...” Ozep rên rỉ.
Maigret im lặng hồi lâu, rồi ông nói, chắc nịch.
“Vậy là ông không tham gia được. Giải tán!”
“Sao vậy?” Ozep có vẻ chới với.
“Còn sao nữa? Ông đòi tham gia, sẵn sàng chết. Vậy mà tôi yêu cầu ông làm một việc đơn giản hơn thì lại né tránh. Ông giỡn với tôi đó hả?”
“Được rồi, được rồi. Tôi đi”.
“Đi đâu?” Maigret hỏi lại.
“Thì đi gặp cô đó”.
“Khoan. Ta cùng đi”.
“Tốt hơn hãy để tôi đi một mình. Nếu bọn nó thấy tôi đi với ông, chúng sẽ biết ngay là tôi cộng tác với cảnh sát...”
Và họ đồng ý như vậy. Ozep vừa quay lưng đi thì Maigret cũng theo cổng sau phóng xe tới đường Birague.
Ông lên phòng quan sát của Lucas để nắm tình hình. Không có biến cố gì mới. Cả bọn chúng vẫn mua sắm, đi dạo lòng vòng, rồi ăn trưa với nhau. Lát sau, tên Râu rồi tên Chột lần lượt rời nhà. Chỉ còn cô tóc vàng ở lại. Thời điểm thích hợp đây. Từ bên này, ông có thể thấy cô tóc vàng Olga đó vừa hút thuốc vừa lau dọn trong phòng. Lát sau, cô ta lấy trong tủ ra một bản đồ đường phố và trải lên bàn.
Maigret nóng ruột chờ Ozep xuất hiện. Và ông thấy y ta tới, đi bộ dọc lề đường. Từ cao nhìn xuống, trông y ta bé xíu đến tội nghiệp. Y ta nhìn quanh như tìm kiếm điều gì. Maigret biết y ta đang tìm ông, vì ông nói sẽ có mặt sẵn sàng gần đó. Nhưng bây giờ ông xuống thì không kịp rồi.
Và Ozep đã vào khách sạn. Maigret nhẩm đếm thời gian mà y lên cầu thang. Rồi ông thấy cô tóc vàng giật mình nhìn ra cửa. Chắc Ozep gõ cửa. Cô ta vội xếp bản đồ cất đi trước khi ra mở cửa. Maigret không thấy gì thêm. Rồi đột nhiên cô gái quay vào, bước chân vội vã. Cô đi tới cửa sổ, đóng lại và kéo rèm kín mít.
Vụ này bất ngờ quá. Maigret không dự trù trước. Năm phút sau, ông bảo Lucas gọi điện điều thêm hai mươi cảnh sát thường phục tới khu khách sạn chờ lệnh. Khi Lucas gọi xong. Ông hỏi:
“Anh chưa bao giờ thấy cô này tiếp khách mà đóng cửa sổ, đúng không?”
“Đúng”.
“Dù biết rằng ông thường xuyên có mặt trên ban công này?”
“Có lẽ cô ta coi tôi như mọi thằng già lẩm cẩm khác”.
“Vậy là ý kiến đóng cửa sổ không phải do cô ta, mà do...”
“Ozep?”
“Ozep hoặc ai đó vừa vào phòng. Chúng ta chưa hề thấy mặt Ozep trong phòng mà. Tôi phải qua đó coi mới được. À, tôi thấy quân mình bắt đầu đến rồi. Nghe nè. Anh theo dõi, tôi bước vào khách sạn năm phút mà cửa sổ không mở thì kéo quân vào liền nghe”. Vừa nói Maigret vừa đội mũ lên đầu.
Lát sau, Lucas thấy Maigret băng qua đường, bước vào khách sạn. Vài phút sau, cửa sổ mở ra. Maigret thò đầu ra hiệu cho Lucas kéo quân sang.
Sau khi rải lực lượng khắp hai tầng dưới cùng, Lucas vào phòng. Anh ta thấy Maigret ngậm ống vố ngồi cạnh cô tóc vàng đang nằm dài dưới sàn.
“Chết rồi”, Maigret lầm bầm.
Kẻ sát nhân rõ ràng là muốn để lại chữ ký quen thuộc. Cô ta bị một lưỡi dao cắt ngang cổ họng, y hệt các nạn nhân khác của Stan.
“Ozep là Stan sao? Y đâu rồi?” Lucas sững sờ.
Maigret lắc đầu, không hiểu ông ta muốn trả lời câu hỏi nào. Và ông mệt mỏi ra lệnh:
“Cho quân mai phục bắt hết những tay trong bọn. Ozep chắc còn trốn trong khách sạn này. Bắt hết đồng bọn rồi mới đi tìm Ozep. Sau đó mới cho pháp y dọn dẹp hiện trường. Vụ này xong rồi”.
Rồi Maigret trở về sở cảnh sát chuẩn bị viết báo cáo. Mọi chuyện xảy ra đúng như ông tính. Các đồng bọn bị bắt mà không có phản ứng gì nhiều, nhất là sau khi nghe nói Olga đã chết. Cuối buổi chiều, cảnh sát tìm thấy Ozep treo cổ trong một phòng kho trên tầng thượng của khách sạn.
* Câu hỏi: Maigret đã suy luận ra sao để kết luận vụ này đã kết thúc?
32
Trong tù hãm
Margaret Manners
Đến giờ thì tôi có thể nhìn rõ mọi việc, hơn cả nàng và ông ta. Ông ta hiểu nàng quá rõ, hiểu mọi khía cạnh, nhưng có nhiều điều ông ta không hiểu bằng tôi bây giờ.
Ella Gainer không có ảo tưởng về mình. Nàng không cố sửa sang bộ dạng bằng mỹ phẩm, nữ trang hay giải phẫu, tuy nàng thừa tiền bạc để làm điều đó.
Trang phục của nàng giản dị nhưng theo một kiểu mà đàn ông luôn phải quay lại nhìn. Và bọn nhân viên khách sạn hay nhà hàng luôn nhìn ra ai là khách sộp.
Và đó là cách họ đối xử với nàng. Nàng chỉ có một ảo tưởng, thứ ảo tưởng luôn gặp ở phụ nữ. Nàng tin vào tình yêu, chữ tình yêu viết hoa. Và nàng tin rằng một ngày kia nàng sẽ gặp một nửa của mình.
Qua đám nhân viên ấy, tôi đã thu thập được mọi thông tin cần thiết. Nàng là một quả phụ mới ba mươi, giàu có và khát tình.
Chiều hôm đó tôi đến phòng của nàng trong khách sạn Renaissance sang trọng. Đêm trước chúng tôi đã uống với nhau, khá nhiều. Tôi nói nhiều, và đã tỏ tình với nàng. Nàng cũng nói nhiều, nhưng đã nhận lời tôi. Trông nàng vẫn bình thản, đúng kiểu một phụ nữ bản lãnh chờ đón người đàn ông đã ngỏ lời với mình.
Tôi ngồi xuống và đón ly rượu nàng đưa, còn nàng chỉ rót cho mình một ly rượu dâu nhỏ. Nàng đứng đó mỉm cười trong bộ đồ đen. Nàng không đeo một món nữ trang nào vì nàng không bao giờ sắm thứ đó. Một tài khoản ngân hàng kếch xù là đủ khiến đời nàng gặp rắc rối rồi. Bây giờ nàng chỉ cầm một chiếc khăn tay.
Tôi nhấm nháp ly rượu và để nàng chờ đợi một lát.
“Phòng đẹp quá”, sau cùng tôi lên tiếng, vì dù sao đàn ông cũng nên dẫn chuyện. “Em sống thoải mái đó, Ella”.
“Phải”, nàng đáp. “Ngày nay các khách sạn đã biết trang trí theo cá tính của từng loại khách”.
Im lặng một lát. Khi thấy tôi chẳng nói gì thêm, nàng bỗng nói. “Anh biết không, bỗng dưng em nhớ một câu chuyện. Chuyện ‘Góa phụ thành Euphesus’ của Petronius”.
Tôi nhướng mắt ngạc nhiên. Trông nàng không có vẻ đọc nhiều, nhất là thứ tác phẩm cổ điển. “Petronius? Em cũng đọc ông ấy à?” tôi nói.
“Không, không!” Nàng bối rối đáp và cố giải thích như không muốn tôi có ấn tượng sai về nàng.
“Đó là do ông chồng em, Jeff...”
Tôi chỉ muốn ngắt lời nàng và đi thẳng vào vấn đề. Chuyện ông chồng quá cố của nàng là xưa rồi. Bây giờ nàng vẫn còn nhắc được tới ông ấy thì thật kinh khủng. Dĩ nhiên tối qua nàng đã uống hơi nhiều và có thể quên mất những gì nàng đã kể lể với tôi. Nhưng tôi vẫn để nàng nói cho xong.
“... Một bữa thấy Jeff đọc sách và bật cười. Em mới hỏi chuyện gì. Jeff bèn đọc toàn câu chuyện cho em nghe. Cũng ngắn thôi. Anh biết chuyện đó chứ?”
Tôi chỉ nhớ lơ mơ. Nên đành tiếp tục nhấm nháp ly rượu và chờ nàng kể.
Đó là chuyện một thiếu phụ trẻ có chồng mất sớm. Bà ta đưa xác chồng xuống hầm mộ và quyết định nhịn ăn để chết theo ông. Một cô tớ gái đi theo hầu hạ bà. Nhưng gần đó lại có một anh lính giữ nhiệm vụ canh chừng xác mấy tên tội phạm bị treo trên thập giá, không cho người thân hạ xuống đem chôn.
Cao trào của câu chuyện là khi thiếu phụ đem lòng yêu anh lính. Vụ này cô tớ gái rất ủng hộ. Tôi nghĩ phụ nữ nào có lẽ cũng vậy. Nhưng anh lính không thể vừa tình tự với thiếu phụ vừa canh xác được. Sáng hôm sau, rời khỏi hầm mộ, anh ta thấy một cái xác đã bị lấy mất. Đây là chuyện nghiêm trọng, vì nếu để mất xác anh sẽ bị tử hình.
Anh trở xuống hầm mộ và cho bà biết chuyện.
Rồi anh rút gươm ra. Anh thà tự sát còn hơn bị ô nhục với bản án tử hình. Nhưng thiếu phụ đã quá yêu anh như trước đây đã yêu chồng vậy. Bà bảo anh lấy xác chồng mình treo lên thế cho cái xác bị mất. Vậy là mọi người đều hoan hỉ.
Tôi tự hỏi tại sao nàng kể cho tôi nghe chuyện này.
Trông nàng có vẻ như đã quên sạch những điều thổ lộ với tôi đêm qua. Tôi kinh hoàng trước cái kiểu nàng tỉnh bơ kể chuyện này sau khi đã làm như thế với ông chồng trước. Nhưng tôi quyết làm công việc của mình.
“Chuyện hay lắm”, tôi nói. “Nhưng tôi nghĩ nó có một điểm yếu”.
“Yếu chỗ nào?” nàng hỏi.
“Em không thấy sao? Lẽ ra ý kiến mượn xác chồng phải là của anh lính chứ không phải của góa phụ. Anh ta phải tự cứu mình vì bà ta, vì anh ta biết bà sẽ đau khổ chồng chất khi mất mối tình vừa tìm thấy. Mà em cũng nhận xét như thế với chồng em mà, phải không?”
“Phải. Chồng em rất ngạc nhiên. Ông ấy bảo ai cũng nghĩ chuyện này muốn mô tả tính dễ thay đổi của phụ nữ. Ông ấy còn bảo em, ‘Nếu anh chết, mong em hãy cẩn thận, người ta thường khai thác tính khí đó của phụ nữ lắm’.”
“Tôi cũng ngạc nhiên luôn. Em quả là có máu lạnh khi kể chuyện này. Đến lúc nào thì em nghĩ chính bà quả phụ đã giết chồng mình?”
Nàng giật mình và mặt trắng bệch ra. “Ồ không”, nàng đáp. “Em chưa bao giờ nghĩ như thế. Điều đó làm hỏng hết câu chuyện”.
“Tôi không nghĩ thế. Chỉ có điều, hồi đó cái xác ông chồng đã cứu được anh lính. Bây giờ tôi muốn cái xác chồng em cứu vớt cái đời tôi”.
Tay nàng vặn vẹo chiếc khăn. “Em không hiểu anh muốn nói gì”.
“Thôi đừng vờ nữa. Em có nhớ chuyện tối qua không?” tôi hỏi.
“Em không hiểu”. Giọng nàng đầy tuyệt vọng.
“Tối qua anh cầu hôn và em đã nhận lời. Anh nói anh yêu em mà”.
“Rồi sau đó?” tôi mỉm cười.
“Sau đó mình đi chơi nhiều nơi. Uống đủ thứ. Em cũng hơi quá chén. Em không giỏi uống rượu lắm”.
“Để tôi kể lại cho em nghe. Sau đó em thú thật với tôi là em đã giết chồng. Khi Jeff bị bệnh, em đã cho ông ta uống thứ gì đó để kết thúc luôn và em không bị ai nghi ngờ gì cả”.
Nàng liếm môi và nói một mạch như thuộc lòng. “Không đúng. Em không hề nói điều đó”.
“Có thể em không nhớ, nhưng em đã nói. Với tình hình này thì tôi không thể cưới em được”.
Nàng nhìn tôi buồn bã cùng cực. Rồi nàng đứng lên. “Tôi hiểu. Anh không yêu tôi. Anh có thể về. Xin anh về cho. Tôi không muốn gặp anh nữa”.
“Không được. Ella. Chừng nào xong việc tôi mới đi. Em hãy ngồi xuống. Chúng ta chỉ cần chốc lát là giải quyết được chuyện này”. Tôi đứng dậy tự rót cho mình một ly rượu nữa rồi tiếp, “Ella, tôi đã định cưới em mặc dù đó là một hy sinh, em không phải mẫu người tôi thích, nhưng tôi sẵn sàng làm thế để có được tiền của em”.
“Tôi cho anh một cơ hội”, nàng nói nhẹ nhàng.
“Đi ra ngay và tôi sẽ bỏ qua mọi chuyện”.
“Đừng ngốc như thế”, tôi cười khẩy. “Tôi không cưới em và cũng không đi. Em cần nghĩ nên trả cho tôi bao nhiêu để giữ kín điều bí mật mà em đã cho tôi biết đêm qua”.
“Anh tống tiền tôi hả?”
“Tống tiền còn đỡ hơn giết người, Ella”.
“Anh không được quyền... Tôi không hề...”
“Thôi nào”, tôi nhỏ nhẹ. “Tôi sẽ không báo với cảnh sát đâu. Tôi e rằng khi đào xác ông Jeff lên họ sẽ tìm ra khối chi tiết đấy”.
Nàng lui ra và bước nhanh đến bàn giấy. “Thôi được, mình giải quyết cho xong đi. Nàng kéo ngăn bàn ra. “Anh xem thử cái này, đáng giá lắm đấy”.
Nàng bước tới đặt một xâu chuỗi lên đầu gối tôi.
Những viên kim cương lóa cả mắt. Tôi ngắm một lát rồi nói. “Cả một gia tài đấy. Nhưng tôi không ngu đâu. Không nữ trang. Không chi phiếu. Tôi chỉ thích tiền mặt. Không đâu Ella. Tôi không cần thứ này”.
“Đứng yên đó!”
Tôi ngẩng lên và thấy nàng đứng sau bàn, trên tay là một khẩu súng. Nòng súng chĩa thẳng vào tôi.
“Nào, coi kìa”. Tôi nói tỉnh bơ. “Súng nổ ồn ào lắm. Lại còn cái xác tôi trong phòng em nữa”. Nhưng tôi cũng hơi ớn. Người ta sẵn sàng tin lời một phụ nữ giàu có cô đơn mà.
“Đứng đó!” nàng tiếp. “Tôi không muốn phá luật chơi. Nhưng anh đã phá trước”. Nàng nhấc điện thọai lên.
“Tôi là Ella. Mời quản lý khách sạn lên phòng tôi ngay”.
Đặt điện thoại xuống. Nòng súng trên tay nàng không run chút nào. Tôi thầm lo. Có thể qua bao nhiêu đó năm, người ta chẳng mong tìm được gì trên xác ông chồng nàng nữa. Nhưng không lẽ nàng muốn làm ầm chuyện này lên? Nàng có dư tiền để tránh mọi tai tiếng mà. Tôi cố thuyết phục nàng.
“Thôi mà. Tôi có làm gì em đâu. Một ít tiền đâu làm em thiệt hại gì. Tôi chỉ cần một khoản cỡ...”
Nàng lắc đầu. “Tôi đã cho anh cơ hội ra về. Nhưng bây giờ thì trễ rồi”.
Tôi bắt đầu hoảng thật. Một tên cướp đột nhập và nàng phải nổ súng tự vệ. Chuyện dễ tin lắm. Tôi giật lui khỏi chỗ ngồi. Xâu chuỗi rơi từ đầu gối tôi xuống thảm.
Nó vẫn lóng lánh. Ngay lúc đó có tiếng gõ cửa.
“Mời vào, ông Malverton”. Nàng nói.
Ông quản lý khách sạn bước vào. Nụ cười của ông ta tắt ngúm khi thấy cảnh tượng trong phòng. “Ối! Cái gì... Bà Ella? Bà muốn tôi làm gì đây?”
“Tôi rất tiếc”, nàng nói. “Ông phải giúp tôi. Ông biết người này không?”
“Có gặp nhiều lần”. Ông ta nói. “Tức là, ông này thường đến quán rượu trong khách sạn”.
“Phải”, nàng nói dứt khoát. “Tôi cũng gặp hắn ở đó. Lẽ ra tôi phải đề phòng. Hôm nay hắn tới đây, đề nghị bán cho tôi một xâu chuỗi với giá rẻ bất ngờ”.
Nàng ra dấu và ông Malverton bước tới, nhặt xâu chuỗi lên. Lập tức ông ta kêu lên. “Tôi sẽ gọi cảnh sát ngay. Tôi chắc chắn đây là xâu chuỗi của bà Clifton đã bị mất trộm mấy ngày trước. Vụ này làm tụi tôi khổ hết sức”.
Tôi bật dậy. “Bà nói gì vậy? Tôi không hề gạ bán. Chính bà đưa nó cho tôi!”
“Nói láo”. Nàng nói với vẻ tội nghiệp. “Ở đây ai cũng biết tôi không hề đeo nữ trang dù tôi thừa tiền để sắm thứ đó. Chưa kể tôi chẳng có lý do gì phải đưa xâu chuỗi cho ông cả”.
“Được rồi, bà Ella. Để tôi gọi cảnh sát”. Ông quản lý nói.
“Khoan!” tôi kêu lên. “Bà này đã giết chồng. Tôi biết được chuyện đó nên bà ta đưa tôi xâu chuỗi để tôi im lặng. Cứ gọi cảnh sát đi. Tôi sẽ khai hết”.
“Ồ!” nàng ra vẻ choáng váng. “Vậy sao! Ông Malverton, tôi không biết nói sao bây giờ. Tôi thật ngu ngốc khi để hắn ta bắt chuyện trong quán rượu”.
Nàng kéo ngăn tủ ra. “Chờ một chút!” Nàng lấy ra một cái hộp, mở nắp. “Đây rồi...” nàng lấy ra một tờ giấy và đưa cho ông quản lý. “Ông đọc giùm thư này cho hắn nghe”.
Ông Malverton bối rối làm theo, trông ông có vẻ thống trách tôi vì đã dám quấy rầy Ella. Ông lật tờ giấy ra và đọc.
“Bộ Quốc phòng chúng tôi rất tiếc phải thông báo rằng, thiếu tá Jeffrey Gainer, thuộc đơn vị..., đã hy sinh tại chiến trường Trung Đông, mặt trận..., vào ngày...”
Thế là bây giờ tôi ngồi tù vì tội ăn cắp xâu chuỗi. Tôi phải mất nhiều ngày đêm mới dần hiểu ra sự vụ. Tôi biết nàng rất buồn khi tôi bị cảnh sát đưa đi. Nàng có một khuyết tật và Jeff đã che chở nàng, giúp nàng vượt qua khuyết tật ấy. Sau khi chồng mất, nàng đã cố gắng một lần nữa để mong tìm được một người đàn ông có thể bao dung nàng, và lại thất bại.
Tôi ở tù, nhưng nàng cũng không khá gì hơn. Chắc chắn Jeff rất thương vợ, và rất ghen tuông. Ông ta hẳn đã để lại cho vợ một nguyện vọng, chính điều đó đã giữ nàng trong vòng tù hãm. Bây giờ tôi có thể yên tâm chờ mãn hạn tù. Đến lúc đó tôi sẽ gặp và nói cho nàng hay để giải phóng nàng, miễn là nàng đừng có tình nhân nào khác như góa phụ trong truyện.
* Câu hỏi: Theo bạn, nhân vật trong truyện đoán ra những gì về hai vợ chồng Ella? Và dự trù nói gì với nàng sau khi ra tù?