Chương 2
Một tuần sau chúng tôi tới thị trấn Moville thuộc hạt Donegal. Tại đó, gia đình tôi bất xe đi Belfast rồi từ Belfast, chúng tôi lại chuyển xe đi Toome ở hạt Antrim. Chiếc xe dừng trước một cửa hàng và gia đình tôi xuống ở đó. Chúng,tôi quốc bộ chừng hai dặm để tới được căn nhà của ông bà nội McCount. Trời vẫn còn lờ mờ hơi đêm, bình minh đang le lói trên quả đồi phía trước.
Bố vất vả bế hai thằng bé sinh đôi trên tay còn chúng chỉ biết khóc lóc vì đói. Mẹ tôi cứ đi được vài bước lại phải dừng để nghỉ trên những bức tường đá bên đường. Cứ mỗi lần như vậy, cả nhà cũng phải dừng theo mẹ, chúng tôi ngồi bên bà ngắm bầu trời đang ửng đỏ bỗng chuyển sang xanh. Chim chóc trên cành bắt đầu đua nhau ríu rít, líu lo đủ các giọng. Khi mặt trời lên, chúng tôi chợt trông thấy những sinh vật tha thẩn giữa cánh đồng, nhìn chằm chằm vào chúng tôi. Malachy hỏi bố: “Bố trông kìa, cái gì thế bố?.
- Bò đấy con trai ạ.
- Bò là gì hả bố?
- Bò là bò, con trại ạ.
Chúng tôi lại rảo bước trên con đường, trời mỗi lúc một sáng. Và kìa, phía xa lại có thêm những sinh vật khác trông đến buồn cười, tất cả chúng đều màu xám.
Malachy lại hỏi bố: “Cái gì thế hả bố?”.
Cừu con trai ạ. Cừu là gì hả bố?Bố tôi nhìn chằm chằm vào thằng bé rồi quát: “Bao giờ con mới thôi hỏi han lung tung như thế hả? Cừu là cừu, bò là bò, còn cái đống đằng kia là dê. Dê là dê. Dê cho sữa, cừu cho len, bò thì cho mọi thứ. Con còn định hỏi những cái tên khỉ gió nữa hay thôi?”.
Malachy kêu lên thảng thốt vì sợ bởi bố chẳng bao giờ nói với nó như thế, chưa bao giờ bố nặng lời với chúng tôi. Ông có thể dựng chúng tôi dậy vào nửa đêm và bắt chúng tôi phải thề sẽ chết vì Ailen nhưng chưa bao giờ bố quát lên như vừa rồi. Malachy chạy nhào vào lòng mẹ, bà an ủi nó: “Thôi nào, thôi nào cục cưng của mẹ, nín đi con yêu. Chắc tại bố đã mệt vì phải bế hai em con. Con phải hiểu không phải lúc nào bố cũng sẵn sàng trả lời hết tất cả các câu hỏi nhất là khi phải mang hai em trên tay đi khắp thế giới như thế này”.
Bố đặt hai đứa bé xuống bên cạnh rồi dang tay ra phía Malachy. Hai thằng bé bèn khóc váng lên còn Malachy thì níu chặt lấy mẹ nức nở. Bò thì rống thống thiết, cừu kêu ông ộc, dê thì be be. Trong lúc mọi thứ đang trở nên hỗn loạn thì tiếng còi ô tô cắt ngang tất cả. Một người đàn ông thò cổ ra khỏi ô tô kêu lên: “Lạy Chúa lòng lành, các người làm gì trên đường giờ này trong buổi sáng Phục sinh thế kia?”.
Bố tôi cũng chào lại: “Con chào Cha”.
Cha à? - Tôi thốt lên - Ông ấy là bố của bố à?Mẹ chặn tôi ngay lập tức: “Đừng có hỏi bố con thêm một câu nào nữa”.
Bố trả lời thắc mắc của tôi: “Không, ông ấy là linh mục”.
Malachy lại tiếp tục: “Linh mục là cái...”, nhưng mẹ tôi đã kịp đưa tay lên bịt mồm thằng bé.
Vị linh mục có bộ tóc bạc trắng và cái cổ áo cũng trắng. Ông nói: “Các người định đi đâu thế kia?”.
Bố nói: “Chúng con đang trên đường đến gia đình nhà McCourts ở Moneyglass”. Và thế là vị linh mục tốt bụng cho cả nhà tôi đi nhờ xe. Ông biết gia đình ấy, và rằng họ đều là những con chiên ngoan đạo, là người tốt cả. Ông hy vọng sẽ thấy cả gia đình tôi ở lễ Mixa, đặc biệt là mấy cậu bé người Mỹ này, những đứa trẻ đáng thương không biết linh mục là gì. Ông ra dấu ban phép cho chúng tôi.
Về đến nhà, mẹ định mở cổng cho mấy bố con vào nhưng bố vội la lên: “Không, không, không phải đường ấy. Đừng đi cổng trước. Cửa trước chỉ dùng cho các Cha hoặc phục vụ cho nhà có đám thôi”.
Thế là chúng tôi lại lục tục kéo nhau đi một vòng quanh nhà để chui vào cửa bếp. Bố đẩy cửa bước vào, và đó, người đang ngồi nhấm nháp trà trong một cái ca lớn chính là ông nội McCourt của tôi, còn bà nội McCourt thì có vẻ như đang đun nấu cái gì đó trên bếp.
Ôi, chúng nó về rồi này - ông thốt lên. Vâng, chúng con đã về đây - bố vui vẻ đến bên ông. Bố chỉ vào mẹ tôi và nói: Đây là Angela - Ông quay sang mẹ: “Trông con có vẻ mệt rồi đấy, Angela”. Chẳng thấy bà nói gì, chỉ quan sát chúng tôi rồi lại quay sang cái chảo đang xèo xèo trên bếp. Ông dẫn chúng tôi qua bếp tới cănphòng lớn, trong đó có kê một chiếc bàn dài và xếp nhiều ghế chung quanh. Ông bảo chúng tôi: “Ngồi đi các con, trà nhé. Các con có thích bánh kếp không?”.
Malachy hỏi ngay: “Bánh kếp là gì hả bố?”.
Bố cười vui vẻ: “Là bánh trứng sữa đấy con trai ạ. Bánh trứng sữa ở đây được trộn với khoai tây”.
Ông nói: “Nhà mình có nhiều trứng đấy. Chủ nhật hôm nay là ngày lễ Phục sinh, cho nên các con có thể ăn bao nhiêu trứng thỏa thích, cứ lấy chừng nào không còn tay mà cầm nữa thì thôi”.
Chúng tôi uống trà và ăn bánh kếp với trứng luộc, sau đó tất cả mọi người đều tỏ ra mệt và buồn ngủ. Tôi tỉnh dậy trên giường, thấy bên cạnh mình là Malachy và hai đứa em. Bố mẹ tôi đang nằm trên một chiếc giường khác cạnh cửa sổ. Chúng tôi đang ở đâu thê này? Trời đã xẩm tối. Đây không phải trên khoang tàu. Mẹ thở đều đều còn bố thì ngáy như còi tàu. Tôi nhỏm dậy và kéo tay bố: “Bố, con buồn tè quá”. Bố bảo tôi cứ dùng cái bô đi tiểu.
-Cái gì hả bố?
-Ở dưới gầm giường ấy con trai, lấy cái bô đi tiểu. Bà con vẫn bỏ hoa hồng và cây trinh nữ hái trong thung lũng vào đó. Cứ tè vào đấy đi con trai.
Tôi thực sự ngạc nhiên và muốn hỏi xem ông đang nói gì với tôi vậy. Cho dù là tôi có mót đến mấy, nhưng bảo tôi tè vào một cái bô đầy hoa hồng và trinh nữ thì cứ kỳ kỳ thế nào ấy. Ở đại lộ Classon, nơi bác Leibowitz vẫn ngồi hát ông ổng trong phòng vệ sinh trong khi chúng tôi nhảy nhót vì mót tè ngoài cửa không có thứ đó.
Giờ lại đến lượt Malachy muốn dùng cái bò đi tiểu, nhưng nó còn muốn ngồi lên đấy nữa. Bố nói: “Không, không như thê được đâu con trai. Con phải ra ngoài”. Và bố cũng bảo tôi phải ra ngoài nếu muốn ngồi. Bố dẫn chúng tôi xuống gác, qua căn phòng lớn nơi ông nội đang ngồi đọc sách bên lò sưởi còn bà nội thì gà gật trên chiếc ghế tựa. Ngoài trời đã tối hẳn, tuy nhiên ánh sáng trăng cũng đủ để rọi đường cho mấy bố con tôi. Bố mở cửa một căn nhà nhỏ xíu, tôi thấy bên trong có một cái ghế thủng một lỗ lớn ở giữa. Bố chỉ cho tôi và Malachy cách ngồi lên cái ghế đó, cách chùi mông bằng những miếng báo được cắt ra vuông vức và ghim lên tường. Sau đó bố bảo Malachy và tôi đứng đợi bên ngoài, đóng cửa lại và bắt đầu rặn ầm ầm. Trăng sáng quá, tôi trông xuống cánh đồng phía dưới và nhìn thấy mấy thứ mà bố gọi là bò và cừu. Phân vân, tôi tự hỏi không biết tại sao chúng không về nhà.
Trong nhà đã xuất hiện thêm một số người cùng ông bà nội tôi. Bố bảo với chúng tôi: “Đây là các cô, cô Emily, cô Nora, cô Maggie còn đây là cô Vera. Cô Eva đang ở Ballymena với lũ trẻ, giống như các con vậy”. Các cô của chúng tôi không giống như bác Leibowitz hay cô Minnie MacAdorey, họ chỉ gật đầu chứ không thấy ôm hôn hay mỉm cười với bọn tôi. Mẹ bước vào phòng với hai thằng bé trên tay, các cô cũng chỉ gật đầu một lần nữa.
Bà nội quay vào bếp và chẳng mấy chốc chúng tôi có bánh mì với xúc xích và trà nóng. Người duy nhất nói trên bàn ăn là Malachy. Nó chỉ thìa vào các cô và hỏi tên mọi người một lần nữa. Khi mẹ bảo nó phải trật tự và ăn nốt phần xúc xích của mình thì mắt nó đã chứa chan. Cô Nora thấy vậy bèn xích lại gần để an ủi thằng bé. Cô nói: “Được rồi, được rồi cháu cưng”. Tôi không hiểu tại sao mọi người đều nói “được rồi, được rồi” mỗi khi Malachy khóc. Tôi tự hỏi “được rồi, được rồi” nghĩa là gì.
Bố lên tiếng phá vỡ bầu không khí im lặng vẫn bao trùm quanh bàn ăn: “ơ Mỹ thật kinh khủng”. Bà tiếp lời ngay lập tức: “Oi chao, tao cũng biết điều đó, trên báo họ vẫn nói đấy. Nhưng sao mọi người bảo ngài Roosevelt là một người giỏi giang kia mà. Nếu còn ở bên ấy, chưa biết chừng mày đã kiếm được việc rồi ấy chứ”.
Bố lắc đầu tỏ ý phản đôi nhưng bà vẫn tiếp tục: “Tao không biết rồi đây mày sẽ làm gì Malachy ạ. Mọi chuyện ở đây còn tồi tệ và khó khăn hơn bên Mỹ nhiều đấy. Ởđâu cũng không có việc, Chúa mới biết, tao cũng không lấy đâu thêm chỗ cho sáu người trong cái nhà này”.
Bố nói: “Con nghĩ có thể kiếm việc dưới mấy cái trang trại. Gia đình con chỉ cần một chỗ nghỉ nhỏ thôi mà mẹ”.
-Mày xem lúc này còn ở được vào đâu nữa có chứ? - bà tỏ vẻ bực bội - Thế còn gia đình mày, bản thân mày sẽ sống bằng cái gì?
-Con nghĩ, trước mắt có thể xin trợ cấp thất nghiệp.
-Con không thể vừa bước chân xuống một con tàu từ Mỹ về mà xin trợ cấp thất nghiệp được - ông nội lên tiếng - họ sẽ buộc con phải đợi, mà trong lúc đợi thì sống bằng gì?”.
Bố chẳng nói gì nữa còn mẹ chỉ biết nhìn chằm chằm vào tường.
-Mày nên chuyển tới vùng Tự do con ạ - bà nội tỏ ra trầm ngâm - Dublin là nơi đủ lớn để mày có thể kiếm được việc làm, kể cả tìm việc làm ngoài trang trại cũng có.
-Mà hình như con cũng có tiền ở IRA thì phải - ông nội như chợt nhớ ra điều gì - con đã thực hiện nghĩa vụ của mình và hình như người ta đang hỗ trợ cho cựu chiến binh ở vùng Tự do đấy. Con có thể tới Dublin yêu cầu được giúp đỡ. Bố mẹ có thể cho con vay tiền xe tới Dublin. Hai đứa bé có thể ngồi trên lòng, như vậy là tiết kiệm được hai vé.
- Ôi chao - bố thốt lên, còn mẹ vẫn ngồi nhìn bất động vào tường với đôi mắt ngấn nước.
Sau khi ăn xong, chúng tôi trở về giường và sáng hôm sau, khi ngủ dậy nom mọi người đều rất buồn. Không lâu sau khi thức dậy, có người đánh xe đến chở chúng tôi xuống con đường hôm trước, dẫn đến cửa hàng mà bố mẹ tôi gửi hành lý ở đó. Họ nâng hành lý của chúng tôi lên nắp xe khách còn chúng tôi thì lục tục kéo nhau vào trong. Bố bảo chúng tôi sẽ đi Dublin. Malachy hỏi bố: “Dublin là gì?” nhưng không ai trả lời nó. Bố trông ra những cánh đồng hai bên đường và nói cho tôi hay đó là nơi mà Cuchulain hay đi dạo. Tôi hỏi ông chỗ Cuchulain đánh quả bóng vào mõm con chó là ở đâu, ông bảo tôi còn độ vài dặm nữa là tới.
Malachy hét lên: “Xem kìa, xem kìa”, và chúng tôi cùng quay ra. Đó là một dải nước lớn màu bạc lưng chừng trời, bố bảo đó là vịnh Neagh, cái hồ lớn nhất của Ailen, cũng tại cái hồ này, Cuchulain vẫn tắm sau mỗi trận đánh lớn. Chắc Cuchulain phải nóng lắm nên khi ông đằm mình xuống hồ, nước hồ sôi lên ùng ục và sưởi ấm cho cả mấy vùng xung quanh tới mấy ngày liền. Một ngày nào đó, tất cả chúng tôi sẽ quay về và cùng tắm trong hồ như Cuchulain từng làm. Chúng tôi sẽ câu cá và lươn rồi rán trên chảo, như thế có vẻ không giống kiểu Cuchulain làm cho lắm, ông hay tóm cả nắm cho vào họng rồi nuốt chửng, theo bồ thì ăn lươn rất bổ vì nó nhiều chất.
-Đúng không hả bố?
-Chứ lại không à!
Mẹ không trông ra ngoài cửa sổ ngắm Vịnh Neagh. Bà áp má vào đầu Oliver và nhìn chăm chăm lên nóc xe.
Không lâu sau, chiếc xe lăn bánh vào một thành phố với những dãy nhà cao tầng, ô tô và xe ngựa kéo nhộn nhịp trên đường, mọi người tấp nập đi lại trên phố bằng đủ mọi phương tiện. Malachy tỏ vẻ phấn khích: “Bố nhìn kìa, bố nhìn kìa, kia chẳng phải là cái xích đu trên sân chơi sao? Con muốn thấy Freddie Leibowitz”.
-Ôi con trai, đây là Dublin chứ không phải là đại lộ Classon. Con đang ở Ailen, cách New York xa lắm”.
Khi chiếc xe dừng hẳn, hành lý được dỡ xuống, chúng tôi ngồi bệt xuống bên đường. Bố bảo mẹ có thể ngồi trên ghế băng ở nhà chờ trong khi ông đi gặp vài người của IRA ở chỗ mà người ta vẫn gọi là Terenure. Ông bảo chúng tôi rằng có phòng vệ sinh dành cho nam giới ở bến xe, ông sẽ đi không lâu và sẽ có tiền, khi trở về sẽ có đồ ăn cho cả nhà. Ông bảo tôi đi với ông nhưng mẹ nói: “Không, em cần nó ở đây giúp”. Nhưng khi bố bảo rằng: “Anh cần nó giúp anh một tay mang tiền về”, thì mẹ bật cười và nói: “Được rồi, đi với ông bô của con đi”.
Ông bô! Như vậy có nghĩa mẹ đang trong trạng thái vui vẻ. Nếu mẹ nói “bố của con” thì có nghĩa mẹ không được vui.
Bố nắm tay tôi lôi đi khiến tôi phải liên tục rảo bước mới theo kịp. Ông đi bộ rất nhanh, từ bến xe đến Terenure là một quãng đường dài, tôi luôn hy vọng lúc nào đó ông sẽ đứng lại để bế tôi lên theo cái cách mà ông vẫn làm với hai đứa em lúc ở Toome. Nhưng ông cứ nhảy cẫng lên mà đi và chẳng hề nói câu nào ngoại trừ việc hỏi đường tới Terenure. Bây giờ chúng tôi phải tìm cho được ông Charles Heggarty ở IRA. Một người đàn ông che một mắt bằng dải băng màu hồng nói rằng chúng tôi đã đến đúng phố, Charlie Heggarty hiện ở số nhà mười bốn. “Cái gã trời đánh thánh vật”, người đàn ông nói với bố, “tôi đoán rằng anh từng phục vụ cho hắn. Bố thốt lên: “Ôi, sao ông biết, đúng là tôi từng như vậy”. Chẳng chút ngập ngừng, người đàn ông nói luôn với bố: “Tôi cũng vậy đấy, và tất cả những gì tôi có là mất một mắt, còn tiền trợ cấp thì không đủ để nuôi một con chim yến”.
-Nhưng cuối cùng thì Ailen cũng được giải phóng đấy thôi - bố nói vẻ hân hoan, “chẳng phải tuyệt lắm sao?
-Tự do cái đít lợn - người đàn ông tỏ ra hằn học - tôi cho ràng chúng ta nên quay về với nước Anh thì hơn. Dẫu sao cũng chúc anh may mắn được toại nguyện.
Một người phụ nữ ra mở cửa: “Tôi e rằng ông Heggarty đang bận”, bà ta nói với bố. Bố bảo rằng ông vừa mới đi bộ tới đây từ giữa Dublin cùng với đứa con nhỏ, trong khi đó vợ ông cùng với ba đứa trẻ vẫn dạng đợi ngoài bến xe, và rằng nếu như ông Heggarty có bận thật thì chúng tôi sẽ đợi ngoài bậu cửa.
Một lúc sau người phụ nữ trở lại và cho bố biết ông Heggarty có thể dành ít phút tiếp bố và dẫn bố con tôi vào. Ông Heggarty đang ngồi sau chiếc bàn kê cạnh chiếc lò sưởi rực rỡ. Ông ta bắt đầu: “Tôi có thể giúp gì được cho anh?”. Bố đứng đối diện với cái bàn và nói: “Tôi vừa từ Mỹ về cùng với vợ và bốn đứa con nhỏ. Chúng tôi chẳng có gì. Tôi từng chiến đấu trong Lực lượng - Tác chiến - Độc lập trong thời gian chiến tranh và giờ đây tôi hy vọng ông có thể giúp đỡ tôi trong lúc khốn khó này”.
Ông Heggarty hỏi tên bố rồi lật giở từng trang giấy của một quyển sổ lớn đặt trên bàn. Ông ta lắc đầu: “Không thấy, không thấy hồ sơ có lưu anh từng chiến đấu ở đây”.
Bố bắt đầu một bài diễn văn dài lê thê. Bố kể cho Heggarty nghe mình đã chiến đấu như thế nào, ở đâu, vào thời điểm nào và làm sao phải lén trốn khỏi Ailen chỉ bởi giải thưởng về cái đầu của ông, và cái cách mà ông vẫn dạy cho các con mình lòng yêu nước ra sao.
Ông Heggarty nói ông rất lấy làm tiếc nhưng ông ta không thể vung tiền ra cho bất kỳ ai tự xưng rằng mình từng chiến đấu cho Ailen. Bố quay sang nói với tôi: “Hãy nhớ kỹ điều này nhé Francis. Đây là một nước Ailen mới. Cái con người nhỏ bé ngồi trên chiếc ghế bé nhỏ kia với mấy cái mẩu giấy lộn đó. Đấy là tất cả những gì mà những người như bố đã không tiếc cả tính mạng của mình để chiến đấu. Chúa ơi!”.
Ông Heggarty nói ông sẽ tiếp tục nghiên cứu để có thể giải quyết cho bố khoản tiền bồi thường chiến tranh, và nếu có gì mới, chắc chắn ông ta sẽ thông báo cho bố. Ông ta sẽ cho chúng tôi tiền vé xe để quay trở về thành phố. Bố nhìn chăm chăm vào mấy đồng tiền trong tay ông ta và nói: “Liêu ông có thể thêm vào đó cho thành một khoản đủ mua một lít bia được không?”.
-Ô, vậy ra anh muốn kiếm tiền để bia rượu phải không?
-Một lít bia thì cũng chẳng đủ đâu...
-Anh sẽ đi bộ cả chục dặm đường để trở về và bắt thằng bé cũng phải đi bộ như anh chỉ vì anh muốn bia rượu phải không?
-Đã có ai chết vì đi bộ bao giờ đâu.
-Tôi muốn anh cút ngay ra khỏi cái nhà này - ông Heggary quát lên - nếu không tôi sẽ gọi bảo vệ tới, và anh có thể tin chắc rằng anh đừng có hòng trông chờ gì ở tôi nữa. Chúng tôi không có thừa tiền để nuôi cái đồ nghiện ngập như anh.
Bóng đêm đổ xuống các con phô của Dublin. Trẻ con nô đùa với nhau dưới ánh điện đường, các bà mẹ bắt đầu thò cổ ra ngoài cửa sổ gọi bọn trẻ về, mùi nấu nướng bốc lên từ khắp nơi, qua các khung cửa sổ, chúng tôi trông thấy người ta ngồi quanh những chiếc bàn, ăn uống vui vẻ. Tôi cảm thấy mệt và đói, tới lúc đó tôi muôn được bồ bế lắm nhưng tôi biết nếu nói với bố cũng vò ích qua nét mặt đanh và buồn của ông. Tôi vẫn để tay trong tay bố và gắng theo kịp ông cho tới khi về tới bến xe, nơi mẹ và các em tôi vẫn đang đợi.
Kia rồi, mẹ tôi và ba đứa em, họ đang ngủ mê mệt trên ghế băng. Khi bố nói với mẹ rằng không lấy được tiền, bà lắc đầu buồn bã khóc nấc lên: “Chúa ơi, con biết làm sao bây giờ?”. Một người đàn ông trong bộ đồng phục màu xanh tiến lại gần và hỏi mẹ: “Có việc gì thế?” Bố cho ông ta hay rằng gia đình chúng tôi đang kẹt ở bến xe này, chúng tôi không có tiền và cũng chẳng có chỗ nào để nghỉ còn lũ trẻ thì đang đói. Người đàn ông nói rằng ông ta sắp sửa hết phiên trực, ông sẽ dẫn chúng tôi đến đồn cảnh sát, nơi mà ông sẽ báo cáo giao ca, và thử xem xem họ có thể giúp gì được chúng tôi.
Người đàn ông trong bộ đồng phục nói chúng tôi có thể gọi ông ta là nhân viên an ninh, đấy là cách mà mọi người vẫn gọi cảnh sát ở Ailen. Ông ta hỏi chúng tôi xem ở Mỹ người ta gọi cảnh sát là gì, ngay lập tức Malachy thốt lên: “Cớm”. Người đàn ông vỗ nhẹ lên đầu thằng bé và bảo nó quả là một thằng Mỹ con thông minh.
Ồ đồn cảnh sát, viên hạ sĩ cho hay chúng tôi có thể qua đêm trong đồn. Ông rất lấy làm tiếc nhưng tất cả những gì ông ta có chỉ là sàn nhà mà thôi. Đó là ngày thứ Năm và xà lim thì giam đầy những kẻ say xỉn, quậy phá trong các quán bar.
Mấy người bảo vệ tỏ ra săn sóc gia đình tôi, họ cho chúng tôi trà nóng và bánh mì mỏng phết bơ với mứt. Chỉ chừng đó thôi cũng khiến anh em chúng tôi sướng phát điên, chạy nhảy quanh đồn. Các tay bảo vệ ở đó đều nhận xét chúng tôi là những nhóc người Mỹ rất đáng yêu và họ muốn đưa chúng tôi về nhà nhưng tôi nói “không”, Malachy nói “không” và cả hai đứa sinh đôi cũng nói “không”. “Không, không”, và thế là cả toán cảnh sát trong đồn đều cười phá lên.
Viên hạ sĩ cho mẹ tôi mượn một cái chăn để bà có thể nằm thoải mái trên chiếc ghế băng. Còn chúng tôi thì nằm cả dưới sàn nhà. Bố ngồi dựa lưng vào tường, hai mắt mở trừng trừng dưới chóp mũ. Ông đang hút thuốc sau khi được viên hạ sĩ mời mấy điếu. Người bảo vệ nói với bố rằng ông ấy là người ở Ballymena trên miền bắc và thế là hai người bắt đầu hàn huyên về những người họ biết ở đó và một số nơi khác như Cushendall và Toome. Ông ta nói rằng một ngày nào đó, khi nhận được tiền trợ cấp, ông ấy sẽ dọn đến ở bên bờ vịnh Neagh, hằng ngày sẽ đánh cá ngoài vịnh. “Lươn nữa, ở đấy nhiều lươn lắm. Chúa ơi, sao tôi thích cái món lươn chiên đến thế cơ chứ?”, ông ta tỏ vẻ hào hứng. Tôi thỏ thẻ hỏi bố: “Có phải ông ấy là Cuchulain không hả bố?” Và thế là người bảo vệ cười lăn lộn cho đến lúc mặt ông ta chuyển sang mầu đỏ: “A, cha mẹ ơi, anh có nghe thấy không? Thằng cha này lại muốn biết xem tôi có phải là Cuchulain không cơ đấy. Một thằng Mỹ con nhưng lại biết tất cả về Cuchulain”.
Bố trả lời tôi: “Không, ông ấy không phải là Cuchulain đâu con nhưng ông ấy là người tốt sống và đánh cá ở bên vịnh Neagh”.
Bố lắc người tôi: “Dậy, Francis, dậy. Có cái gì đó ồn ào trong đồn”. Một cậu vừa dọn sàn nhà vừa hát:
Ai cũng biết em khao khát nụ hôn anh,
Yêu là thế và chẳng cần suy tính Phải vậy chăng khi anh là duy nhất Đến bên em và hãy yêu em...
Tôi nói với anh ấy rằng đó là bài hát của mẹ và anh ta không nên hát nữa nhưng anh ấy chỉ rít một hơi thuốc và rảo bước đi thẳng. Tôi cứ đứng tần ngần ra đó, băn khoăn không hiểu tại sao mọi người cứ hát lẫn lộn bài hát của nhau như thế.
Mẹ ngồi trên ghế băng với chiếc khăn len quấn quanh người. Một người phụ nữ với mái tóc xám mang đến cho mẹ cốc trà nóng, vỗ về: “Ôn rồi, tôi là vợ viên trưởng đồn đấy, ông ấy nhà tôi bảo chị cần được giúp đỡ. Chị có dùng món trứng la-coóc không?”.
Mẹ chậm rãi lắc đầu trả lời: “Không, cảm ơn bà”.
- A, không được, tôi thấy chị dùng một ít sẽ khá hơn đấy.
Nhưng mẹ vẫn lắc đầu còn tôi thì thực sự ngạc nhiên không hiểu tại sao bà lại từ chối món trứng la-cóc trong khi đã từ lâu chẳng có gì vào bụng.
-Thôi được rồi, một ít bánh mì nướng vậy nhé và cái gì đó cho bọn trẻ với ông bố tội nghiệp của chúng, - bà vợ viên hạ sĩ quả quyết.
Bà ấy quay trở lại căn phòng khác rồi không lâu sau xuất hiện với trà và bánh mì. Bố uống trà nhưng không ăn bánh mà nhường cả cho chúng tôi. Mẹ trông thấy bèn khuyên bố: “Anh đừng có thế mà, vì Chúa, rồi cả nhà sẽ ra sao nếu anh lả đi vì đói”. Bố vẫn lắc đầu và hỏi bà vợ viên hạ sĩ xem liệu ông có thể xin bà mấy điếu thuốc nếu bà có không? Bà ta mang thuốc đến cho bố rồi quay sang báo cho mẹ biết, những người bảo vệ trong đồn đang quyên góp tiền cho chúng tôi mua vé xe lửa đi Limerick. Họ sẽ cho ô tô đón chúng tôi và hành lý đến ga Kingsbridge và sau độ ba, bốn giờ, chúng tôi sẽ có mặt ở Limerick.
Mẹ đưa tay ra ôm ghì lấy bà vợ viên hạ sĩ. “Chúa phù hộ bà, ông nhà cùng toàn thể đội bảo vệ ở đây”, mẹ nói trong nỗi xúc động, “nếu không có mọi người giúp thì chúng tôi chẳng biết sẽ ra sao. Chúa ơi, nếu quả thật còn có dịp, chúng tôi sẽ trở lại nơi đây để cảm ơn mọi người”.
-Đó chỉ là một vài chuyện nhỏ nhặt nhất mà chúng tôi có thể làm cho anh chị và các cháu, - vợ viên hạ sĩ cũng tỏ ra xúc động không kém, - đây chẳng phải là những đứa trẻ đáng yêu nhất trên thế gian này hay sao, và tôi cũng là người ở Cork, tôi biết lắm chứ, ở Dublin mà không một xu dính túi sao được.
Bố ngồi ở đầu kia chiếc ghế, lặng lẽ hút thuốc và nhấp trà nóng. Ông cứ ngồi đúng một tư thế như vây cho tới khi ô tô tới đưa chúng tôi qua các con phố ở Dublin. Bố để nghị người lái xe nếu không quá bất tiện, mong ông ghé qua Bưu điện Trung tâm. Người lái xe hỏi bố tôi có phải ông muốn gửi thư ở đó, nhưng bố bảo không phải, ông nghe nói người ta mới dựng một bức tượng để tưởng nhớ Cuchulain, người anh hùng đã hy sinh vào năm 1916 và ông muốn chỉ cho con trai của mình thấy, cậu bé rất ngưỡng mộ Cuchulain.
Người lái xe nói ông chẳng biết Cuchulain là ai nhưng cũng không vấn đề gì nếu dừng lại một chút. Có thể ông sẽ xem thử cuộc bạo động đã thay đổi Bưu điện Trung tâm như thế nào.
Mẹ ngồi lại bên trong xe trong khi chúng tôi theo chân người lái xe vào trong Bưu điện. “Ông ấy kia kìa”, ông ta quay lại nói với chúng tôi, “Cuchulain của các vị đấy”.
Và tôi xúc động đến nỗi suýt khóc bởi cuối cùng cũng được chiêm ngưỡng Cuchulain, ông ấy đứng đó trên chiếc bệ ngay trong sảnh lớn của Bưu điện Trung tâm. Ông được làm bằng vàng và có mái tóc dài, đầu ông trong tư thế ngẩng cao và có một con chim lớn đậu trên vai.
Người lái xe lên tiếng: “Nào, thế tóm lại thì ông ta là ai hả? Cái gã kia làm gì với mớ tóc dài thượt và con chim trên vai thế? A, nếu ông không lấy làm ngại, phiền ông cho tôi biết người ta đã làm gì với ông ấy vào năm 1916 vậy?”.
Bố thong thả trả lời: “Cuchulain đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng trong trận chiến khốc liệt ở vùng Easter Week. Kẻ thù của ông sợ đến nỗi không dám đến gần xác ông, cho đến khi chúng chắc chắn rằng ông đã chết khi trông thấy con chim đậu trên người ông và bất đầu uống máu ri ra từ những vết thương của ông”.
- Ô, vậy thì đó chắc hẳn là một ngày rất buồn của người Ailen rồi, - người lái xe nhận xét, - người ta nhờ một con chim mới biết được rằng ông ta đã chết hay chưa. Tôi nghĩ chúng ta nên lên đường thôi, nếu không muộn tàu đi Limerick mất.
Bà vợ viên hạ sĩ nói bà ta sẽ gửi một bức điện cho bà ngoại ra đón chúng tôi ở Limerick và ở đó, bà ngoại sẽ ra đón ở sân ga. Bà ngoại có mái tóc trắng, hai mắt bà trông có vẻ kèm nhèm, bà quấn trên vai một chiếc khăn choàng màu đen. Bà đứng như một bức tượng, không hề nở một nụ cười khi trông thấy chúng tôi. Bà ngoại không cười với mẹ tôi, chẳng cười với bất cứ ai, ngay cả khi Malachy nở một nụ cười lớn với hàm răng trắng đẹp của nó, bà vẫn dửng dưng. Mẹ chỉ vào bố giới thiệu: “Đây là Malachy mẹ ạ”. Bà ngoại gật đầu rồi quay đi nơi khác. Bà gọi hai cậu bé đang chơi quanh quẩn trên sân ga, trả cho mỗi đứa ít tiền lẻ để chúng xách hành lý cho gia đình tôi. Mấy thằng bé tóc tai trọc lốc, mũi dãi thò lò và đi chân đất. Chúng tôi đi theo họ dọc theo những con phô của Limerick. Tôi hỏi mẹ tại sao mấy anh kia không có tóc, mẹ nói họ cạo trọc đầu như thế thì chấy rận mới không có chỗ ẩn náu. Malachy nghe lỏm được bèn hỏi luôn mẹ xem chấy rận là cái gì? Mẹ lại phải lòng vòng giải thích cho nó mãi mới chịu yên. Bà ngoại xem chừng có vẻ nổi cáu, bà bảo mẹ con nó có thôi ngay đi không, nói chuyện theo cái kiểu gì vậy? Mấy cậu bé cười nói, huýt sáo và nhảy nhót suốt dọc đường cứ như thể là họ có giầy dưới chân vậy. Điệu bộ của họ khiến bà phát càu nhàu: “Chúng mày có im ngay không, cái kiểu ở đâu cứ cười nói ầm ĩ lên như thế, không chừng lại làm đổ tung tóe hành lý người ta ra đấy”. Và thê là các cậu bé lại đi đứng một cách trật tự, không cười đùa nhảy nhót, chúng tôi theo chân họ bước qua công viên, nơi có những hàng cột lớn với những bức tượng được đặt ở chính giữa và những thảm cỏ xanh mướt đến lóa mắt.
Bố bế trên tay hai cậu em sinh đói của tôi còn mẹ một tay xách túi một tay dắt Malachy. Cứ mỗi khi mẹ dừng lại để thở, bà ngoại lại hỏi mẹ: “Mày vẫn hút thuốc đấy à? Rồi mày sẽ chết vì thuốc thôi con ạ. ỞLimerick này có quá nhiều đứa bị viêm phổi vì thuốc lá rồi đấy”.
Có hàng trâm bông hoa đủ màu sắc khác nhau được trồng dọc theo lối mòn trong công viên khiến hai thằng em sinh đôi của chúng tôi tỏ ra phấn khích. Chúng không ngớt chỉ trỏ và hít mũi chùn chụt khiến cả nhà không nhịn được cười, chỉ trừ có bà ngoại ra, bà lặng lẽ kéo tấm khăn chùm kín đầu. Bố dừng lại, đặt hai đứa em xuống đường để chúng có thể ngắm hoa gần hơn. Bố nói “hoa” và thế là chúng nó cứ chạy tới chạy lui xung quanh, bắt chước cũng nói từ “hoa” theo bố. Một trong những cậu bé xách hành lý mướn thốt lên: “Chúa ơi, chúng nó là người Mỹ à?” và mẹ trả lời: “Đúng đấy, tất cả bọn nó đều được sinh ra ở New York”. Cậu bé quay sang nói với bạn: “Trời đất, chúng nó là người Mỹ cả đấy mày ạ”. Hai thằng nhỏ cùng đặt hành lý xuống đất rồi nhìn chằm chằm vào chúng tôi cho tới khi bà ngoại lên tiếng: “Các người không có ý định đứng ngắm hoa ngắm cỏ rồi lại trố mắt nhìn nhau cả ngày đấy chứ?” Và thế là tất cả chúng tôi lại tiếp tục lên đường, ra khỏi công viên, dẫn xuống một lối hẹp và rẽ sang một đường khác, nhà bà ngoại nằm ở đó.
Có một dãy nhà nhỏ nằm bên đường và nhà bà ngoại là một trong những căn nhà đó. Bếp của bà ánh lên màu đen bóng của những đổ đun nấu cùng với một ngọn lửa đỏ bập bùng trong lò sưởi. Trong phòng ăn kê một chiếc bàn dọc theo tường dưới khung cửa sổ nhỏ, trên tường gắn một chiếc tủ chứa tách chén, chai lọ. Chiếc tủ tường luôn được khóa cẩn thận và bà luôn để chìa khóa trong ví bởi không ai trong nhà được phép sử dụng bất cứ thứ gì trong đó trừ khi trong nhà có ai đó chết hoặc trở về từ nước ngoài hay cùng lắm là có Cha xứ đến chơi.
Trên tường còn treo một bức tranh vẽ hình một người đàn ông với những lọn tóc dài nâu óng và đôi mắt buồn. Ông ta chỉ tay vào ngực mình, nơi đó có một trái tim rất lớn đang bùng cháy trong lửa. Mẹ cho chúng tôi hay, đó chính là Trái tim linh thiêng của Chúa Jesus. Tôi không hiểu sao tim ông ta lại có thể bốc cháy dữ dội đến thế và tại sao lại không đổ nước vào đó. Bà ngoại tỏ ra không mấy hài lòng, bà bảo chúng tôi chẳng còn biết gì đến tôn giáo truyền thống. Mẹ có ý thanh minh với bà rằng ở Mỹ mọi chuyện đều khác. Bà nói rằng ai cũng phải biết tới sự tích này, không thể có gì biện minh trước mọi sự thờ ơ với nó.
Dưới bức tranh vẽ hình người đàn ông với trái tim bốc cháy là một cái giá đựng một chiếc cốc thủy tinh màu đỏ, trong đó là một ngọn nến lung linh và cạnh nó là một bức tượng nhỏ. Mẹ nói đó là Chúa Jesus lúc nhỏ, Chúa hài nhi trong Máng cỏ. Mẹ bảo nếu chúng tôi có muốn gì, cứ cầu nguyện với Ngài.
Malachy chẳng ngần ngừ gì, hỏi mẹ ngay lập tức: “Mẹ, con sẽ bảo ông ấy rằng con đang đói...”. Và ngay lập tức mẹ đưa tay lên môi ra dấu yên lặng.
Bà đi lại pha trà trong bếp, miệng không ngớt cằn nhằn và bảo mẹ cắt bánh mì nhưng đừng cắt quá mỏng. Mẹ ngôi xuống bàn ăn với hơi thở trở nên nặng nề, trả lời bà rằng mẹ sẽ cắt bánh trong mấy phút nữa. Bố cầm dao lên và bắt đầu xắt bánh mì, tất cả đều có thể thấy vẻ không hài lòng của bà. Bà nhìn bố cau mày nhưng không nói gì, ngay cả khi bố cắt những lát bánh mỏng tang.
Không có đủ ghê cho tất cả mọi người nên tôi và Malachy phải ngồi ăn bánh với trà nóng trên bậc cầu thang. Bố và mẹ ngồi bên bàn ăn còn bà thì ngồi dưới ảnh Chúa với tách trà của mình. Bà bắt đầu lên tiếng: “Thề có Chúa, tôi biết làm gì với mấy người bây giờ. Trong cái nhà này không còn chỗ cho các người, dù chỉ là một người”.
Malachy nhại lại giọng ê a của bà “e, e” và bắt đầu rúc rích cười, tôi cũng nói “e, e” và hai thằng em cũng bắt đầu “e, e”, tất cả chúng tôi đều cười rất thoải mái, thoải mái dến nỗi không nhét nổi bánh mì vào miệng nữa.
Bà nhìn chúng trừng trừng: “Chúng bay cười cái gì? Chẳng có gì đáng cười trong cái nhà này cả. Chúng bay nên cư xử cho phải phép trước khi tao dạy cho mỗi đứa một bài học”.
Bà vẫn không thôi cái giọng ê a của mình còn Malachy thì dường như không thể dừng lại được nữa, nó cười như nắc nẻ, bắn cả bánh mì ra ngoài, mặt nó đỏ lựng lên trông thật lạ.
Bố phải gắt lên: “Malachy và tất cả chúng mày, có thôi ngay đi không”. Nhưng Malachy không thể, nó vẫn cười ngay cả khi bố gọi nó: “Lại đây, lại đây”. Bố cầm hai bàn tay của nó đưa lên rồi phát vào đó mấy cái.
- Con có hứa là sẽ ngoan không hả?
Mắt Malachy đã ngán ngấn nước, nó khẽ gật đầu: “Con hứa”. Thằng bé có vẻ sợ thực sự vì từ trước đến giờ, chưa một lần bố nghiêm khắc với nó như vậy. Bố bảo nó: “Hãy là một cậu bé ngoan xem nào, ra kia ngồi với anh con”, rồi bố thả hai tay thằng bé xuống, xoa đầu nó một cách âu yếm.
Đêm hôm đó, chị gái của mẹ, bác Aggie trở về nhà từ nhà máy may. Bác cũng có vóc người cao lớn như chị em nhà McNamara với bộ tóc màu lửa cháy. Bác đi một chiếc xe đạp rất to thẳng vào trong căn phòng nhỏ sau bếp rồi quẳng ở đó, đi sang bếp dùng bữa tôi. Bác sống với bà bởi vì bác vừa cãi nhau với chồng, bác Pa Keating, người thường nói với bác trong cơn say rằng: “Cô đúng là đồ bò cái béo như lợn, sao còn chưa cút về nhà với mẹ”. Đó chính là lý do mà bà ngoại bảo với mẹ rằng không còn chỗ cho chúng tôi trong nhà bà. Bác sống ở đây với bà cùng bác tôi, bác Pat, người vẫn thường đi khắp thành phố bán báo.
Bác Aggie tỏ vẻ càu nhàu khi bà nói rằng tối nay mẹ sẽ ngủ cùng bác. Bà không bằng lòng, gọi bác ra mắng: “Mày có im ngay không. Chỉ có một đêm thôi, mày chẳng chết được đâu. Nếu không thích thì cứ về với thằng chồng mày. Đấy mới là chỗ của mày chứ không phải cứ về ăn vạ tao thế này. Lạy chúa Jesus, lạy Đức mẹ và cả thánh Joseph nữa, hay nhìn cái nhà này xem, mày, thằng Pat và cả con Angela với đống “tài sản” mà nó kéo từ Mỹ về nữa. Liệu chúng mày có định cho tao sống yên ổn nốt mấy năm cuối đời không đấy hả?”.
Bác trải áo khoác xuống sàn nhà trong căn phòng nhỏ phía sau còn chúng tôi thì nằm đó cùng với chiếc xe đạp của bác. Bố nằm tạm trên chiếc ghế kê trong bếp sau khi đã đưa chúng tôi đi vệ sinh ở sân sau. Khi chỉ còn lại bóng đêm yên tĩnh, hai đứa em tôi lại bắt đầu khóc vì lạnh.
Khi trời sáng, bác Aggie bước qua chỗ chúng tôi để lấy xe đạp đi làm, bác nói với chúng tôi: “Chúng mày làm ơn dịch sang một bên? Chúng mày có định tránh đường cho bác đi không thì bảo?”.
Khi bác đã đi khỏi, Malachy vẫn cứ lải nhải: “Chúng mày làm ơn dịch sang một bên? Chúng mày có định tránh đường cho bác đi không thì bảo?” Tôi có thể nghe thấy tiếng bố cười ngoài bếp cho tới khi bà xuất hiện trên bậc thang, khi đó bố buộc phải bảo Malachy trật tự.
Ngày hôm đói bà và mẹ đi ra ngoài, họ tìm được một căn phòng với đầy đủ đồ dùng sinh hoạt trên phố Windmill, nơi hai vợ chồng bác Aggie có một căn hộ. Bà trả tiền nhà cho mẹ, mười shilling cho hai tuần. Bà còn cho mẹ tiền đi chợ, cho chúng tôi mượn một cái ấm đun nước, một cái nồi, một cái chảo rán, mấy con dao và vài cái thìa, mấy lọ mứt nhưng để dùng vào việc uống trà, một cái chăn và một cái gối. Bà nói rằng đó là tất cả những gì bà có thể chu cấp cho chúng tôi trong khả năng của bà, và bố phải nhấc mông lên mà đi kiếm tiền trợ cấp thất nghiệp, tới hội từ thiện thánh Paul hoặc tìm một tổ chức cứu tế nào đó.
Căn phòng có một chiếc lò sưởi nhỏ, chúng tôi có thể dùng nó để đun nước pha trà hoặc luộc trứng chừng nào kiếm được tiền. Chúng tôi còn có một chiếc bàn, ba cái ghế và một cái giường, mẹ nói đó là chiếc giường lớn nhất mà mẹ từng thấy. Cả nhà tôi cảm thấy vô cùng sung sướng trên chiếc giường vào tối đó vì đã hoàn toàn kiệt sức sau mấy đêm ngủ dưới đất ở Dublin và ở nhà bà ngoại. Sáu người trên một chiếc giường, không thành vấn đề, chúng tôi vẫn lấy làm thích thú, được bên nhau, không còn ở bên bà hay với những người cảnh sát nữa, Malachy có thể nói “e, e” thỏa thích còn chúng tôi thì muốn cười bao lâu tùy ý.
Bố và mẹ nằm phía đầu giường, Malachy và tôi nằm phía cuối, còn chừa ra chỗ nào thì tùy hai đứa em út của tôi lựa chọn. Malachy lại khiến chúng tôi phải cười một phen. “E, e, e” nó cứ nói liên mồm, rồi “ôi, ôi, ôi”. Và thê rồi chúng tôi thiếp đi lúc nào không hay. Tiếng thở đều đều của mẹ báo cho chúng tôi biết bà đang ngủ say. Dưới ánh trăng vằng vặc, tôi nhìn lên phía đầu giường thấy bố vẫn đang thức trong khi Oliver đang khóc trong mơ, bố trườn về phía nó dỗ dành: “Bố thương, bố thương con trai, ngủ ngoan đi con..”.
Ngay sau đó Eugene ngồi bật dậy khóc thét: “A, a, mẹ ơi, mẹ ơi”. Bố cũng nhỏm dậy với nó: “Gì thế, gì thế con trai?” Eugene vẫn tiếp tục khóc và bố phải bế nó lên tay, quay ra phía đèn khí gas để nựng thằng bé. Tôi trông thấy rõ những con bọ chét bám đầy trên da thịt chúng tôi. Chúng tôi vừa đánh vừa đập, tìm mọi cách xua đuổi lũ bọ nhưng chỉ làm chúng nhảy từ người này sang người khác, chạy hết chỗ này đến chỗ khác trên người, khiến chúng tôi khó chịu vô cùng. Mấy đứa chúng tôi gãi đến bật máu. Chúng tôi nhảy dựng lên trên giường, hai đứa em sinh đôi la hét váng nhà, mẹ thì mệt mỏi rên ri: “Lạy Chúa, sao chúng con khổ thế này!”. Bố pha một ít nước muối vào một bình đựng mứt rồi chấm nhẹ lên người chúng tôi. Nước muối khiến chúng tôi thấy xót nhưng ông nói chỉ một lúc nữa mọi người sẽ thấy dễ chịu hơn.
Mẹ ngồi bên lò sưởi với hai đứa nhỏ đặt trên lòng. Bố cởi bớt áo rồi lôi đệm ra khỏi giường, đem ra tận ngoài đường. Ông đun đầy một ấm nước sôi, sau đó dựng chiếc đệm lên sát tường, dùng giầy đập cật lực. Bố luôn mồm bảo tôi phải rót nước sôi xuống sàn nhà, vào những chỗ mà bọ chét rơi xuống. Trăng ở Limerick sáng đến nỗi tôi có thể trông thấy vài mảnh trăng sóng sánh dưới nước, tôi ước sao mình có thể xúc được một ít trăng ra ngoài nhưng làm sao có thể làm được điều đó với một đống bọ chét nhảy lổm nhổm dưới chân. Bố vẫn tiếp tục dùng giày đánh vào đệm còn tôi phải chạy vòng ra sân sau để lấy thêm nước đổ vào nồi và ấm. Mẹ bảo: “Hãy nhìn con xem, giày tất ướt sũng ra thế kia, rồi con lại ốm lăn ra đấy. Còn bố mày nữa, chân đất thế kia thì viêm phổi mất thôi”.
Một người đàn ông đi xe đạp tới, dừng lại và hỏi bố tại sao phải nện cái đệm ra trò như thế. “Lạy Đức mẹ, tôi chưa từng nghe ai nói phải diệt bọ chét như thế này”, ông ta thốt lên. “Nếu cứ nhảy lên chẳng khác gì bọ chét như ông thì người ta phải nhảy đến gần mặt trăng may ra mới giết được đám bọ chét trên cái đệm kia”, người đàn ông bắt đầu giảng giải, “cách tốt nhất là ông nên đem đệm đặt lại vào giường, nhưng nhớ phải lộn ngược mặt lại, làm như thế khiến bọn chúng sẽ trở nên lú lẫn, chúng sẽ không biết mình đang ở đâu, và tất cả những gì chúng có thể làm là cắn vào đệm hoặc cắn chí lẫn nhau. Cách tốt nhất đấy”, ông ta khẳng định, “sau khi chúng cắn người xong, chúng sẽ bị bấn loạn, như ông thấy đấy, bởi lúc đó trong bọ chét cũng có mùi máu người, như vậy chúng sẽ không phân biệt được nữa, sẽ phát điên lên đấy. Bọ chét là loài khát máu nhất mà tôi thấy, tôi biết mấy cái này rành lắm”, ông ta hỉ hả, “chẳng là tôi sinh ra và lớn lên ở Limerick, dưới khu Ailen ấy, ở đấy nhiều bọ chét lắm, lúc nào cũng bu đầy trên mũi giày và sẵn sàng đàm đạo với ông về lịch sử của Ailen. Chúc ông may mắn. Tôi đứng đây cũng phải cẩn thận lắm, nếu có mấy con nhảy lên quần áo tôi thì chẳng khác gì tôi rước chúng về nhà. Bọn này sinh sôi nảy nở còn nhanh hơn cả đạo Hindu ấy chứ”.
Bố vội vàng hỏi: “Cảm phiền ông cho tôi xin một điếu thuốc?”.
- Thuốc lá hả? A, vâng, dĩ nhiên, có đấy ông ạ. Đây, mời ông. Cái khoản này khiến tôi thấy yếu đi nhiều. Ông biết đấy, vẫn cái chứng ho khan chết tiệt. Tôi ho dữ đến nỗi có lần suýt ngã xe cơ đấy. Tôi có thể hình dung được rõ từng bước đi của căn bệnh trong mỗi mạch máu của mình, cứ thế chẳng mấy chốc mà chúng ăn mất cả cái đầu tôi ý chứ”.
Ông ta đánh một que diêm châm thuốc rồi lại đưa cho bố tôi. “Dĩ nhiên”, ông ta tiếp tục, “ông cũng dễ nhiễm chứng ho khan lắm đấy, một khi đã sinh sống ở Limerick này bởi đây vẫn được coi như thủ đô của lao phổi, mà lao phổi sẽ dẫn đến viêm phổi thôi. Nếu tất cả những người bị viêm phổi đều lăn ra chết thì Limerick sẽ trở thành một thị trấn ma, tuy nhiên tôi vẫn chưa bị viêm phổi đâu nhé. Không phải, cái chứng ho khan này chỉ là sự hiện hữu của nước Đức”. Dừng lại một lát, kéo một hơi thuốc lá, rồi rũ rượi trong cơn ho khan, người đàn ông lại tiếp tục một cách khó nhọc: “Chúa ơi, bỏ quá cho con chứ, nếu cứ thê này thì con đến chết mất. Được rồi, bây giờ tôi sẽ để anh tập trung giải quyết cái đệm, nhớ những gì tôi dặn nhé, quan trọng nhất là phải làm cho lũ bọ chét con bị mất phương hướng”.
Ông ta loạng choạng nhảy lên xe đạp, mồm vẫn ngậm điếu thuốc, những cơn ho khan vẫn chẳng hề có ý định buông tha, chúng khiến ông ấy vừa đi vừa lảo đảo. Bố nói với tôi rằng người Limerick quả là lắm mồm. “Nào con trai, giúp bố một tay đem đệm vào, để xem đêm nay chúng ta có ngủ thêm được tí nào không?”.
Mẹ vẫn ngồi yên cạnh lò sưởi với hai thằng nhỏ ngủ tít trên lòng, còn Malachy đang thu mình, tựa lên chân mẹ trên sàn nhà. Mẹ hỏi bố: “Anh vừa nói chuyện với ai ngoài đấy? Nghe giọng có vẻ giống Pa Keating, chồng của chị Aggie lắm. Em có thể nhận ra qua những cơn ho khan của anh ấy. Anh ấy bị nhiễm bệnh từ bên Pháp hồi còn chiến tranh, trong một lần hít phải khí gas”.
Chúng tôi ngủ vùi trong suốt thời gian còn lại. Tỉnh dậy vào buổi sáng, tôi có thể thấy được buổi dạ tiệc của lũ bọ chét, da thịt chúng tôi đỏ ửng vì những vết cắn của bọ chét và trắng bợt với những vết gãi dài.
Trong lúc mẹ pha trà và nướng bánh mì, bố một lần nữa lại chấm nước muối cho chúng tôi vào những chỗ bị cắn. Xong việc, bố lôi đệm ra ngoài sân sau. Một ngày rét mướt như thế này, chắc chắn lũ bọ sẽ bị chết cóng và đến tối, chúng tôi sẽ được ngủ một cách yên ổn.
Vài ngày sau, khi chúng tôi có vẻ ổn định trong ngôi nhà mới, đột nhiên bố lay tôi khỏi giấc ngủ: “Dậy, dậy, Francis. Mặc quần áo vào rồi chạy đến nhà bác Aggie mau. Mẹ con cần bác giúp. Nhanh lên con trai”.
Mẹ đang rên rỉ trên giường, sắc mặt bà trắng bệch. Bố đã đặt Malachy cùng hai thằng út ngồi bệt dưới sàn nhà cạnh lò sưởi đã tắt ngấm. Tôi chạy một mạch dọc theo con phố và gõ cửa nhà bác Aggie cho tới lúc bác Pa Keating ra mở cửa, ho khan và càu nhàu: “Cái gì nữa đây, cái gì thế?”.
-Mẹ cháu đang rên la trên giường, cháu nghĩ mẹ cháu ốm nặng rồi.
Giờ lại đến lượt bác Aggie cằn nhằn: “Các người chẳng được cái tích sự gì từ khi ở Mỹ về, chỉ được cái rắc rối là giỏi”.
-Để cho thằng bé yên Aggie, nó mới chỉ là đứa trẻ. Nó chỉ biết làm những gì người lớn bảo thôi.
Bác Aggie bảo bác Pa trở về giường bởi bác còn phải đi làm vào buổi sáng, không giống những người từ miền Bắc kia mà bác không muốn nhắc tới. Bác vội xua tay: “Không không, anh phải đi. Hình như Angela thực sự cần chúng ta giúp”.
Bố khẽ bảo tôi phải ngồi yên đó với các em. Tôi chẳng hiểu chuyện gì đang xảy đến với mẹ bởi ai cũng chỉ thì thào rất khẽ, nhưng cũng vừa đủ cho tôi nghe thấy bác Aggie nói với bác Pa rằng mẹ đã mất đứa bé. Bác bảo bác Pa ra ngoài gọi xe cứu thương. Aggie còn bảo mẹ rằng mẹ có thể nhận xét nọ kia về Limerick nhưng xe cứu thương ở đây thì lúc nào cũng sẵn. Bác Aggie không hể nói nửa lời với bố tôi, thậm chí không buồn nhìn bố dù chỉ một cái.
Malachy tỏ vẻ sợ hãi: “Bố, mẹ ốm phải không?”.
- À, mẹ sẽ khỏe lại thôi con trai ạ. Mẹ cần phải đến bác sĩ một lúc.
Tôi không hiểu mẹ mất đứa trẻ nào vì tất cả chúng tôi đều có mặt ở đây, một hai ba bốn đứa chúng tôi, chẳng thấy thêm đứa nào để mất, và tại sao họ không thể nói cho chúng tôi hay mẹ bị làm sao. Bác Pa đã về, xe cứu thương chạy ngay phía sau bác. Mấy người nhảy xuống đặt mẹ tôi lên cáng rồi mang mẹ lên xe, tôi trông thấy rõ những vệt máu chảy từ giường theo lối chân họ lên xe. Malachy từng tự cắn vào lưỡi chảy máu và con chó trên đường cũng bị chảy máu rồi chết. Tôi rất muốn hỏi bố xem liệu mẹ có ra đi mãi mãi như em gái Margaret của chúng tôi không, nhưng bố đã lên xe cùng mẹ, còn hỏi bác Aggie thì chắc chắn chẳng ích gì, có khi còn bị bác bợp vào đầu cho. Bác Aggie cẩn thận lau sạch vết máu rồi dặn chúng tôi phải ở yên trên giường tới lúc nào bố về.
Lúc đó vào quãng nửa đêm, bôn anh em chúng tôi đều cảm thấy ấm áp trên giường, rồi mấy đứa ngủ lúc nào không biết cho tới khi bố về nhà thông báo cho chúng tôi biết mẹ đã ổn, đang được điều trị trong bệnh viện và chẳng mấy chốc sẽ về với bố con chúng tôi.
Sau đó, bố tới trung tâm Giới thiệu việc làm để xem có cơ hội nào không. Tuy nhiên, ở Limerick này sẽ không có cơ may việc làm cho những người đến từ miền Bắc Ailen.
Về đến nhà, bố nói với mẹ rằng chúng tôi sẽ được trợ cấp mười chín shilling một tuần. Mẹ bảo với chừng ấy tiền, chỉ vừa đủ cho chúng tôi không bị chết đói. Trông mẹ thật buồn, bà thở than: “Mười chín shilling cho sáu người nhà ta? Còn ít ơn bôn đôla bên Mỹ, làm sao chúng ta có thế tồn tại với số tiền trợ cấp ít ỏi như vậy? Chúng ta sẽ làm gì để trả hai tuần tiền nhà bây giờ? Nếu tiền thuê nhà là năm shilling một tuần, chúng ta sẽ có mười bôn shilling để mua thực phẩm và quần áo, may ra mua được ít than để đun nước pha trà!”.
Bố lắc đầu, nhấp một ngụm trà đựng trong bình mứt, nhìn chăm chăm ra ngoài cửa và huýt sáo điệu Những cậu bé Wexford. Malachy và Oliver vỗ tay nhảy nhót quanh phòng, chúng khiến bố cảm thấy khó xử không biết nên tiếp tục huýt sáo hay nên cười vì như mọi người biết đấy, có ai vừa huýt sáo vừa cười được bao giờ đâu. Bố phải dừng huýt sáo để cười, xoa đầu Oliver rồi lại liếp tục huýt sáo. Mẹ cũng cười, nhưng nụ cười của mẹ chỉ thoảng qua rất nhanh, sau đó bà lại nhìn chàm chú vào đống tro. Qua ánh mắt và khóe miệng trễ xuống của mẹ, tôi thấy bà đang lo lắng biết bao.
Ngày hôm sau, mẹ bảo bố ở nhà trông hai thằng út rồi dẫn tôi và Malachy đến hội Bảo trợ thánh Paul. Chúng tôi đứng xếp hàng cùng với những người phụ nữ choàng khăn đen. Họ hỏi tên chúng tôi và cười với chúng tôi trong khi nói chuyện. Họ bảo nhau: “Lạy Chúa, mọi người có nghe thấy mấy chú nhỏ người Mỹ nói chuyện không đấy?”. Và họ cũng lấy làm thắc mắc tại sao mẹ trông xinh xắn trong bộ áo váy của Mỹ như vậy mà lại phải đi xin đồ cứu tế bởi những người nghèo thực sự ở Limerick sẽ khó có thể chấp nhận việc mấy thằng nhỏ người Mỹ này tranh mất bánh mì từ miệng con cái họ.
Mẹ giải thích với họ rằng cái áo này mẹ được một người chị em họ tặng ở Brooklyn. rằng bố không có việc làm và mẹ còn hai đứa nhỏ nữa ở nhà, hai thằng bé sinh đôi. Những người phụ nữ xung quanh đều tỏ ra xúc động, họ sụt sịt rồi quấn chặt khăn lại và nói họ cũng có những khó khăn riêng. Mẹ bảo rằng gia đình tôi phải rời khỏi nước Mỹ bởi mẹ không thể chịu đựng nổi kế từ sau sự ra đi của đứa em gái tôi. Mấy người lại một phen nữa sụt sùi nhưng lần này là do mẹ tôi đã khóc thành tiếng. Một vài người nào đó nói rằng họ cũng mất đứa con nhỏ của mình, và đó là điều tồi tệ nhất xảy ra trên thế giới này.
Tất cả họ đều khóc thật ngon lành cho đến khi có người phụ nữ tóc đỏ mang một chiếc hộp nhỏ đi vòng quanh. Mỗi người đều nhặt một thứ gì đó trong chiếc hộp, kẹp giữa các ngón tay rồi nhét vào mũi. Bỗng một phụ nữ trẻ có vẻ khó chịu bèn hắt hơi khiến bà tóc đỏ cười phá lên: “A, ha, thấy rồi nhé Biddy. Đã bảo chưa đủ tư cách hít thuốc lá bột mà lị. Lại đây các cháu, mấy thằng Mỹ con, có muốn thử không?” Bà ta xoa một dúm chất bột màu nâu lên mũi chúng tôi và chuyện gì đến sẽ đến, cả hai thằng thi nhau hắt hơi khiến những bà đang khóc lóc mếu máo cũng phải ngừng lại mà cười rũ rượi tới mức họ phải dùng khăn choàng để lau khô mắt. Mẹ bảo chúng tôi: “Tốt đấy con ạ, nó làm chúng mày nhạy cảm hơn”.
Người phụ nữ trẻ có tên Biddy nói với mẹ rằng chúng tôi là hai đứa trẻ đáng yêu. Cô ấy chỉ vào Malachy mà nói: “Thằng bé có bộ tóc xoăn vàng óng này chẳng phải rực rỡ lắm sao? Nó sẽ trở thành một minh tinh màn bạc sánh vai với Shirley Temple ấy chứ”. Và Malachy mỉm cười rạng rỡ khiến cả hàng người xôn xao bàn tán.
Người đàn bà có thuốc lá bột quay sang bảo mẹ: “Thưa bà, tôi không muốn chen ngang nhưng theo tôi, bà nên ngồi xuống thì hơn vì tôi nghe nói bà vừa sảy thì phải”.
Một người phụ nữ khác tỏ vẻ lo lắng: “Ấy chớ, đừng, họ không thích thế đâu”.
-Ai không thích kia?
-À, Nora Molloy, hội Cứu tế không muốn chúng ta ngồi khi xếp hàng. Họ muốn tất cả chúng ta đều phải đứng dựa vào tường để tỏ sự kính trọng.
-Mấy cái con mẹ vớ vẩn, sợ đếch gì, - Nora tỏ vẻ phẫn nộ, - ngồi xuống đi bà, bà cứ ngồi lên cái bậc này này, tôi sẽ ngồi ngay cạnh bà và nếu như có đứa nào dại dột mà ý kiến với chả ý cọt, tôi sẽ cho nó lật mặt ngay, tôi dám lắm đấy. À, bà có hút thuốc không?
-Tôi có hút nhưng không có thuốc ở đây, - mẹ nhẹ nhàng trả lời Nora.
Nora móc trong tạp dề ra một điếu thuốc, bẻ làm đôi rồi mời mẹ một nửa.
Người phụ nữ ban nãy tỏ ra lo lắng giờ càng sốt sắng hơn: “Họ cũng không thích chúng ta hút thuốc đâu. Họ bảo mỗi điếu thuốc các người hút là móc bánh mì trong miệng bọn trẻ ra. Ngài Quinlivan trong kia phản đối kịch liệt chuyên này đấy. Ông ấy bảo nếu các vị có tiền hút thuốc thì cũng đủ tiền mua thức ăn rồi còn gì”.
-Quinlivan cái con khỉ, cái đồ con hoang suốt ngày nhãn nhở. Chẳng lẽ lão lại ghen với mấy cái hơi thuốc của chúng tao à? Thuốc lá là cái thú vui duy nhất của chúng tao trên cái cõi đời này đấy.
Có tiếng kẹt cửa ở cuối gian sảnh rồi xuất hiện một người đàn ông: “Có ai trong số các cô cần giày cho con cái không?”.
Các bà các cô nhao nhao, tranh nhau giơ tay lên cao: “Tôi, tôi cần”.
-Ờ, thế mà lại hết sạch giầy rồi cơ đấy. Tháng sau các cô quay lại nhé.
-Nhưng thằng Mikey nhà tôi cần giày để đi học.
-Đã bảo là hết tiệt rồi mà.
-Nhưng ngoài trời rét căm căm thế kia cơ mà ông Quinlivan.
-Hết giày rồi. Tôi bó tay đấy. Cái gì thê kia? Ai hút thuốc lá đấy?
-Tôi đây, - Nora vẩy điếu thuốc rồi rít nó đến hơi cuối cùng.
-Mỗi một hơi thuốc cô rít vào...
-Tôi biết, - Nora chen lời, - là tôi móc bánh mì từ miệng bọn trẻ nhà tôi ra chứ gì?
-Cô láo quá đấy. Cô sẽ không nhận được một xu ở đây đâu!
-Thật à? Được thôi ông Quinlivan, nếu ở đây không có gì dành cho tôi, tôi biết mình sẽ lấy được ở đâu.
-Cô đang nói cái quái gì thế?
-Tôi sẽ đến hội phái Giáo hữu. Họ sẽ làm từ thiện cho tôi.
Ông Quinlivan bước về phía Nora, chỉ tay vào cô và gào lên: “Cô có biết chúng tôi có những gì không hả? Chúng tôi chỉ có xúp để cứu đói. Trong khi những người theo đạo Tin lành cứ đi vòng vòng để dụ dỗ các con Chiên ngoan đạo rằng nếu từ bỏ tín ngưỡng của mình và theo đạo Tin lành, họ sẽ có nhiều xúp hơn trong dạ dày. Chúa cứu giúp chúng con, một vài người Thiên chúa giáo đã ăn xúp của họ, những kẻ báng bổ thánh thần như thế chắc chắn sẽ bị đày xuống tầng sâu nhất của địa ngục. Và cả cô nữa, nếu cô mà mò đến Hội phái Giáo hữu, cô sẽ đánh mất linh hồn của mình và mất luôn cả phần xúp của bọn trẻ đấy”.
-Thế thì ông phải có trách nhiệm với chúng tôi chứ, có đúng thế không?
Ông ta nhìn chằm chằm vào cô, cô cũng nhìn lại. Đôi mắt ông ta lướt sang một người phụ nữ khác, cô này đang đưa lay lên bụm miệng cười.
-Sung sướ