
Tro Tàn Của Angela
Tổng số chương: 19
Lẽ ra bố mẹ tôi phải sinh sống ở New York, nơi hai người gặp gỡ, xây dựng gia đình và là nơi họ sinh ra tôi. Thay vào đó, họ quay trở về Ailen khi tôi lên bốn, em trai Malachy của tôi lên ba cùng cặp song sinh Oliver và Eugene, và suýt nữa là cả Margaret, nếu cô em út tội nghiệp của tôi không bị bệnh mà mất.
Mỗi khi nhìn lại tuổi thơ của mình, tôi tự hỏi tại sao tôi lại có thể sống được tới ngày nay. Có lẽ chắc hẳn do thời thơ ấu khốn cùng của chúng tôi: hiếm khi tôi có được cảm giác hạnh phúc trong suốt cái tuổi thơ đằng đẵng của mình. Nhưng tệ hơn cả một tuổi thơ khốn cùng thông thường, đó là tuổi thơ của một đứa trẻ Ailen, và điều tệ hại ở đây chính là cái tuổi thơ cùng quẫn của đứa trẻ Ailen theo đạo Thiên Chúa.
Ở đâu cũng có những người luôn khoác lác và ca cẩm về những nỗi bất hạnh của mình trong những năm tuổi trẻ, nhưng có lẽ không có nỗi bất hạnh nào lại có thể so sánh nổi với nỗi bất hạnh của người Ailen: nghèo đói; một ông bố nát rượu ươn hèn và lắm điều; một bà mẹ sùng đạo nhưng luôn miệng than van; những thầy tu khoác cái vẻ ngoài đạo đức; những giáo viên hách dịch hay ức hiếp; ngôn ngữ tiếng Anh và những thứ kinh khủng mà người ta nhồi nhét cho chúng tôi với cái gọi là truyền thống tám trăm năm lịch sử.
Nhưng hơn cả những cái đó, chúng tôi luôn sống trong tình trạng ẩm ướt.
Ở ngoài khơi kia, Đại Tây Đương không ngừng tung vào bờ những cơn mưa lớn, chậm rãi kéo lên sông Shannon và dường như định cư vĩnh viễn ở Limerick. Những cơn mưa khiến thành phố ướt dầm dề từ ngày Lễ Thánh đầu năm cho tới tận đêm Giao thừa. Nó gây ra những chứng bệnh kinh niên cho người dân vùng này như ho khan, viêm phổi, hen suyễn hay tệ hơn nữa là bệnh lao. Nó biến những cái mũi thành cái đài phun nước, phổi thành những cái túi xốp chứa vi khuẩn. Nó như trêu ngươi tất cả các phương pháp điều trị bệnh thông thường, để chặn những cơn chảy nước mũi, anh phải luộc hành với sữa và trộn cùng hạt tiêu; còn nếu muốn chữa khỏi chứng sung huyết, anh phải nhào bột mì luộc với cây tầm ma, bọc nó vào trong miếng giẻ rồi lăn qua lăn lại trên ngực.
Từ tháng Mười cho tới tháng Tư, những bức tường của Limerich luôn sũng nước. Áo quần chẳng có cơ hội để khô: áo khoác bằng vải tuýt hay sợi len luôn là nơi cất giữ những vật ngoài ý muốn, đôi lúc có thể là chỗ nảy mầm của một loài thực vật bí ẩn nào đó. Trong các tiệm rượu, người ta hít đẫy hơi nước bốc lên ngùn ngụt từ những bộ quần áo ẩm ướt khoác trên những cơ thể cũng không kém phần ướt át, hòa với khói thuốc lá và xì gà, tất cả được trộn với mùi vị của những cốc bia đen hoặc whisky để rồi được quyện thêm cái hương thơm phảng phất của nước tiểu ngoài cửa, nơi mà có không ít gã đã mửa ra hầu hết số tiền công kiếm được trong tuần của mình.
Những cơn mưa đã khiến chúng tôi hướng cả tới nhà thờ - nơi trú ẩn của mọi người bởi nó là chỗ duy nhất trong thành phố còn khô ráo. Trong những buổi lễ Mixa, lễ Giáng phúc hay những buổi cầu nguyện đặc biệt, chúng tôi thường túm tụm thành một đống lộn xộn và ẩm ướt, gà gật trong tiếng giảng kinh đều đều của linh mục. Trong khi đó, hơi nước cứ thản nhiên bốc lên từ cơ thể của mọi người và được trộn lẫn với hương thơm của hương hoa và nến.
Limerick đã nổi lên như một thành phố có những công dân mộ đạo nhất Ailen, nhưng chỉ có chúng tôi mới biết rõ, nguyên nhân sâu xa chính là những cơn mưa.
*Malachy McCount, cha tôi sinh ra trong một trang trại ở Toome, tỉnh Antrim. Cũng giống như ông nội tôi, ông lớn lên một cách hoang dã, với cái thứ tiếng Anh chẳng giống ai, và rất có thể ông cũng gặp vấn đề tương tự với tiếng Ailen của mình. Ông đã tham gia Quân đội Cộng hòa Ailen cũ (IRA), trải qua một số trận chiến sống còn, nhận mấy vết thương trên người và cuối cùng là đào ngũ để rồi bị quân đội treo giải thưởng chính cái đầu của mình.
Khi còn là một đứa trẻ, tôi thường hay ngắm ông: một người đàn ông tóc thưa, răng rụng gần hết. Tôi tự đặt cho mình một câu hỏi mà hồi đó không thể nào lý giải nổi: ai lại trả tiền cho một cái đầu như thế kia chứ?
Năm mười ba tuổi, bà nội cho tôi biết một bí mật: “Khi người cha đáng thương của cháu còn nhỏ, bố cháu đã bị ngã đập đầu xuống đất. Đó là một tai nạn, sau cú ngã đó, bố cháu không bao giờ còn được nhanh nhẹn như trước nữa, cháu phải nhớ rằng những người bị ngã đập đầu thường hay bị những biến chứng ít nhiều có ảnh hưởng đến đầu óc”.
Sau khi lệnh truy sát ông được ban hành rộng rãi, bố tôi buộc phải bí mật trốn khỏi Ailen trên một chiếc tàu thủy chở hàng từ Galway. Ở New York, khi luật Cấm nấu và bán rượu lên đến cao trào, ông cho rằng mình đã chết và bị đày xuống địa ngục bởi những tội lỗi của mình. Nhưng không lâu sau đó, khi phát hiện ra một số nơi bán rượu lậu, ông lại lập tức cảm thấy hoan hỉ.
Sau những năm tháng lang thang và say sưa ở Mỹ cũng như ở Anh, ông chợt cảm thấy mong mỏi những giây phút thanh bình cho những năm xuống dốc của cuộc đời. Ông quay trở lại Belfast, nơi mà ông cho rằng sẽ được yên ổn. Ông nói, suốt ngày các thiếu phụ ở thị trấn Anderson cứ vây lấy ông, họ đã tìm cách quyến rũ ông bởi sự duyên dáng và khéo léo của mình. Nhưng ông đã xua bọn họ đi bằng hết và chỉ ngồi nhấm nháp trà một mình. Ông không còn hút thuốc và chạm môi vào bất kỳ thứ nước có cồn nào, vậy ông sống bằng cái gì? Đó chính là thời gian ông ra đi trong bệnh viện Chiến thắng của Hoàng gia.
Mẹ tôi, Angela Sheehan, là một người thuộc lớp người trước. Sinh trưởng trong một khu ổ chuột cùng với bà ngoại, hai anh trai, Thomas và Patrick, và chị gái, bác Agnes. Mẹ tôi chưa một lần nhìn thấy mặt cha mình, người đã chạy sang Úc chỉ vài tuần trước khi mẹ ra đời.
Sau một đêm uống đẫy bia đen trong một quầy ba nhỏ ở Limerick, ông tôi bước chuệnh choạng xuống con hẻm nhỏ và nghêu ngao bài hát “tủ” của mình:
Thằng nào đã ném quần vào món xúp cá
của bà Murphy?
Không ai mở mồm
và hắn nói đó là tên khuân vác
Lại cái trò bịp bợm của bọn Ailen,
rồi mình sẽ nện cho tên Mick
Thằng nào đã ném quần vào món xúp cá
của Murphy.
Ông cảm thấy dường như mình còn hoàn toàn tỉnh táo và muốn chơi một lúc với cậu con cưng Patrick, lúc này bác được một tuổi. Ôi, cục cưng nhỏ bé của ta. Bác Patrick cũng rất quấn ông tôi. Bác cứ cười sằng sặc mỗi khi ông tung bác lên cao. Lên nào, xuống nào, Paddy cưng của bố, lên nào, xuống nào, lên nào... trò chơi diễn ra trong bóng tối, rất tối. Chúa ơi, ông đã đỡ hụt Patrick khi bác rơi xuống. Bác Patrick đáng thương lần này phải tiếp đất bằng đầu, rầm một cái, bác kêu lên được mấy tiếng rồi im bặt. Bà tôi nặng nề bò khỏi giường một cách khó nhọc, khó nhọc là bởi mẹ tôi đang trong bụng bà. Bà chỉ còn đủ sức nâng bác lên khỏi sàn nhà rồi ôm lấy bác mà rên rỉ, khóc lóc. Một hồi bà quay về phía ông: “Cút ngay khỏi đây. Cút. Nếu tôi còn thấy ông đứng đây thêm một phút nào nữa, tôi sẽ chẳng tiếc nuối gì mà không cho ông một rìu, cút ngay cái lão nghiện ngập mất trí kia. Thề có Chúa, tôi phải treo cổ ông lên mới được. Cút ngay”.
Ông tôi vẫn đứng hiên ngang như một người đàn ông thực thụ. Ông vẫn chưa chịu đi mà còn lè nhè chống chế: “Nhà tao, tao ở, tao có quyền..”.
Bà nhảy xổ vào ông như một cơn lốc với đứa trẻ bị thương trên tay trong một cơn phẫn nộ khủng khiếp. Phải tới lúc đó, ông ngoại dường như mới ý thức được cái gì sắp xảy đến với mình, thế là ông nhảy một bước từ trong nhà xuống con hẻm nhỏ rồi cắm đầu chạy, chạy riết, ông chỉ dừng lại khi tới được Melbourne, một thành phố ở tận nước Úc.
Pat nhỏ bé, ông bác tôi từ đó không bao giờ còn được như trước nữa. Bác Pat lớn lên với một dị tật ở đầu, một bên chân của bác như thể đang đi trên một con đường, và những bộ phận còn lại trên cơ thể thì đi trên con đường bên cạnh. Bác chưa từng được học để đọc và viết nhưng Chúa lại có cách khác để bù đắp cho bác. Được tám tuổi, bác tôi bắt đầu bán báo và có thể đếm tiền nhanh hơn cả Bộ trưởng Bộ Tài chính. Không ai biết từ đâu mà bác tôi lại có cái tên Ab Sheehan, Ab có nghĩa là cha tu viện trưởng, nhưng cả Limerick đều yêu mến bác.
Mẹ tôi gặp rắc rối ngay từ cái đêm có mặt trên cõi đời này. Bà ngoại nằm trên giường hổn hển, đau đớn khi trở dạ, bà chỉ biết cầu Thánh Gerard Majella, thần hộ mệnh của những bà mẹ sắp sinh nở. Cạnh bà là y tá O’ Halloran, bà đỡ của Limerick. Dường như toàn bộ váy sống diêm dúa của bà đều được vén lên hết cỡ. Sở dĩ như vậy bởi đêm đó chính là đêm Giao thừa và bà O’ Halloran lo lắng cho đứa trẻ trong bụng bà ngoại, chính vì thế mà bà bỏ dở bữa tiệc mừng năm mới để đến giúp bà tôi. O’ Halloran nói với bà: “Bà có rặn được không, có được không? Lạy Chúa, lạy Đức mẹ và lạy cả Thánh Joseph linh thiêng nữa. Nếu các Người không nhanh chóng giúp đứa trẻ ra đời trước năm mới thì đi toi bộ váy mới của tôi mất thôi! Thôi, bỏ qua Thánh Gerard Majella. Đàn ông thì làm được gì cho một người phụ nữ vào đêm Giao thừa như thế này, nhất là khi ông ta là Thánh cơ chứ? Thánh Gerard Majella cái con khỉ”.
Bà tôi thôi không cầu nguyện Thánh Gerard Mejella nữa mà chuyển sang Thánh Ann, vị này hộ mệnh cho những ca sinh khó. Nhưng đứa trẻ vẫn chưa chịu ra. Hộ lý O’ Halloran nói với bà tôi: “Bà thử cầu Thánh Jude xem, vị này chỉ dành cho những ca nan y thôi”.
- Thánh Jude, thiên thần của những ca thập tử nhất sinh, xin Người hãy giúp con, con tuyệt vọng quá rồi. - Bà gào lên và cái đầu trẻ con đã lấp ló, chỉ có cái đầu, đó là mẹ tôi. Đúng lúc đó đồng hồ điểm mười hai tiếng, thời khắc Giao thừa, sang một năm mới. Cả thành phố Limerick chìm ngập trong tiếng reo hò, tiếng chuông, tiếng nhạc, tiếng còi tầm, tiếng mọi người gọi nhau và hò hát vang rền. Chúc mừng năm mới. Những điều không may mắn của năm cũ đều bị bỏ lại sau lưng, những hồi chuông nhà thờ được gióng lên trong tiếng cầu kinh Đức Bà.
Trong lúc đó y tá O’ Halloran đang khóc lóc vì tiếc cho bộ váy áo diêm dúa đón mừng năm mới đã bị phí hoài bên cạnh một bà đẻ. Đứa trẻ vẫn trong bụng mẹ nó còn mình thì vẫn trong bộ đồ lộng lẫy dường này. Mày có ra không, ranh con, có ra không? Trong một nỗ lực tuyệt vọng, bà tôi dùng toàn bộ sức lực của mình để rặn thật mạnh, vậy là thế giới này có thêm một đứa trẻ, một bé gái đáng yêu với vài lọn tóc đen loăn xoăn và đôi mắt xanh buồn thẳm.
- A, Chúa chứng giám, - y tá O’ Halloran thốt lên, - con bé này sinh ra trong hai năm, cái đầu của nó ra trước vào năm cũ và cái mông nó phải đợi tới năm sau mới chịu ra hay đại loại như thế. Bà sẽ phải khai sinh cho nó cẩn thận đấy, mẹ nó ạ, để xem nó sinh vào năm nào còn bây giờ tôi phải để dành bộ váy này tới Tết sang năm vậy.
Và đứa trẻ được đặt tên là Angela bởi nó sinh vào đúng lúc Giao thừa, khi cả thành phố đang gióng lên những hồi chuông cầu kinh Đức Bà mang tên Angelus và còn bởi một nhẽ: dẫu sao nó cũng là một thiên thần bé bỏng đáng yêu.
Yêu mẹ từ thuở còn thơ
Dẫu tháng năm có khiến bà mệt mỏi
Bởi con sẽ sống trong tình yêu của mẹ
Cho tới một ngày mẹ dưới lớp đất kia
Cô bé Angela bắt đầu tập đọc, tập viết và làm tính ở trường Thánh Vincent de Paul, lên chín tuổi cô đã kết thúc mọi việc học hành. Cô bắt đầu phải kiếm tiền với công việc của người giúp việc, một người hầu gái với nhiệm vụ đội một chiếc mũ trắng đứng ở cửa đón khách. Nhưng Angela đã không thể nhún người theo đúng cách mà người ta yêu cầu. Mẹ cô bực lắm, mắng mỏ: “Mày không tập được cái thói quen đấy hay sao? Đúng là đồ vô dụng. Tại sao mày không sang Mỹ cho tao nhờ, ở đấy mới có chỗ cho cái loại vô dụng như thế? Tao cho mày tiền tàu đấy”.
Angela tới New York vào đúng lễ Tạ Ơn trong năm xảy ra cuộc Đại Suy thoái. Cô gặp Malachy trong bữa tiệc do hai vợ chồng Dan MacAdorey và Minnie ở đại lộ Classon thành phố Brooklyn tổ chức. Malachy thích Angela và cô cũng mến anh. Anh trông giống một kẻ vô lại, cũng bởi anh mới ra khỏi xà lim sau ba tháng bị giam vì tội cướp xe tải. Anh ta cùng với người bạn Jonh McErlaine đã tin vào những gì nghe được trong quán rượu lậu, rằng chiếc xe tải được lèn chặt lên tận nóc bởi những thùng thịt lợn và đậu. Cả hai chẳng ai biết lái xe, chỉ tới khi cảnh sát trông thấy chiếc xe tròng trành, lắc lư như chính những gã say đang điều khiển nó trên đại lộ Myrtle, họ mới kèm vào lề đường. Khi cảnh sát lục soát chiếc xe, họ mới tự hỏi không biết mấy cái gã kia có điên hay không lại đi cướp lấy một chiếc xe chở toàn cúc áo chứ không phải là thịt lợn và đậu như thế.
Thoạt tiên, khi Angela trông thấy một gã với vẻ ngoài vô lại như Malachy, hai gối cô tưởng như run lên vì sợ hãi. Ngược lại, Malachy chẳng việc gì phải sợ nhưng sau ba tháng ngồi xà-lim, nay được bước ra ngoài cũng khiến anh ta lập cập không vững.
Cơn run gối kia vô tình lôi hai người về cùng một phía và chẳng bao lâu họ đã dựa hẳn vào tường trên hai đôi chân lập cập, căng thẳng nhưng hai con tim lại dạt dào xúc cảm.
Dẫu sao hai gối run rẩy lại khiến Angela rơi vào tình trạng hưng phấn, và dĩ nhiên, họ phải tìm cách che đậy cảm xúc của mình bằng cách nói với nhau vài ba câu chuyện bâng quơ. Angela có một vài người anh em họ, mấy người chị em của MacNamara, đó là Delia và Philomena. Cả hai người đều đã lập gia đình với Jimmy Fortune ở hạt Mayo và Tommy Flynn ở ngay thành phố Brooklyn này.
Delia và Philomena là hai phụ nữ có vóc người đẫy đà, lắm lời và có phần hung tợn. Khi họ sóng bước bên nhau trên các con lộ ở Brooklyn, bất kỳ một sinh vật nào nhỏ bé hơn cũng phải nép sang một bên, sự e sợ thể hiện rõ trên từng nét mặt. Hai chị em luôn biết thế nào là đúng và thế nào là sai, hơn nữa, bất kỳ một điều gì đáng ngờ cũng sẽ nhanh chóng bị đập tan bởi Thánh thần, Giáo hội, Tín đồ tôn giáo và Tòa thánh. Họ biết Angela là một thiếu nữ chưa chồng, một người như vậy không có quyền hưởng thụ cái trạng thái hưng phấn kia, và họ quyết định phải can thiệp.
Hai chị em họ lừng lững bước đi, tay dắt theo hai ông chồng là Jimmy và Tommy. Mấy người tới một quán rượu lậu nằm trên đại lộ Atlantic, nơi họ có thể kiếm được Malachy vào ngày thứ Sáu, cái ngày mà anh được thanh toán tiền công tuần trong trường hợp tìm được việc. Joey Cacciamani, người gác cửa không muốn cho hai chị em vào nhưng Philomena đã nói với anh ta, nếu anh còn muốn mũi nằm trên mặt và cánh cửa còn treo trên bản lề thì nên biết điều mở cửa ra và đứng tránh sang một bên để họ thực hiện nhiệm vụ của Chúa. Joey thốt lên: “Được rồi, được rồi, các người Ailen đáng ghét. Chúa ơi! Phiền phức quá”.
Trong khi đó, Malachy đang gà gật cạnh ly rượu phía bên kia quầy bar, nét mặt đang chuyển sang tái xanh nhưng vẫn cố nở một nụ cười dọn đường đối với hai chị em phổi bò này và không quên mời họ một ly. Hai người ghi nhận nụ cười của Malachy nhưng nhổ toẹt vào lời mời của anh. Delia bắt đầu: “Chúng tao chưa rõ mày đến từ tầng lớp nào ở miền Bắc Ailen”.
Philomena tiếp lời: “Người ta nói rằng trong gia đình mày hình như có một tín đồ của giáo hội Scotland, mày nói xem đã làm những gì với cô em họ của chúng tao”.
Jimmy không giấu nổi nỗi tò mò: “Ơ kìa, thế nhà nó có người theo đạo Scotland thì nó có lỗi à?”
- Câm ngay, - Delia không nén nổi sự bực mình.
- Những gì mày làm với cô em đáng thương và kém phần may mắn của chúng tao là một sự sỉ nhục đối với dân tộc Ailen mày hiểu chứ? Lẽ ra mày phải biết lấy làm xấu hổ mới phải. - Tommy quyết định phải tham gia vụ này.
- Ờ,... ờ... tôi, tôi... - Malachy ấp úng.
- Ai cho phép mày nói, - Philomena hoạnh họe, - Mày đã làm quá đủ những chuyện bậy bạ rồi, câm ngay.
- Và trong lúc mày câm mõm, chúng tao muốn được trông thấy mày làm điều phải với cô em họ Angela Sheehan đáng thương của chúng tao. - Delia thêm vào.
- Ơ, vâng, quả thực... quả thực... thì đâu sẽ vào đó thôi ạ. Tôi rất hân hạnh nếu được mời mọi người uống một chút trong lúc chúng ta nói chuyện. - Malachy e dè đề nghị.
- Gọi đồ uống, - Tommy dõng dạc, - và tao sẽ tưới đẫm cái con lừa này.
- Mày đã dính lấy cô em tao kể từ khi nó vừa bước chân xuống tàu. Ở Limerick chúng ta là những người có đạo đức, mày biết đấy, đạo đức. Chúng tao không phải là bọn thỏ mồi ở Antrim, cái nơi đầy những tên tín đồ Scotland như mày. - Philomena bắt đầu triết lý.
- Nhưng trông hắn không giống tụi Scotland lắm thì phải - Jimmy thẽ thọt.
- Đã bảo là câm ngay kia mà - Delia dường như không thể kiềm chế được hơn nữa.
- Còn một điều nữa mà chúng ta để ý thấy, - Philomena nhận xét, - đó là mày có một kiểu gì đó rất kỳ quái.
Malachy mỉm cười: - Tôi như vậy sao?
- Đúng thế, tao nghĩ đây chính là điều đầu tiên chúng tao phát hiện ra ở mày, cái kiểu kỳ quái ấy, nó khiến tao thấy khó chịu lắm. - Delia chêm vào.
- Đấy, mọi người có thấy nó cười có vẻ rất Scotland không? - Philomena quả quyết.
- Ôi trời, đấy là do tôi đang bị đau răng thôi mà, - Malachy thanh minh.
- Không răng hay có răng, kỳ quái hay bình thường, mày cũng phải lấy con bé làm vợ, - Tommy đi thẳng vào vấn đề, - đừng có tính đến chuyện chuồn.
- Ôi Chúa ơi, các người biết đấy, tôi chưa có ý định lấy vợ. Thất nghiệp thì lấy đâu ra tiền để mà... - Malachy phân trần.
- Cưới là việc không thể tránh khỏi, - Delia kết luận.
- Đừng có tính đến chuyện chuồn, - Jimmy tỏ vẻ hăm dọa.
- Có im đi không, - Delia hét lên.
*Malachy dõi theo mấy người khi họ kéo đi. “Sao tao lại khốn nạn thế kia chứ!”, anh nhăn nhó quay sang Joey Cacciamani.
-Mày tiêu đời rồi, khi thấy mấy mụ giặc cái ấy, tao biết thể nào cũng có chuyện cho mà xem! - Joey tỏ vẻ hiểu biết.
Malachy ngẫm nghĩ về hoàn cảnh của mình. Anh còn vài đôla sót lại trong túi, thu nhập từ công việc cuối cùng, hình như anh còn một ông bác ở San Francisco hay ở một quận nào đó của California. Liệu anh có nên tránh xa cái nơi này không nhỉ, phải chăng nên tránh càng xa hai mợ phổi bò cùng với hai gã chồng hung tợn kia càng tốt? Quả thật, anh nên ra đi, phải làm gì đấy kỷ niệm sự ra đi này chứ nhỉ? Joey rót đầy một cốc rồi tu ừng ực khiến cổ họng Malachy nóng ran. Đúng là đồ Ailen! Anh nói với Joey rằng những chuyện về tín đồ Scotland chỉ là bịa đặt. Joey nhún vai tỏ vẻ vô can: “Tôi không biết, tôi chỉ biết rót rượu thôi”. Thế cũng tốt, còn hơn là chẳng có gì đổ vào mồm, Malachy gọi thêm một cốc rồi quay sang hai gã người Ý bảnh bao ngồi kế: “Hai ông cần gì không, đang nói chuyện gì thế?”
*Anh tỉnh dậy trên băng ghế của ga tàu hỏa Long Island khi một viên cảnh sát gõ nhẹ lên đôi ủng bằng chiếc gậy tuần đêm. Không một xu dính túi, mấy chị em nhà McNamara sẽ nuốt sống anh ở Brooklyn mất.
Đó là một ngày tháng Ba xầm xì, đã bốn tháng kể từ cái hôm “run gối” ấy, một bữa tiệc nhỏ được tổ chức tại nhà thờ thánh Joseph để chứng kiến lễ cưới của Malachy với Angela. Họ có con đầu lòng vào tháng Tám. Vào một ngày tháng Mười Một, nhân một dịp say bí tỉ, Malachy nhận ra rằng đã đến lúc phải khai sinh cho đứa trẻ. Anh cho rằng có lẽ mình sẽ gọi đứa trẻ là Malachy, giống như bố nó, nhưng do cách phát âm của người Ailen cộng với cái giọng say sưa lè nhè mà viên thư ký khi buông bút xuống khai tên cho đứa trẻ chỉ viết đơn giản có mấy chữ Male.
Không cần phải đợi đến tận tháng Mười Hai họ mới đem Male đến Nhà thờ thánh Paul để làm lễ rửa tội và đặt tên thánh Francis theo họ của ông nội bé và của thánh Assisi đáng kính. Angela muốn đặt tên lót cho con là Munchin, ngay sau tên của thánh đỡ đầu vùng Limerick nhưng Malachy thề rằng chỉ có bước qua xác anh mới có thể đem một cái tên nào đó của Limerick ra mà đặt cho bất kỳ đứa con trai nào của mình. Nhưng đứa trẻ không thể sống cả đời với một cái họ. Việc thêm cho thằng bé tên đệm là một việc mà người Mỹ cho là điềm gở, bởi vậy không cần thiết phải có tên thứ hai làm gì nhất là nó đã được làm lễ rửa tội theo phép của Thánh Assisi.
Lễ rửa tội của thằng bé đã không diễn ra theo kế hoạch do việc chậm trễ khi chỉ định ai làm cha đỡ đầu. John McErlaine đã say bí tỉ trong một quán rượu lậu thay vì phải có mặt và làm lễ để trở thành cha đỡ đầu cho đứa trẻ. Philomena quay sang chồng: “Tommy, đến nước này thì anh phải làm cha đỡ đầu cho thằng bé thôi. Linh hồn đứa trẻ đang gặp nguy hiểm anh có thấy không?”. Tommy cúi gằm mặt càu nhàu: “Thôi được rồi. Tôi sẽ làm bố đỡ đầu cho nó nhưng tôi không chịu trách nhiệm nếu như cái thằng ranh này lớn lên lại giống hệt thằng bố nó và tiếp tục gieo rắc tội lỗi và hễ sểnh ra một tí là y như rằng lại chuồn tới quán rượu lậu của lão Jonh McErlaine đâu nhé”. Vị linh mục gật đầu vẻ đồng tình: “Ta đồng ý với con, Tom à. Con quả là một người đứng đắn, một người đàng hoàng thì không bao giờ bước chân vào những quán rượu lậu cả”. Trong khi đó thì Malachy, cha của đứa trẻ vừa trở về từ một quán rượu lậu cảm thấy như mình bị lăng nhục và chỉ chực cất lời tranh cãi với vị linh mục đáng kính, nhưng quả thực đó là hành động báng bổ thánh thần ghê gớm nhất mà không một ai nên làm. Bỏ cái áo linh mục xuống thì chưa chắc ai đã hơn ai đâu nhé. Hai người đàn bà to lớn cùng với những gã chồng dữ tợn đã kịp giữ anh chàng hăng tiết lại. Người mẹ trẻ Angela do bị kích động đột ngột nên không còn nhớ mình đang ôm đứa bé trên tay và kết quả là thằng bé rơi thẳng vào bình đựng nước thánh, thật không may, việc đắm chìm trong nước phép như vậy lại là một nghi lễ của đạo Tin lành. Một lễ sinh giúp việc cho linh mục nhanh tay lôi thằng bé lên khỏi bình nước và trả lại nó cho Angela, người mẹ vụng về tội nghiệp ngay lập tức vồ lấy thằng bé ướt rượt rồi òa khóc. Trong khi đó vị linh mục khả kính lại cười phá lên và nói: “Ta chưa từng chứng kiến một chuyện nào thú vị như thế này, hê hê, thằng nhỏ này đã làm theo phép rửa tội của người lớn rồi còn gì, thế thì nó cần gì đến ta nữa, hê hê...”. Điều này càng khiến Malachy sôi máu, anh chỉ muốn nuốt chửng vị linh mục vì cái tội dám coi thằng bé như một tín đồ của đạo Tin lành. Vị linh mục phải trấn an: “Trật tự, nên nhớ anh đang đứng trong nhà thờ”. Ngay lập tức Malachy đốp lại: “Nhà thờ cái mông tao”, và thế là anh chàng bị quẳng ra ngoài phố vì không ai được phép nhắc tới mông đít trong nhà thờ.
Sau lễ rửa tội, Philomena nói rằng cô có trà, bánh ngọt và đùi lợn muối ở nhà. Malachy hỏi lại: “Trà à?” “Ừ, trà. Nếu chú muốn thì có thể gọi nó là whisky cũng được”. Anh nói trà rất tuyệt nhưng trước hết anh có chuyện muốn giải quyết với Jonh McErlaine đã, cái gã thiếu đứng đắn ấy đã không chịu thực hiện trách nhiệm của mình như một người được chỉ định làm cha đỡ đầu của thằng bé. Angela tỏ ra quá hiểu ông chồng mình: “Anh lại kiếm cớ thoái thác để chuồn đến quán rượu lậu chứ gì?” “Thề có Chúa chứng giám, anh chỉ coi rượu là thứ vớ vẩn nhất trên đời này”. Malachy trả lời. Angela bắt đầu sụt sịt khóc: “Hôm nay là ngày gì nào? Ngày con trai anh làm lễ rửa tội thế mà cứ cắm đầu vào mấy cái quán rượu lậu ấy”. Delia lầm bầm chửi rủa: “Chú là thứ loại ghê tởm nhất mà tôi từng thấy, đã thế chú còn trông đợi cái gì ở Bắc Ailen kia chứ?”
Malachy nhìn hết người này đến người khác, hai chân cọ vào nhau, kéo vành mũ sụp xuống tận mắt, thọc hai tay sâu vào túi quần rồi lè nhè: “A...ừ...ờ thì...”. Vẫn cái cách mà mấy gã nát rượu vẫn thể hiện ở hạt Antrim: hối hả và vội vã chạy băng qua phố Court để lao vào mấy quán rượu lậu trên đại lộ Atlantic, nơi anh vẫn đinh ninh rằng bọn họ sẽ chúc mừng lễ rửa tội của con trai anh bằng một chầu rượu miễn phí.
Tại nhà của Philomena, trong khi các anh chị ăn uống say sưa thì Angela ngồi lủi thủi một góc, vừa cho con bú vừa thút thít khóc. Philomena đang đầy một mồm toàn bánh mì và thịt lợn muối vẫn không quên quay sang Angela quát tháo: “Mày ngu chưa em, vội vội vàng vàng tới nước Mỹ để rồi dính chặt lấy cái thằng mất trí ấy. Có lẽ mày ở vậy thì tốt hơn, đem thằng bé kia cho ai muốn nhận con nuôi, thế là mày lại trở thành một thiếu nữ tự do”. Angela càng khóc to hơn, tới lúc đó Delia thấy mình không thể ngồi yên được nữa: “Thôi nào, Angela, có thôi đi không. Còn định ăn vạ ai nữa ư, không phải tại mày cả hay sao. Thằng chồng của mày nom cũng chẳng ra dáng một người theo đạo Thiên Chúa cho lắm, người không ra người, ngợm chẳng ra ngợm. Tôi đã bảo là... là... Malachy có cái kiểu của bọn tín đồ Scotland rồi mà lị. Có im ngay đi không Jimmy.
Philomena bắt đầu giảng giải: “Nếu chị là mày, chị sẽ không có với nó thêm một đứa nào nữa. Nó chẳng có việc, rồi lại cứ luẩn quẩn mãi bên chai rượu như thế. Không có thêm đứa nào nữa đâu nhé, Angela. Mày có nghe chị nói không đấy hả?”.
- Philomena đang nói với mày đấy.
*Một năm sau, họ lại có với nhau thêm một đứa con. Angela gọi thằng nhỏ là Malachy, theo tên cha nó và đặt cho nó cái tên đệm là Gerard, theo tên bác nó.
Mấy chị em nhà McNamara bảo nhau: Angela thật chẳng có tích sự gì, chỉ được mỗi cái đẻ khéo và họ chẳng muốn giúp cô nữa, cho tới lúc cô trở lại minh mẫn như thuở trước.
Mấy ông chồng cũng hoàn toàn tán đồng với ý kiến đó của họ.
Tôi đang ở ngoài sân chơi trên đại lộ Classon ở Brooklyn với cậu em trai Malachy. Nó lên hai còn tôi lên ba. Hai đứa đang chơi bập bênh.
Lên, xuống, lên, xuống.
Malachy đứng lên khỏi bập bênh.
Tôi rơi phịch xuống đất.
Malachy leo lên bập bênh đúng lúc nó đang trên đà xuống. Thằng bé hét toáng lên. Nó cho tay vào mồm và tôi nhìn thấy máu.
Ôi, Chúa ơi. Chảy máu là tệ lắm. Mẹ sẽ giết tôi mất.
Và đây, bà đã xuất hiện, tìm cách chạy băng qua sân chơi đến với Malachy. Cái bụng to của mẹ không cho phép bà chạy nhanh.
Bà quát lên: “Mày làm cái gì thế? Mày làm gì thằng bé thế kia?”.
Tôi không biết trả lời mẹ thế nào. Tôi không biết mình đã làm gì.
Bà kéo tai tôi rồi nói: “Về nhà. Lên giường nằm ngay lập tức”.
Đi ngủ? Vào giữa ban ngày thê này sao?
Mẹ đẩy tôi về phía cổng sân chơi. “Đi”.
Bà quắp Malachy lên eo rồi khó nhọc bước về nhà.
*Chú MacAdorey, bạn của cha tôi không sống cùng khu nhà với chúng tôi. Chú đứng cạnh vợ mình, cô Minnie bên mép vỉa hè, họ chăm chú quan sát con chó đang nằm dưới lòng cống. Đầu con chó bết những máu là máu. Mà nó cũng giống với màu máu chảy ra từ khóe miệng của Malachy.
Malachy có máu chó và chó lại có máu của Malachy.
Tôi kéo tay chú MacAdorey và nói với chú rằng Malachy cũng có máu giống như con chó.
-Ồ, đúng rồi. Đúng như thế đấy Francis ạ. Cả mèo cũng như thế, và người Eskimos cũng vậy. Đều có máu như thê đấy - Chú giải thích cho tôi.
Minnie nói: “Thôi đi Dan. Đùng có làm cho chàng trai của chúng ta thêm lầm lẫn như thế”. Cô cho tôi hay con chó đáng thương của chúng tỏi đã bị ô tô chẹt và nó đã bò từ giữa phố về trước cửa nhà trước khi chết. “Nó cũng muốn về nhà đấy cháu ạ, con vật mới đáng thương làm sao”.
Chú MacAdorey nói: “Cháu nên về nhà đi Francis. Chú không biết cháu vừa làm gì với em, nhưng chú thấy mẹ cháu bế nó đến bệnh việc rồi. về nhà đi con trai”.
- Liệu Malachy có chết giống con chó của chú không hả chú MacAdorey?
Minnie hốt hoảng: “Nó cắn vào lưỡi. Nhưng em cháu không chết đâu”.
-Thế con chó có chết không?
-Nó chết rồi đấy thôi, Francis à.
*Căn hộ của chúng tôi chẳng còn một ai, tôi đang đứng giữa hai phòng, phòng ngủ và bếp. Cha tôi vẫn như mọi ngày: lang thang xuống đường đi khắp nơi tìm việc còn mẹ thì đang ở bệnh viện với Malachy. Tôi ao ước có cái gì đó bỏ vào mồm nhưng chẳng còn gì trong tủ đá ngoại trừ mấy cái lá bắp cải nổi lềnh bềnh trên đống đá đang tan. Cha tôi nói không bao giờ được ăn những thứ đã nổi trên mặt nước bởi rất có thể chúng đang thối rữa bên trong. Tôi nằm trên giường bố mẹ và cảm thấy hơi buồn ngủ, khi mẹ lay tôi dậy thì trời đã gần tối. “Em trai con đã ngủ được một lúc rồi. Suýt nữa thì nó cắn đứt cả lưỡi ra ngoài đấy. Con sang phòng khác đi”.
Cha đang loanh quanh trong bếp và nhấm nháp trà đen đựng trong cái ca men trắng của ông. Cha đặt tôi ngồi lên lòng ông.
Cha, cha kể cho con chuyện về Coo Coo đi. Cuchulain làm. Con nói lại theo cha xem nào, Coo- hoo-lin. Cha sẽ kể con nghe câu chuyện chừng nào con nói đúng cái tên của nó. Coo-hoo-lin.Tôi đã nói được đúng và cha kể cho tôi nghe câu chuyện về Cuchulain, người từng có một cái tên khác hồi còn nhỏ: Setanta. Thuở nhỏ, ông sống ở hạt Antrim, một vùng đất thuộc Ailen nơi David từng sống. Setana có một cái gậy và một quả bóng. Một ngày kia, khi ông đang chơi bóng thì quả bóng lăn vào trúng miệng con chó của Culain làm cho nó nghẹn thở. “Hmm”, Culain rất giận dữ, “Tôi làm được gì bây giờ khi không có chó để giữ nhà và vợ cùng với mười đứa con nhỏ cũng như vô số lợn, gà và cừu của tôi?”.
Setana quả quyết: “Cháu xin lỗi. Cháu sẽ trông nhà cho bác với cây gậy và quả bóng này và cháu sẽ đổi tên thành Cuchulain, Chó săn của Culain. Và cậu bé đã làm như vậy đấy. Cậu canh nhà và cả những vùng xung quanh rồi sau đó trở thành một vị anh hùng vĩ đại, với tên gọi Chó săn của vùng Ulster. Cha nói ông ấy đã trở thành một anh hùng còn vĩ đại hơn cả Hercules hay Achilles, những vị anh hùng mà người Hy Lạp suốt ngày đem ra để khoe khoang, ông còn có thể nhận lời thách đấu cả với vua Authur...
Đó là câu chuyện của tôi. Cha không thể mang câu chuyên đó ra kể cho Malachy hay bất kỳ đứa trẻ nào khác dưới nhà.
Ông kết thúc câu chuyện của mình rồi cho tôi nhấp một ngụm trà. Sao mà đắng thế, nhưng dẫu sao tôi vẫn cảm thấy hạnh phúc khi được ngồi ở đó, trong lòng ông.
*Trong những ngày tiếp theo, lưỡi của Malachy sưng phồng khiến nó rất khó khăn mỗi lúc định nói và dường như nó cũng chẳng có ý định nói chuyện với ai. Nhưng ngay cả khi Malachy gặp phải sự cố đó thì cũng chẳng ai có thời gian để mắt đến nó bởi gia đình chúng tôi đã có thêm hai thành viên mới được thiên thần mang đến vào lúc nửa đêm. Hàng xóm của chúng tôi đều nói: “Ôi, a... chúng đúng là hai đứa trẻ đáng yêu, cứ nhìn vào đôi mắt to của chúng mà xem”.
Malachy đứng ở giữa phòng, nhìn lên khắp lượt mọi người, chỉ vào lưỡi của mình và nói: “Úc... Úc”. Lúc đó, mấy người hàng xóm lại nói: “Con không thấy chúng ta đang ngắm nhìn hai đứa em mới sinh của con hay sao?” Cậu em tôi cảm thấy tủi thân và khóc váng lên cho tới khi bố phải nựng nó. “Ngậm miệng lại và thu lưỡi vào nào con trai, con ra ngoài sân chơi với Frankie đi. Đi nào”.
Ngoài sân chơi, tôi kể cho Malachy về chuyện con chó chết trên đường bởi có ai đó đã đá quả bóng vào mồm nó như thế nào. Malachy lắc đầu quầy quậy: “Không... úc... phải bóng. Ô tô... úc... đâm con chó đấy chứ”. Nó lại tiếp tục khóc bởi cái lưỡi đau khiến nó nói năng rất khó khăn và thật khủng khiếp nếu như ai đó không nói được ra những gì mình muốn. Nó không cho tôi đẩy cái xích đu nữa. Nó nói: “Anh... úc... đã suýt giết em trên cái... úc... bập bênh”. Và thế là ngay lập tức Freddie Leibowitz đẩy giúp nó, điều đó khiến thằng bé rất vui sướng và yên tâm. Nó lại cười như nắc nẻ mỗi khi chiếc đu bay tít lên cao. So với chúng tôi, Freddie lớn hơn hẳn, nó đã lên bảy. Khi tôi nhờ Freddie đẩy hộ, nó từ chối và nói: “Cậu đã suýt giết chết em trai mình rồi còn gì”.
Tôi cố gắng tự đánh đu một mình nhưng tất cả những gì tôi có thể làm là khiến cho nó xích ra đằng sau và nhô lên phía trên tí xíu. Nhưng điều khiến tôi bực hơn cả là việc Freddie và Malachy nhăn nhở cười trước cái điệu bộ lóng ngóng mà tôi vẫn không thể khiến chiếc xích đu chuyển động như ý. Giờ thì chúng quả là một đôi bạn thân, Freddie, bảy tuổi, Malachy, hai tuổi. Chúng cứ cười như vậy mỗi ngày và dần dần lưỡi của Malachy cũng bình phục trở lại sau những điệu cười như vậy.
Khi nó cười, bạn có thể trông thấy những chiếc răng của nó xinh xắn, nhỏ nhắn và trắng đến nhường nào, và bạn cũng sẽ thấy được cặp mắt nó tỏa sáng rạng ngời. Nó có cặp mất xanh giống mẹ. Tóc nó màu vàng và hai má lúc nào cũng ửng hồng. Tôi có đôi mắt nâu giống bố. Tóc tôi màu đen còn hai má, khi soi gương tôi chỉ thấy màu trắng. Mẹ tôi nói với bà Leibowitz ở dưới nhà rằng Malachy là thằng bé hạnh phúc nhất trên thế gian. Rồi mẹ lại nói với bà Leibowitz ở dưới nhà rằng Frankie có cái kiểu kì dị giống như bố nó. Tôi tự hỏi không biết cái kiểu kì dị ấy là cái gì nhưng tôi không thể hỏi ai lúc đó bởi trên thực tế tôi không được phép nghe trộm người lớn nói chuyện.
Tôi ước ao có thể bay được lên tận trên trời, chạm tới những đám mây. Có lẽ tôi sẽ bay khắp thế giới và không phải nghe tiếng khóc của mấy thằng em, Oliver và Eugene, chúng cứ chờ đến nửa đêm mới khóc oe oe. Mẹ bảo rằng chúng luôn bị đói. Chính mẹ cũng hay khóc vào lúc nửa đêm. Mẹ bảo mẹ đã kiệt sức vì cứ phải cho hết đứa này đến đứa khác bú, bốn đứa con trai là quá sức chịu đựng của mẹ. Bà ước ao có được một bé gái xinh xắn cho mình. Bà sẽ làm mọi thứ để đứa bé được hạnh phúc.
Tôi chơi ngoài sân với Malachy. Tôi lên bốn còn nó lên ba. Nó đã để tôi đẩy chiếc đu hộ nó bởi nó cũng chẳng hơn gì tôi trong việc tự đánh đu trong khi đó Freddie Leibowitz thì đang học ở trường. Chúng tôi phải chơi ngoài sân vì hai đứa em sinh đôi của tôi đang ngủ và mẹ nói mẹ đã mệt lử: “Ra ngoài kia chơi đi các con, cho mẹ nghỉ một lúc”. Như mọi ngày, bố vẫn ra ngoài tìm việc và đôi khi ông về nhà với mùi whisky nồng nặc, hát tất cả những bài hát có liên quan đến việc giải phóng Ailen. Mẹ trở nên cáu bẳn và gắt: “Cái tiếng Ailen giời đánh”. Bố cãi rằng đấy là một thứ ngôn ngữ tuyệt vời và nên dùng trước mặt bọn trẻ nhưng mẹ nói bà không quan tâm đến ngôn ngữ, thực phẩm trên bàn ăn là những gì bà quan tâm, chứ không phải là việc giải phóng Ailen chết tiệt của bố. Mẹ rên rỉ rằng cái ngày mà nước Mỹ bỏ luật cấm rượu lậu thật là một ngày đen tối vì bố có thể đến lượn khắp các quán bar, phòng trà, xin được quét dọn hay khuân đổ để đổi lấy một ly whisky hoặc một vại bia tươi. Thỉnh thoảng ông đem về nhà một ít thức ăn để dành từ buổi trưa như bánh mì đen, thịt bò muối hoặc dưa chua. Ông đặt đồ ăn lên bàn rồi nhâm nhi trà. Ông bảo bây giờ mà ăn nhiều thì cũng nguy hại đến sức khỏe, nhưng quả là không biết lấy đâu ra đồ ăn để mà có cảm giác thèm muốn. Mẹ nói bọn trẻ lúc nào chả thèm ăn vì quá nửa thời gian tổn tại, chúng phải sống trong cảm giác đói khát.
Khi bố tôi tìm được việc làm, mẹ rất phấn khởi và hát:
Ai chẳng biết em khao khát nụ hôn anh,
Yêu là thế và chẳng cần suy tính
Phải vậy chăng khi anh là duy nhất
Đến bên em và hãy yêu em...
Vào cái ngày bố mang về những đồng lương đầu tiên, mẹ tôi vô cùng sung sướng bởi mẹ có thể trả tiền cho ông chủ cửa hàng tạp phẩm đáng mến người Ý và bà có thể một lần được ngẩng cao đầu, cũng chẳng có gì tệ hơn trên thế gian này khi suốt ngày phải nợ nần hay hàm ơn ai đó. Mẹ lau dọn bếp núc, đánh rửa ấm chén, bát đĩa, chải những mảnh vụn bánh mì và những mẩu thức ăn thừa còn vương trên mặt bàn, dọn sạch tủ đá và mua một tảng đá tươi từ một cửa hàng của người Ý. Mẹ mua giấy vệ sinh cho chúng tôi mang xuống phòng vệ sinh dưới nhà. Mẹ nói: “Như thế tốt hơn nhiều là để chúng mày mang tờ Daily News ra mà bôi cho đít đen bóng lên”. Mẹ nấu nước sôi trên bếp lò rồi lại cắm mặt vào cái chậu sắt tây lớn để giặt quần áo cho bọn tôi, tã lót cho hai đứa bé, hai cái khăn trải giường và ba cái khăn tắm của cả nhà. Bà treo chúng lên dây phơi quần áo phía sau căn hộ, mấy đứa chúng tôi có thể ngắm đống quần áo nhảy múa trong nắng và gió. Mẹ nói, không nên để cho hàng xóm biết nhà mình có những đồ gì khi mang ra phơi phóng, nhưng quả thực không có gì tốt cho quần áo hơn là được phơi nắng.
Khi bố mang về nhà những đồng lương đầu tiên vào tối thứ Sáu chúng tôi đều biết cuối tuần này sẽ là một thiên đường với cả nhà. Vào tối thứ Bảy mẹ sẽ đun nước sôi trên lò sưởi rồi nhúng cả mấy đứa vào cái chậu sắt lớn mà kỳ cọ, rồi bố sẽ lau khô từng đứa. Malachy sẽ chạy vòng quanh phòng và cả nhà sẽ nhìn thấy mông đít của nó. Bố sẽ cảm thấy rất ngỡ ngàng rồi tất cả chúng tôi đều phá lên cười. Mẹ sẽ làm cacao nóng rồi chúng tôi sẽ ngồi quanh bố để nghe ông kể những câu chuyên của mình. Tất cả những gì chúng tôi phải làm là phải đoán ra một người, ông McAdorey hay ông Leibowitz dưới nhà, bố sẽ cùng hai người đó chèo thuyền ngược dòng trên những con sông ở Brazil chạy trốn khỏi sự truy đuổi của người da đỏ có cái mũi xanh và những bả vai rám nắng. Vào những tối như vậy, chúng tôi có thể ngủ quên trong những câu chuyện của bố và biết rằng sáng mai sẽ thức dậy với một bữa sáng có trứng, cà chua rán, bánh mì nướng, trà với rất nhiều đường và sữa còn vào buổi tối, chúng tôi sẽ có bữa tối thật thịnh soạn với khoai tây nghiền, đậu bắp và đùi lợn muối nhưng tuyệt hơn cả là bánh xốp kem mẹ làm có rất nhiều hoa quả trộn với trứng sữa nóng phủ trên một cái bánh ngọt ngập dưới lớp rượu nâu.
Khi bố mang về những đồng lương đầu tiên trong thời tiết thật dễ chịu, mẹ sẽ dẫn chúng tôi xuống sân chơi. Mẹ ngồi trên chiếc ghế băng và nói chuyện với cô hàng xóm Minnie MacAdorey. Mẹ kể cho Minnie những câu chuyện đặc sắc về Limerick còn Minnie sẽ kể cho mẹ nghe những câu chuyện đặc sắc về Belfast rồi họ cùng cười phá lên bởi cả hai đều là những người Ailen hài hước, một ở miền Bắc, một ở miền Nam. Sau đó họ sẽ dạy cho nhau những bài hát buồn và Malachy cùng với tôi sẽ rời khỏi xích đu hoặc bập bênh để đến bên họ, cùng ngồi trên ghế băng và hát.
Những anh lính một đêm trong trại
Kể cho nhau về những người tình
Mọi người đều vui trừ một chàng trai trẻ
Anh gục đầu buồn bã cô đơn
Hãy vui lên cùng chúng tôi, người bạn nói
Ở nơi xa có kẻ đợi chờ anh
Nhưng Net vẫn thở dài buồn bã
Tôi đang nhớ thương một lúc hai người
Mỗi người đều như mẹ đối với tôi
Sự chia lìa dường như là không thể
Bởi một người là mẹ đẻ của tôi
Chúa sẽ phù hộ bà, người mẹ lính
Còn người kia - cô bạn gái đáng thương.
Malachy và tôi hát bài hát đó khiến cho mẹ và Minnie cười đến chảy cả nước mắt, nhất là lúc Malachy cúi thật thấp và đưa hai tay về phía mẹ mỗi khi hát xong. Dan Macdorey trên đường đi làm về ngang qua sân chơi, chứng kiến cảnh tượng trên đã phải thốt ra: “Rudy Vallee lẽ ra phải lo lắng vì đã có đối thủ trên sân khấu nhạc kịch của mình”.
Khi chúng tôi về nhà, mẹ pha trà và làm bánh mì phết mứt hoặc khoai tây nghiền với bơ muối. Bố vẫn ngồi đó uống trà mà chẳng ăn gì. Mẹ nói: “Có Chúa làm chứng, sao anh có thể làm việc cả ngày mà chẳng chịu ăn uống gì là thế nào?” Bố bảo rằng trà cũng đã đủ đối với bố. Mẹ tỏ vẻ không bằng lòng: “Anh đang hủy hoại sức khỏe của mình đấy”. Thế rồi bố lại nói với mẹ rằng thức ăn có thể gây những phản ứng không tốt cho cơ thể. Bố vẫn chỉ uống trà và kể cho chúng tôi những câu chuyện của ông và dậy chúng tôi nhận mặt chữ trên những trang của tờ Daily News. Những lúc không như vậy, ông hay ngồi hút thuốc, nhìn chằm chằm vào tường, lẩm nhẩm một giai điệu Ailen.
Khi bố làm việc được đến tuần thứ ba thì ông không mang lương về nhà nữa. Vào tối thứ Sáu hôm ấy, chúng tôi ngồi đợi ông còn mẹ thì cho bọn tôi ít bánh mì và trà để chống đói. Màn đêm đã buông xuống và thành phố đã lên đèn dọc theo đại lộ Classon. Những người đàn ông đi làm ở những gia đình khác đã về nhà cả, và dĩ nhiên họ mang theo nhiều trứng cho bữa tối bởi vào thời đó, không thể mua được thịt vào ngày thứ Sáu. Bạn có thể nghe thấy các gia đình ở tầng trên và tầng dưới đang sinh hoạt rất rộn ràng, và bạn cũng có thể nghe thấy tiếng hát của Bing Crosby trên radio: “... người anh em thân mến, liệu chúng ta có thể chia sẻ cùng nhau...?”.
Malachy và tôi mải nghịch với hai đứa em. Chúng tôi biết mẹ sẽ không hát bài hát: “Ai cũng biết em khao khát nụ hôn anh” nữa. Mẹ ngồi bên chiếc bàn kê trong bếp và tự nói chuyện một mình: “Biết làm sao bây giờ?” cho tới khi tân khuya. Đến lúc đó bố mới xuất hiện trên bậc thang và hát nhạc của Roddy McCorley. Bố đẩy cửa vào nhà rồi gọi mấy đứa chúng tôi: “Quân đội của ta đâu cả rồi? Bốn chiến binh của ta đâu, ra đây!”.
Mẹ mệt mỏi nói với bố: “Để cho bọn trẻ được yên. Chúng lên giường với những cái bụng đói chỉ vì anh đã nốc đầy whisky chết tiệt vào bụng đấy”.
Bố như không nghe thấy cứ tiến thẳng đến cửa buồng ngủ. “Dậy, các chàng trai, dậy mau. Một hào cho bất kỳ ai hứa sẽ chết vì Ailen.
Sáu thẳm trong rừng Canada tôi gặp
Một đảo quốc hùng cường tươi sáng
Vinh quang thay mỗi bước chân qua
Trái tim hòa nhịp cùng lý trí.
Dậy, các chàng trai, dậy ngay. Francis, Malachy, Oliver, Eugene. Các Hiệp sĩ Đỏ, Các chiến sĩ của tổ chức Fenian, Quân đội Cộng hòa Ailen. Dậy, dậy.
Mẹ vẫn ngồi trong bếp, tóc mẹ bết lại trên gương mặt đẫm nước mắt. Bà khóc lóc: “Anh không để chúng yên được hay sao? Chúa nhân từ, Đức mẹ Mary và thánh Joseph! Anh về nhà không một xu dính túi rồi hành hạ lũ trẻ như thế sao?”.
Mẹ tiến về phía chúng tôi: “Quay lại, lên giường đi ngủ đi các con”.
Tôi muốn chúng phải dậy! - Bố quát lên, - Tôi muốn chúng phải sẩn sàng cho cái ngày Ailen được giải phóng để trở về với biển. Đừng có bước qua tôi, nếu không hôm nay sẽ là ngày đáng tiếc của anh trong căn nhà này đấy - mẹ quả quyết chặn bố lại.Ông kéo sụp mũ xuống che mặt rồi bắt đầu khóc: “Ôi, mẹ tội nghiệp của con. Tội nghiệp Ailen. Úc, chúng ta phải làm gì bây giờ?”.
Mẹ nói với bố: “Anh đúng là một tên đốn mạt vô lương tâm”, rồi bà quay sang chúng tôi nhẹ nhàng: “Về giường đi các con”.
Vào buổi sáng của ngày thứ Sáu, sau một tháng kể từ khi bố đi làm, mẹ hỏi liệu tối nay ông có về nhà và mang theo tiền lương của mình không hay lại lang thang uống đủ các thứ vào người? Ông nhìn chúng tôi rồi quay sang mẹ lắc đầu như thể muốn nói: “Ôi trời, cô không nên nói những chuyện như thế này trước mật bọn trẻ”.
Mẹ vẫn chưa chịu thôi, vẫn tiếp tục hỏi bố: “Em đang hỏi anh, liệu tối nay anh có về nhà để chúng ta có cái gì đó bỏ vào bụng bọn trẻ không hay anh lại đi tới nửa đêm mới thèm mò về không một xu dính túi và cứ lải nhải mấy cái bài của Kevin Barry?”.
Bố vớ lấy mũ chụp lên đầu, sục hai tay vào túi quần, thở dài buồn bã nhìn lên trần nhà: “Tôi đã nói rồi. Tôi sẽ về”.
Sáng hôm ấy, mẹ mặc quần áo cho mấy đứa tụi tôi. Bà đặt hai đứa em sinh đôi của tôi vào xe đẩy và tất cả chúng tôi kéo qua nhũng dãy phố dài bất tận của Brooklyn. Thỉnh thoảng, mẹ lại cho Malachy ngồi lên xe đẩy khi nó đã mỏi nhừ vì cứ phải chạy loi choi bên mẹ. Bà nói với tôi rằng tôi đã quá lớn để có thể cùng ngồi với các em trên chiếc xe nôi đó. Tôi rất muốn nói với mẹ rằng cứ phải chạy theo mẹ như thế chắc tôi sẽ bị đau chân mất, nhưng suốt quãng đường không hề thấy bà hát một câu nào, tôi chắc mẩm ngày hôm nay không phải dành cho việc than phiền về những vết thương của tôi.
Chúng tôi dừng lại trước một cánh cổng lớn, ở đó có một người đứng trong một cái hộp với bốn phía đều có cửa sổ. Mẹ nói chuyện với người đàn ông đó. Bà nói muốn được vào bên trong, đến nơi người ta phát lương cho công nhân và nếu có thể mẹ sẽ lĩnh trước một phần lương của bố, như vậy ông sẽ không tiêu hết tiền trong những quán bar. Người đàn ông lắc đầu: “Tôi rất tiếc, thưa bà, nhưng nếu tôi để bà vào trong đó thì có tới một nửa số phụ nữ của Brooklyn sẽ ập vào đây mất. Bà biết đấy, hầu hết đàn ông ở đây đều có vấn đề với rượu nhưng chúng tôi cũng không thể can thiệp được gì khi họ đến đây làm trong tình trạng tỉnh táo cả”.
Chúng tôi đứng đợi phía bên kia đường. Mẹ để mấy đứa ngồi cả trên vỉa hè, dựa lưng vào tường. Mẹ đưa cho hai đứa trẻ mấy cái bình sữa nhưng trong đó chỉ có nước đường. Còn tôi và Malachy vẫn phải đợi cho đến khi mẹ lấy được tiền lương của bố để mua bánh mì, trà và trứng ở cửa hàng của người Ý.
Vào lúc năm rưỡi chiều, người ta thổi còi hết giờ, tôi thấy những người công nhân mặc bộ đồ bảo hộ, đội mũ lưỡi trai đổ xô ra cổng, mặt mũi tay chân họ đen nhẻm dầu mỡ. Mẹ nói chúng tôi phải nhìn thật kỹ xem có thấy bố không bởi đứng từ bên này đường bà khó có thể nhìn rõ được, mắt của mẹ thật tệ. Có hàng tá người đổ ra đường, rồi đến từng nhóm, lác đác vài người và cuối cùng chẳng còn ai. Mẹ bật khóc, tại sao chúng ta không trông thấy bố nhỉ, hay là mù hết cả?
Mẹ quay trở về chỗ cái người đàn ông đứng trong hộp: “Ông có chắc rằng không còn ai bên trong nữa không?”.
- Không đâu, thưa bà. Họ đã về cả rồi. Tôi không biết thế nào bà lại không tìm thấy ông nhà - ông ta trả lời.
Chúng tôi lại kéo nhau về trên những dãy phố dài ở Brooklyn. Hai đứa em tôi ôm chặt những cái bình của chúng và bắt đầu khóc vì chúng muốn có nước đường nữa. Malachy bảo rằng nó đói lắm rồi, mẹ phải dỗ nó gắng đợi thêm chút nữa, cho tới lúc chúng tôi gặp được bố để lấy tiền và cả nhà sẽ có một bữa tối thật tươm. Mẹ sẽ tới gian hàng của người Ý để mua trứng và nướng bánh mì trên lửa bếp lò để chúng tôi phết mứt lên trên. Ôi, nhất định chúng tôi sẽ làm thế, rồi tất cả sẽ dễ thương và không khí gia đình lại ấm cúng trở lại.
Màn đêm đã buông xuống đại lộ Atlantic và tất cả các quán bar xung quanh ga xe lửa Long Island đều tỏa sáng, nhộn nhạo. Chúng tôi đi hết quán này sang quán khác để tìm cha. Mẹ để mấy đứa đứng ngoài với chiếc xe nôi rồi lầm lũi vào từng quán tìm hoặc cử tôi vào. Trong đó thật ồn ào và chật ních, toàn là đàn ông và mùi của họ khiến tôi nhớ tới cha mỗi khi ông về nhà nồng nặc mùi whisky.
Người đàn ông đứng sau quầy bar trông thấy tôi và hỏi: “Hây nhóc, muốn gì? Cháu biết là trẻ con không được phép vào những chỗ như thế này đúng không?”.
Cháu đi tìm bố. Có bố cháu trong này không ạ? Ờ, khoan, để xem bố cháu trông thế nào đã? Thế bố cháu là ai? Bố cháu tên là Malachy, ông ấy hay hát Kevin Barry. Malarkey à? Không! Malachy mới đúng. Malachy? Và ông ấy hát Kevin Barry?Người đàn ông gọi to cho những người trong bar nghe thấy: “Này các anh, có ai trong số các anh biết Malachy hay hát Kevin Barry không?”.
Mọi người đều lắc đầu. Một ai đó nói ông ấy biết một gã tên là Michael hát Kevin Barry nhưng hắn đã chết trong lúc say bởi những di chứng của chiến tranh.
Người phục vụ bên quầy rượu quay sang tôi: “Thề có Chúa, Pete, tôi có bảo anh phải kể tôi nghe lịch sử chiến tranh đâu? Còn bây giờ, cháu thấy đấy, chúng tôi không cho phép mọi người hát hò ở đây. Sẽ gặp rắc rối to đấy. Đặc biệt là người Ailen. Cứ thử hát mà xem, lại chẳng ăn ngay một đấm ấy chứ. Hơn nữa, tôi chưa từng biết ai tên là Malachy. Giờ thì rõ rồi, không có Malachy ở đây”
Người đàn ông có tên là Pete đẩy cốc của ông ta về phía tôi. Đây, cậu bé, nhấp một ngụm xem nào. Nhưng người phục vụ đã phản ứng ngay: “Anh làm gì thế Pete? Dụ một đứa trẻ uống rượu à? Thử lại tôi xem nào, tôi chẳng ra ngoài đó đá vỡ cái mông anh ra cho coi”.
Mẹ đã cố gắng vào tất cả các quán bar quanh khu nhà ga để tìm bố trước khi bà hoàn toàn từ bỏ ý định. Mẹ đứng dựa lưng vào tường và khóc: “Chúa ơi, còn cả một quãng đường dài chúng con phải đi để về được đại lộ Classon và còn đây, bốn đứa bé đói khát khổ sở của con”. Bà đưa tôi trở lại cái quán bar lúc nãy mà Pete mời tôi một hớp rượu để hỏi xem liệu người phục vụ có cho chúng tôi xin một ít nước và may chăng một chút đường đổ vào mấy cái bình cho tụi trẻ bú hay không. Ông ta nói với tôi rằng trẻ con thì phải uống sữa chứ không phải là nước như thế này. Tôi nói với ông, mẹ không có tiền để mua sữa cho các em. Người phục vụ đổ hết chỗ nước đường còn lại trong mấy cái bình rồi đổ đầy sữa vào đó cho tôi. Ông tỏ vẻ quan tâm và bảo tôi về nhắn với mẹ rằng sữa rất tốt cho răng và xương của bọn trẻ: “Cho trẻ con uống nước với đường như thế này thì thể nào chúng cũng bị còi xương mất thôi, về nói với mẹ cháu như thế”.
Mẹ tỏ ra thật mãn nguyện với hai bình sữa. Bà nói bà biết tất cả những điều về răng và sữa, và cả bệnh còi xương nữa nhưng đã đi ăn mày thì đâu có quyền kén chọn.
Khi chúng tôi về đến đại lộ Classon, mẹ đi thẳng tới quầy tạp phẩm của ông người Ý. Bà nói với người bán hàng rằng chổng bà sẽ về muộn tối nay, có lẽ ông ấy đang làm thêm giờ, và liệu rằng bà có thể giật nóng vài món và chắc chắn sáng mai sẽ quay trở lại để trả tiền.
Ông người Ý rất nhã nhặn: “Ồ, thưa bà, chẳng sớm thì muộn lúc nào bà cũng thanh toán tiền hàng cho tôi, bà cứ lấy bất cứ thứ gì bà cần trong cửa hàng này”.
Mẹ mừng rỡ thốt lên: “Vâng, vậy may quá. Tôi cũng không cần nhiều đâu, phiền ông quá”.
- Cứ nhặt bất cứ thứ gì bà cần, thưa bà, bởi tôi biết bà là một phụ nữ lương thiện đáng mến. A, hình như bà còn dắt theo cả bầy trẻ đáng yêu của mình ra đây thì phải?
Vậy là chúng tôi có trứng, bánh mì nướng và mứt. Bởi cả nhà đều kiệt sức sau chuyến đi bộ xuôi ngược trên những con phố của Brooklyn nên chúng tôi chỉ đủ sức nhai trệu trạo vài miếng. Hai đứa nhỏ sau khi ăn đã lăn ra ngủ, mẹ đặt chúng lên giường và thay tã cho tụi trẻ. Mẹ bảo tôi xuống nhà giặt đống tã bẩn của chúng dưới phòng vệ sinh, sau đó phải phơi lên để ngày mai các em tôi có tã khô dùng. Malachy giúp mẹ lau sạch mông cho hai đứa em mặc dù bản thân nó đã buồn ngủ díp cả mắt.
Tôi bò lên giường nằm với Malachy và hai thằng em sinh đôi. Ngó ra ngoài, tôi vẫn thấy mẹ ngồi ở cái bàn kê trong bếp. Bà ngồi đó hút thuốc, uống trà và khóc. Tôi muốn nhỏm dậy và nói với mẹ rằng tôi sẽ lớn thật nhanh để rồi có thể làm việc được trong khu nhà có cái cổng lớn sáng nay và tôi sẽ về nhà vào những tối thứ Sáu với tiền lương để bà có thể mua được trứng