Chương 3
Mẹ nói mẹ không thể ở trong càn phòng trên phố Harstonge thêm một ngày nào nữa. Bất cứ lúc nào, mẹ cũng trông thấy hình ảnh của Eugene, từ sáng cho đếtối và từ tối đến sáng. Mẹ trông thấy nó leo lên giường trông ra phô để ngóng Oliver, đôi khi mẹ lại trông thấy Oliver đứng bên ngoài còn Eugene đứng trong nhà, hai đứa nói chuyện tíu tít với nhau. Mẹ cảm thấy mừng vì hai đứa nói chuyện được với nhau như vậy, nhưng mẹ không thể chịu đựng được nếu từ giờ cứ phải trông thấy hoặc nghe thấy hai đứa. Thật đáng tiếc vì chỗ chúng tôi hiện đang ở rất gần trường tiểu học Quốc gia Leamy, nhưng nếu không chuyển nhà, mẹ sẽ phát điên lên mất, thật buồn nếu mẹ lại phải chuyển vào ở trong viện tâm thần.
Gia đình tôi lại dọn đến đường Roden, vị trí cao nhất trong thị trấn, nơi mang cái tên Đồi Barrack. Mỗi bên đường có sáu ngôi nhà nằm đối diện nhau. Mỗi nhà có tầng, mỗi tầng có hai phòng. Nhà của chúng tôi nằm phía cuối dãy, căn cuối cùng trong sáu căn nhà trên phố. Cạnh nhà là một căn phòng nhỏ, phòng vệ sinh, cạnh phòng vệ sinh là một cái chuồng ngựa.
Mẹ đến hội Bảo trợ thánh Paul đề nghị họ giúp chúng tôi ít đồ gổ dùng trong nhà. Người phụ trách ở đó nói sẽ giúp cho một phiếu mua một chiếc bàn, hai cái ghế và hai cái giường. Ông ta bảo mẹ phải đến cửa hàng bán đồ gỗ cũ dưới khu Ailen rồi tự mang về. Mẹ bảo ông ta rằng chúng tôi có thể sử dụng xe nôi cho trẻ sinh đôi để trở đồ, nói đến đó, mẹ bật khóc. Quệt nước mắt, mẹ hỏi người phụ trách không biết mấy cái giường chúng tôi sắp xin được liệu có phải là giường cũ không? Ông ta bảo mẹ dĩ nhiên là như vậy. Nghe đến đó, mẹ tỏ ra lo lắng, ngộ nhỡ nằm phải giường có người đã chết trên đó, nhất là khi họ bị chết vì viêm phổi. Người đàn ông bình thản trả lời: “Tôi rất tiếc, nhưng đã ăn mày còn đòi xôi gấc”.
Chúng tôi mất trọn một ngày để lôi kéo số đồ gỗ về nhà bằng chiếc xe nôi, đi từ đầu nọ đến đầu kia của Limerick. Cái xe nôi có bốn bánh nhưng một chiếc đã lung lay, nó luôn lăn theo hướng ngược lại với ba cái bánh kia. Tất cả những gì chúng tôi nhận được là hai cái giường, một tấm gương, một cái bàn và hai chiếc ghế. Mọi người có vẻ rất hài lòng với căn nhà mới. Chúng tôi có thể đi lại từ phòng này sang phòng khác và lên xuống cầu thang. Chỉ riêng việc được đi lên đi xuống cầu thang bao nhiêu lần trong ngày tùy thích khiến tôi có cảm giác mình giàu có. Bố nhóm lửa còn mẹ pha trà. Bố và mẹ mỗi người ngồi một ghế, tôi và Malachy ngồi trên chiếc hòm đựng đồ mang từ bên Mỹ về. Trong lúc cả nhà ngồi nhấm nháp trà, có một người đàn ông đi ngang qua cửa nhà tôi với cái xô trên tay. Ông ta đổ thẳng tay vào nhà vệ sinh rồi dội nước đánh “ùm” một cái, ngay lập tức mùi hôi thối nồng nặc sộc thẳng vào trong phòng bếp. Mẹ chạy ra cửa gọi giật lại: “Tại sao ông lại đổ chất thải vào phòng vệ sinh của nhà tôi, thưa ông?” Ông ta ngả mũ chào mẹ rồi đáp: “Phòng vệ sinh của bà á? A ha, không đâu thưa bà. Bà lầm to rồi đấy, hê hê. Đây không phải là nhà cầu của riêng bà đâu.
Tôi dám chắc với bà điều này, nó là của toàn bộ dãy nhà này đấy. Bà thấy đấy, cạnh cửa nhà bà là những cái xô đựng rác của mười một gia đình, thưa bà. Rồi bà sẽ thấy, lúc nào trời ấm lên chỗ này nặng mùi lắm, bà cứ thử nghĩ xem, mười một nhà cộng lại, a ha ha. ơn Chúa, giờ mới tháng Mười hai, trong không khí vẫn còn sương giá vả lại sắp đến mùa Giáng sinh nên cái nhà cầu này chưa đến nỗi tệ lắm, nhưng cứ chờ một thời gian nữa, có khi phải dùng đến cả mặt nạ phòng độc ý chứ. Thôi, chúc bà ngủ ngon, hy vọng gia đình bà sẽ hài lòng với căn nhà, thưa bà”.
Mẹ gọi với theo: “Ấy, từ từ đã nào, thưa ông. Phiền ông cho tôi hay ai thường làm vệ sinh cái phòng ấy?”.
-Dọn vệ sinh á? Trời đất, đấy chắc hẳn phải là một người tốt bụng lắm lắm. Có phải bà chỉ định nói giỡn phải không? Những ngôi nhà này được xây dựng dưới thời của Nữ hoàng Victoria và nếu như cái nhà xí kia từng được dọn dẹp, thì chắc kẻ đó phải làm vào lúc nửa đêm, khi không có ai trông thấy.
Nói rồi ông ta quay bước dọc theo con đường trước mặt, vừa đi vừa cười ngặt nghẽo.
Mẹ quay lại ghế và cầm lấy tách trà: “Chúng ta không thể ở đây được. Cái nhà xí ấy sẽ giết chết bọn trẻ bằng đủ các loại bệnh tật mất thôi”.
Bố tỏ vẻ mệt mỏi: “Chúng ta không thể dời đi đầu được nữa. Làm sao có thể kiếm được một chỗ ở chỉ với sáu shilling một tuần? Chúng ta sẽ tự dọn dẹp cái phòng vệ sinh ấy, sẽ đun thật nhiều nước sôi để giội vào đó”.
-Ô, có thật chúng ta sẽ làm được như vậy? Anh bảo lấy than hay củi ở đâu ra mà đun nước cơ chứ?
Bố ngồi lặng thinh. Bố uống nốt tách trà rồi nhìn quanh tìm mấy chiếc đinh để treo bức tranh duy nhất của gia đình. Người đàn ông trong bức tranh có bộ mặt gầy guộc. Ông ta đội một chiếc mũ có chỏm mầu vàng, khoác chiếc áo choàng đen với một dấu thập trước ngực. Bố bảo đó là Giáo hoàng Leo thứ Mười ba, một người bạn vĩ đại của dân lao động. Bố đã mang theo bức tranh đó suốt từ Mỹ về đây, có được nó là do bố tình cờ nhặt được. Chắc hẳn có ai đó không mấy mặn mà với dân lao động đã quẳng nó ra ngoài đường. Mẹ bảo cái bức tranh chết tiệt ấy chỉ là một thứ vô bổ. Bố không bằng lòng với cách nói của mẹ, nói rằng lẽ ra mẹ không nên nói từ “chết tiệt” trước mặt các con. Cuối cũng bố cũng tìm được một cái đinh nhưng ông cứ loay hoay không biết làm cách nào đế đóng nó lên tường khi nhà không có búa. Mẹ bảo bố cứ sang hàng xóm mà mượn, nhưng bố nói làm sao mà mượn được của người ta khi họ chẳng biết mình là ai. Bố dựa bức tranh vào tường và dùng đáy chiếc bình đựng mứt để đóng đinh vào tường. Thế rồi chiếc bình vỡ tan, cứa đứt tay bố khiến máu chảy dây lên đầu của Giáo hoàng trong bức tranh. Bố vơ vội miếng giẻ băng bàn tay đang chảy máu lại rồi gọi mẹ: “Nhanh nhanh, gột sạch vết máu trên Giáo hoàng trước khi nó kịp khô đi em”. Mẹ dùng tay áo để lau sạch vết máu nhưng nó làm bằng len nên chỉ khiến cho mặt Giáo hoàng thêm nhọ. Bố nổi cáu: “Chúa ơi, Angela, em xem mình đã làm gì thế kia? Em vừa hoàn thành việc tàn phá bức tranh của anh đấy”. Mẹ cũng bực mình: “Aaa, anh có thôi i ỉ như trẻ con không? Lúc nào rảnh em sẽ kiếm sơn về vẽ lại mặt cho ông ấy là được chứ gì?”. Nhưng bố vẫn tỏ ra khó chịu: “Em phải biết ông ấy là Giáo hoàng duy nhất từng là bạn của những người lao động khốn khổ như chúng ta. Giả sử như một ngày nào đó có người của hội Bảo trợ thánh Paul đến nhà ta và trông thấy máu me be bét trên mặt Giáo hoàng như thế này thì em bảo anh phải ăn nói thế nào?” Mẹ tỏ vẻ chẳng buồn quan tâm: “Em không biết. Đấy là vết máu của anh và thật là đáng buồn cho những ai không biết đóng lấy một cái đinh cho thẳng. Nó chỉ khiến em thấy anh vô dụng đến mức nào thôi. Tốt nhất có lẽ anh nên đi làm ruộng, hay làm bất kỳ việc gì đó, em chẳng quan tâm. Em thấy đau lưng lắm, phải đi nằm bây giờ”.
-Ối, thế tôi biết làm gì bây giờ? - bố ngỡ ngàng.
Lôi bức ảnh Giáo hoàng xuống, bố nhét ông ta vào cái lỗ than dưới gầm cầu thang, nơi mọi người không để ý và sẽ không nhận ra khiếm khuyết trên bức tranh.
-Anh không thể, - bố lại tiếp tục, - dường như nó là điềm gở. Cái hố than không phải là chỗ của Giáo hoàng. Phải treo ông ấy lên mới xứng đáng, thế mới xứng đáng.
-Anh muốn làm gì thì làm, - mẹ thở dài.
-Anh sẽ làm, - bố dứt khoát.
Mẹ nói muốn chuẩn bị cho gia đình tôi một bữa Giáng sinh thật tươm nhưng chẳng biết phải làm gì khi ở Trung tâm Lao động, người ta giảm tiền trợ cấp xuống còn mười sáu shilling sau cái chết của Oliver và Eugene. Mỗi tuần phải trả sáu shilling tiền nhà, như vậy chúng tôi còn mười shilling, chẳng đủ làm bất cứ thứ gì cho một gia đình bốn người.
Bố vẫn không tìm đâu ra việc. Hàng sáng bố dậy rất sớm, nhóm lò đun nước sôi pha trà và đổ đầy ca. Xong việc ông mặc chiếc áo sơmi lên người, đính cái cổ áo lên, cẩn thận đeo cà vạt rồi đội mũ lên đầu và hướng về Trung tâm Lao động để đăng ký tiền trợ cấp. Không bao giờ ông rời khỏi nhà nếu thiếu cái cổ áo và cà vạt. Sẽ chẳng lường trước được điều gì, ví thử như viên thư ký ở Trung tâm cho hay có việc ở xưởng xay lúa mỳ Rank hay ở công ty ximăng Limerick, và ngay cả khi chúng chỉ là những công việc chân tay thuần túy, họ sẽ nghĩ gì nếu bố trình diện với một cái áo không cổ, hay tệ hơn là không có cà vạt?
Bao giờ cũng vậy, mới đầu những ông chủ và các đốc công đều tỏ thái độ tôn trọng bố và hứa rằng sẽ nhận bố vào làm việc, cho tới khi bố nói chuyện với họ và lộ ra giọng miền Bắc, ngay lập tức có một người của Limerick thế chỗ của bố. Đó là những gì bố kể cho mẹ biết khi hai người ngồi bên lò sưởi nói chuyện với nhau. Mẹ hỏi bố: “Tại sao anh không vận những bộ đồ cho thật giống một người lao động?” Bố từ chối ngay và thề sẽ không cho họ biết. Mẹ lại hỏi bố: “Thế sao anh không thử tập nói giống người Limerick nhỉ?” Bố tỏ vẻ thất vọng: “Làm sao anh có thể hạ thấp mình như thế? Em không biết đấy, điều làm anh phiền muộn nhất là các con đều nói giọng của dân Limerick cả”. Mẹ cầm lấy tay bố an ủi: “Em rất buồn vì rắc rối của mình, hy vọng chuyện chỉ có vậy thôi”, còn bố thì nhìn xa xăm và nói: “Rồi sẽ có ngày Chúa sẽ mỉm cười với gia đình ta, chúng ta sẽ rời khỏi Limerick và sống tách biệt hẳn với cái dòng sông Shannon chết chóc này”.
Tôi hỏi bố “phiền muộn” là gì, ông trả lời: “là lo lắng, là có chuyện gì đó không hài lòng, con trai ạ”.
Những lúc không tìm việc, bố thường đi bộ hàng dặm đường, khắp các nơi trong hạt.. Bố tìm việc ở chỗ những người nông dân, vì bố từng lớn lên ở nông thôn và rất thành thạo các công việc ở trang trại. Nếu họ đồng ý thuê bố, ngay lập tức bố sẵn sàng nhảy vào làm với chiếc mũ trên đầu và cà vạt trên cổ. Thường thì bố làm rất chăm chỉ và cần mẫn, đến độ những người nông dân phải bảo bố nghỉ tay. Họ cứ băn khoăn không hiểu tại sao lại có người làm quần quật suốt cả một ngày dài mà chẳng cần ăn uống gì như thế. Bố chỉ cười với họ. Có một điều là bố không bao giờ mang về nhà số tiền kiếm được từ các trang trại. Khoản tiền đó dường như không giống với số tiền trợ cấp, được coi như mặc nhiên phải đem về nhà. Bố tiêu toàn bộ số tiền kiếm ở trang trại trong quán rượu. Nếu tiếng chuông cầu kinh Đức Bà ở nhà thờ gióng lên vào lúc sáu giờ mà bố vẫn chưa về, mẹ biết rằng bố đã có một ngày làm việc dưới các trang trại. Bà luôn mong một lần nào đó, bố nghĩ đến gia đình và bỏ qua các quán rượu để mang tiền về nhưng chưa một lần bố làm như vậy. Mẹ cứ hy vọng bố mang được cái gì đó về từ các trang trại, ví thử như khoai tây, bắp cải, củ cải hay cà rốt nhưng bố chẳng bao giờ mang gì về bởi bố không thể hạ mình để xin bất kỳ thứ gì từ các trang trại. Mẹ bảo việc mẹ phải ngửa tay đi xin từng phiếu thực phẩm một ở hội Bảo trợ thánh Paul chẳng là gì nhưng tại sao bố lại không thể bỏ vài củ khoai tây vào trong túi áo được cơ chứ. Bố nói chuyện đó hoàn toàn khác đối với một người đàn ông. Anh ta phải sống cho đường hoàng. Một khi đã mặc lên người chiếc cổ áo cùng với cà vạt, thì con người cũng phải luôn giữ được giá trị của mình. Mẹ chán nản thở dài: “Vâng, hy vọng anh luôn giữ được cái đẹp đẽ ấy cho mình”.
Sau khi đã tiêu hết tiền kiếm thêm, bố thường mò về nhà với những bài hát về Ailen, khóc than cho những đứa con đã chết, nhưng cái mà bố vẫn dành nhiều thời gian nhất là việc khóc than về Ailen. Nếu bố hát về Roddy McCorley, điều đó có nghĩa là bố chỉ đủ tiền uống một hai vại. Nhưng một khi ông đã hát về Kevin Barry, thì ông đã có một ngày kha khá, và đã hoàn toàn say xỉn, đã sẵn sàng lôi chúng tôi dậy xếp hàng và bắt hai đứa phải thề thốt để hy sinh cho Ailen. Chúng tôi chỉ được yên mỗi khi mẹ bảo bố tránh xa lũ trẻ ra nếu không bà sẽ nện vỡ đầu bố bằng cái que cời lửa.
-Cô sẽ không làm như thế chứ Angela?
-Tôi sẽ làm như vậy đấy, và còn hơn thế nữa kia. Anh nên ngậm miệng lại, đừng có lải nhải vô nghĩa nữa, đi ngủ đi.
-Ngủ ngủ ngủ. Ngủ thì giải quyết được cái gì? Ngủ bây giờ thì mai lại phải dậy. A, mà tôi không ngủ được bên cái dòng sông chết chóc ấy, nó chẳng làm được gì ngoài việc biếu không sự giá lạnh và chết chóc.
Bố về giường và đấm thình thịch vào tường, hát những bài hát rầu rĩ rồi lăn ra ngủ. Rồi bố lại thức dậy vào buổi sáng bởi không ai có thể ngủ dưới ánh bình minh. Ông đánh thức tôi và Malachy dậy, còn chúng tôi thì thấy mệt mỏi bởi mất ngủ do bị ông đánh thức vào lúc nửa đêm, hát hò om sòm. Hai anh em tôi than thở rằng chúng tôi rất mệt, như thể bị ốm nhưng bố cứ thúc sau lưng, hai đứa đành phải dậy mặc áo khoác. Lúc đó là tháng Mười hai, trời lạnh tới mức chúng tôi nhìn thấy cả hơi thở của mình. Chúng tôi tè vào cái bô đặt cạnh cửa phòng ngủ rồi cùng chạy xuống nhà sưởi bên lò, lửa đã được bố nhóm từ sớm. Hai đứa rửa tay rửa mặt trong một cái chậu đặt dưới vòi nước cạnh cửa ra vào. Ông dẫn nước đến vòi được gắn vào tường bởi những sợi dây buộc vào một cái đinh. Mọi thứ quanh cái vòi đều sũng nước, từ bậc thềm đến bờ tường hay cái ghế kê chậu. Nước trong vòi chảy ra lạnh vô cùng khiến tay chúng tôi tê cóng, ửng đỏ cả. Bố bảo như thế lại tốt cho chúng tôi, nó cho hai đứa cơ hội để trở thành những người đàn ông thực thụ. Bố té nước đã gợn băng lên mặt, lên cổ và lên ngực để tỏ ra ông không hề sợ lạnh. Chúng tôi ngồi hơ tay bên ngọn lửa để sưởi nhưng không được ngồi lâu vì còn phải ăn bánh mì và uống trà rồi đến trường.
Nói rồi ông mỉm cười một mình.
Hai tuần trước lễ Giáng sinh, tôi và Malachy trở về nhà sau giờ học, trên đường đi hai đứa gặp một trận mưa lớn và khi đẩy cửa vào nhà, chúng tôi nhận thấy bếp trống rỗng. Bàn ghế cùng cái hòm chẳng thấy đâu; trong lò, lửa đã tắt ngấm. Nhưng bức tranh Giáo hoàng vẫn còn đó, điều này có nghĩa không phải chúng tôi lại dọn nhà. Bố sẽ chẳng đi đâu nếu thiếu Giáo hoàng. Sàn bếp sũng nước, tôi thấy chỗ nào cũng loang lổ những vũng nước nhỏ, trên tường cũng loang lổ đầy vết nước bám lên. Có tiếng động ở tầng trên, khi leo lên đến nơi, chúng tôi thấy trên đó có bố, mẹ và toàn bộ đồ gỗ tưởng đã mất. Trên đó mọi thứ trông rất đẹp và ấm cúng với một ngọn lửa nhảy nhót trong lò sưởi. Mẹ đang ngồi trên giường còn bố thì ngồi hút thuốc cạnh lò sưởi và đọc tờ The Irish Press. Mẹ bảo chúng tôi vừa có một trận lụt khủng khiếp bởi khi trời mưa lớn, nước cứ dâng lên từ ngoài đường rồi tràn vào nhà. Mẹ và bố đã cố dùng giẻ để ngăn nước nhưng chỉ vô ích, nước cứ thế từ ngoài ngấm vào qua khe cửa của chúng tôi. Hơn nữa, việc mọi người cứ vác bô đi đổ càng làm cho mọi việc thêm tồi tệ, làm cho dưới phòng ăn đầy mùi xú uế. Mẹ nghĩ cả nhà nên dọn lên tầng trên chừng nào trời còn mưa lớn. Chúng tôi sẽ được ủ ấm qua mùa đông, rồi đến mùa xuân thì cả nhà sẽ lại dọn xuống dưới đó chừng nào chúng tôi thấy tường không còn dấu hiệu của sự ẩm ướt. Bố bảo chuyên này cũng giống như việc cả nhà đi nghỉ ở một nơi có khí hậu ấm áp, như Y chẳng hạn. Kể từ đó trở đi, chúng tôi gọi tầng hai là Ý. Malachy líu lo với cả nhà rằng Giáo hoàng vẫn còn ở trên tường dưới nhà, liệu chúng ta có thể đưa ông lên gác để ông đỡ lạnh có được không? Nhưng mẹ bảo “Không, ông ấy vẫn sẽ cứ ở đó vì mẹ không muốn lúc nào cũng có người nhìn chằm chằm vào mình khi mẹ đi ngủ. Chỉ riêng việc mang ông ta suốt từ Brooklyn về Belfast, từ Belfast tới Dublin rồi từ Dublin đến Limerick là quá đủ rồi. Tất cả những gì mẹ muốn bây giờ là được nghỉ ngơi yên ổn”.
Mẹ dắt theo tôi và Malachy tới hội Bảo trợ Thánh Paul, đứng xếp hàng để xem liệu họ có lo cho chúng tôi có một bữa tiệc đón Giáng sinh cho ra hồn hay không, ví thử như một con ngỗng hay một cái đùi lợn muối chẳng hạn. Nhưng người quản lý ở đó cho hay mọi nhà ở Limerick đều chẳng hy vọng gì vào dịp Giáng sinh này. Ông ta cho mẹ một phiếu mua tạp phẩm ở cửa hàng McGrath và một phiếu khác chỗ người bán thịt.
Không ngỗng, chẳng thịt lợn cũng không thịt gà. Sẽ chẳng có gì tử tê cho anh khi mang một cái phiếu mua hàng của hội Bảo trợ đến trình ở các cửa hàng lương thực. “Những gì bà có thể đổi được bây giờ, thưa bà, có thể là bánh pudding đen với một cái dạ dày lợn, hay một cái đầu cừu, a không, hay bà thích cái thủ lợn. Thủ lợn ăn bổ lắm đấy, thưa bà, nhiều thịt lắm, tôi đảm bảo lũ trẻ nhà bà sẽ thích ngay. Bà cứ thái lát mỏng cái má lợn ra rồi sát đẫy mù tạt vào, tôi đảm bảo sẽ tuyệt vời. Dám cược với bà rằng ở bên Mỹ không có món nào tuyệt như thế đâu. Cái dân Mỹ ý mà, hình như họ chỉ thích ăn những con gì bơi được hay chạy được thì phải, bất cứ thứ gì cũng đem ra nướng tuốt”.
Người bán hàng lại tiếp tục thao thao bất tuyệt với mẹ: “Không, bà không mua được thịt luộc hay lạp xường đâu. Nếu bà muốn có thứ gì đó mang về nhà, tôi khuyên bà nên nhanh tay chọn cái thủ lợn kia, trước khi đám dân nghèo ở Limerick phát động chiến tranh vì nó”.
Mẹ bảo dường như thủ lợn không ăn nhập gì mấy trong dịp Giáng sinh nhưng người bán hàng vẫn khăng khăng rằng ngày xưa ở Bethlehem, gia đình của Chúa cũng không được như thế. Và rằng họ sẽ sướng rơn lên nếu được một cái thủ lợn vừa béo vừa ngon như thế kia.
-Vâng, họ không nên phàn nàn, - mẹ nói, - nhưng họ cũng chẳng bao giờ động đến thịt lợn vì họ là người Do thái.
-Thế thì đã làm sao? Thủ lợn là thủ lợn chứ còn đòi hỏi gì nữa?
-Còn người Do thái sẽ vẫn là người Do thái, họ không thể chống lại tôn giáo của mình, không thể đổ lỗi cho họ được.
Người bán tỏ vẻ châm chọc: “Bà có vẻ am hiểu về dân Do thái và về lợn đấy nhỉ, thưa bà?”.
-Không phải thế, nhưng tôi biết một người phụ nữ Do thái ở New York, bà Leibowitz, - mẹ trả lời, - và tôi cũng không biết sẽ phải xoay xở như thế nào nếu thiếu bà ấy.
Người đàn ông nghe tới đó bèn nhấc cái thủ lợn ra khỏi quầy, Malachy trông thấy bèn thốt lên: “Ôi, ôi, trông kìa, con chó chết”. Nó khiến mẹ và người bán hàng phải cười phá lên. Ông ta gói cái thủ trong lớp giấy báo rồi đưa mẹ và nói: “Chúc mừng Giáng sinh”. Thế rồi lại gói thêm ít xúc xích nhét vào tay mẹ: “Cái này gia đình bà sẽ dùng cho bữa sáng của ngày Noel”. Mẹ đẩy ra và nói: “Ồ, tôi không có tiền mua chỗ xúc xích này đâu”. Người bán hàng mỉm cười bảo mẹ: “Tôi có đòi tiền bà đâu nào? Tôi đòi lúc nào nhỉ? Bà cứ cầm lấy chỗ xúc xích này đi. Nó sẽ giúp bà cảm thấy bớt phiền lòng vì thiếu món ngỗng hay đùi lợn muối đấy”.
-Vâng, nhưng tôi không nên nhận thê này, - mẹ tỏ ra luống cuống.
-Tôi biết điều đó chứ bà. Nhưng thôi, bà cứ cầm lấy đi, coi như tôi giúp bà.
Mẹ bảo mẹ bị đau lưng nên tôi sẽ phải xách hộ mẹ cái thủ lợn. Tôi phải ôm nó trên ngực, nhưng cái thủ lợn ướt át ấy cứ làm cho lớp báo tuột dần rồi bay gần hết, đến lúc đó mọi người đều biết tôi đang ôm một cái thủ lợn. Mẹ bảo: “Mẹ thấy xấu hổ quá con ạ, cả thế giới đều biết chúng ta đón Giáng sinh với một cái thủ lợn”. Mấy đứa học sinh ở trường Tiểu học Quốc gia Leamy trông thấy chúng tôi và cái thủ lợn, chúng kéo nhau chỉ trỏ rồi cười nhạo. “Ôi, Chúa ơi, chúng mày ra đây mà xem Frankie McCourt với cái mõm lợn của nó kìa. Có phải người Mỹ vẫn dùng nó vào dịp Giáng sinh không hả Frankie?”.
Một đứa quay sang hỏi đứa khác: “Này Christy, mày có biết ăn đầu lợn như thế nào không?”.
-Không Paddy ạ, kinh chết lên được.
-Thế mà cũng đòi, tóm lấy hai cái tai rồi nhai cái mặt nó chứ sao nữa.
Rồi thằng Christy vặn lại Paddy: “Thế mày có biết phần nào của cái đầu mà nhà McCourt bỏ đi không?”.
-Tao không biết. Mày biết hả Christy?
-Chứ sao, là cái chỗ dũi đất.
Đi thêm được mấy phố, toàn bộ mảnh báo bọc ngoài cái thủ đã bay hết, và thế là người đi đường ai cũng có thể trông thấy cái đầu lợn. Cái mũi của nó nằm trọn trên ngực tôi, chạm cả lên cằm. Tôi cảm thấy thật buồn cho con lợn bởi nó chết rồi mà vẫn không được yên, thế giới này vẫn còn mang nó ra để cười nhạo được. Em gái và hai em trai tôi cũng đã chết, nhưng nếu có kẻ nào dám mở mồm ra cười chúng, tôi sẽ chẳng ngại gì mà không đập cho nó một trận.
Tôi ước gì có bố ở đây để giúp chúng tôi bởi mẹ cứ phải dừng lại liên tục, dựa lưng vào tường để nghỉ. Mẹ cứ xoa lưng rồi bảo hai anh em tôi rằng chưa bao giờ mẹ có đủ sức để leo lên Đồi Barrack. Nhưng ngay cả khi có bố ở đây, tôi cũng tin rằng ông chẳng giúp được gì bởi bố chẳng bao giờ mang vật gì: hòm quần áo, túi đồ hay gói hàng, chẳng gì trong số đó. Bởi theo cách suy nghĩ của bố, nếu anh mang một trong những thứ đó, đồng nghĩa với việc anh đánh mất tư thế đàng hoàng của mình. Chính bố từng nói điều này. Bố chỉ bế hai đứa em sinh đôi của tôi khi chúng mệt, lúc dọn nhà bố chỉ xách theo bức tranh Giáo hoàng, nhưng đối với những thứ thông thường như cái đầu lợn này thì là chuyện hoàn toàn khác. Bố bảo tôi và Malachy rằng khi nào lớn, chúng tôi sẽ phải mặc cổ áo và thắt cà-vạt, đồng thời không bao giờ được để người khác trông thấy mình đang mang vác vật gì đó.
Về nhà, tôi thấy bố đang ngồi hút thuốc và đọc tờ The Irish Press bên lò sưởi. Đó là tờ báo mà bố yêu thích bởi nó được Valera xuất bản, còn bố thì luôn cho rằng Valera là người vĩ đại nhất thế giới. Bố nhìn chằm chằm chằm vào tôi và cái thủ lợn rồi trách mẹ sao lại để một thằng bé mang cái vật như thế đi khắp các phố ở Limerick. Mẹ lẳng lặng cởi áo khoác rồi buông mình xuống giường. Một lúc sau mới bảo bố rằng đến Giáng sinh tới, bố phải ra ngoài mà tìm cái gì về cho đêm Noel Mẹ dường như đã hoàn toàn kiệt sức, hổn hển bảo bố đun nước pha cho mẹ tách trà rồi nướng bánh cho hai con ăn trước khi chúng chết rũ vì đói.
Vào sáng hôm Noếl, bố dậy rất sớm nhóm lửa đế chúng tôi có thể dùng trà với bánh mỳ và xúc xích. Mẹ bảo tôi sang nhà bà ngoại mượn cái nồi to để đun đầu lợn. Bà hỏi tôi: “Nhà chúng bay dùng cái quái gì cho bữa tối thế hả? Đầu lợn à! Lạy Chúa, lạy Đức mẹ và cả Thánh Josep nữa, cái gì đang diễn ra ở nhà chúng bay thế không biết. Thế thằng bố mày không chịu lê cái đít ra ngoài mà kiếm lấy con ngỗng hay cái đùi lợn về cho chúng bay hay sao? Cái loại người gì mà kỳ quặc thế không biết?”.
Mẹ thả cái đầu lợn vào nồi rồi đổ ngập nước, trong khi mẹ đun thịt lợn, bố con tôi và Malachy đến tụ tập với mọi người ở Nhà thờ Công giáo. Ở nhà, mẹ đang loay hoay xoay xở một cách khó nhọc. Nhà tôi không đủ than để nấu nốt bữa tối, nước không chịu sôi nữa, mẹ bảo mẹ sắp sửa phát điên lên vì lo lắng. Chúng tôi sẽ phải chạy xuống đường Dock để kiếm than vụn mà xe tải trở rớt dọc đường. Chắc chắn chúng tôi sẽ kiếm được đủ than mẹ cần bởi ngay cả người nghèo nhất trong những người nghèo cũng không đổ ra đường mót than vào ngày Giáng sinh như thế này. Chẳng ích chi nếu muốn bố đi cùng bởi ông không bao giờ hạ mình đến thế, và ngay cả khi ông chịu đi cùng chúng tôi, ông cũng chẳng buồn xách một thứ nhỏ nếu phải đi qua các con phố. Đó là nguyên tắc của ông. Mẹ không thể đi vì mẹ đang đau lưng.
Mẹ tôi bảo: “Con phải đi rồi Frank ạ, con cho Malachy đi theo nhé”.
Chúng tôi phải đi bộ một đoạn dài mới tới được đường Dock nhưng hai anh em tôi không thấy ngại bởi chúng tôi đã ních đầy bụng xúc xích với bánh mì, hơn nữa trời không mưa. Hai đứa mang theo cái túi vải mẹ mượn của bà hàng xóm Hannon. Mẹ đã đúng, trên đường Dock không một bóng người. Hình như người nghèo đều đã về nhà họ để dùng món đầu lợn, vậy nên tôi có cảm giác cả con đường này là của hai anh em tôi. Chúng tôi tìm được những mẩu than vãi, một ít than bùn nằm lọt trong những khe nứt trên đường hay vương trên tường của những sân than. Hai đứa còn tìm thấy một vài mẩu giấy hay mảnh bìa các-tông, dùng để nhóm lò rất tốt. Trong lúc chúng tôi đang loanh quanh tìm cách nhét cho đầy túi thì bỗng bác Pa Keating đi ngang qua. Hình như bác vừa mới tắm để đón Giáng sinh thì phải, bởi nom bác không đen như dạo Eugene mất. Bác hỏi chúng tôi đang làm cái gì ở đây với cái túi phồng tướng thế kia. Sau khi nghe Malachy giải thích, bác thốt lên: “Lạy Chúa, lạy Đức mẹ và cả Thánh Joseph nữa! Vào ngày Giáng sinh mà các con cũng không có lửa để đun nổi một cái thủ lợn hay sao? Nhục quá, nhục quá đi mất”.
Bác dẫn chúng tôi tới tiệm rượu South, theo lệ thường thì nó phải đóng cửa nhưng bởi chú là khách quen và tiệm có cửa sau, chuyên phục vụ những ai muốn uống bia để mừng sinh nhật Chúa. Bác gọi bia uống và kêu hai vại chanh ép cho chúng tôi, thế rồi bác hỏi chủ quán xem liệu ông ta có thể bớt cho chúng tôi một ít than được không. Ông ta kinh ngạc bảo bác rằng mình đã từng bán rượu trong suốt hai mươi bảy năm qua nhưng chưa thấy một ai gọi bia với than bao giờ. Bác Pa bảo ông ta làm ơn giúp chúng tôi một chút than là đủ, ông chủ quán tỏ vẻ quý mến bảo bác rằng ngay cả khi chú bảo ông ta lấy hộ mặt trăng, ông ấy cũng sẵn sàng bay lên hái xuống cho bác. Ông ta dẫn chúng tôi đến cái hố than dưới gầm cầu thang và bảo hai đứa khuân được bao nhiêu thì cứ lấy. Toàn bộ chỗ đó là than tốt chứ không như những mẩu rơi vãi mà chúng tôi nhặt trên đường Dock. Trông thấy nhiều than quá, tôi nghĩ nếu không vác được thì tôi cứ ních thật đầy rồi kéo lê về nhà cũng được.
Chúng tôi phải mất rất nhiều thời gian để đi từ tiệm South về Đồi Barrack bởi cái lỗ thủng chết tiệt trên túi. Tôi kéo lê chiếc túi trên đường còn công việc của Malachy là nhặt nhạnh chỗ than rớt ra từ lỗ thủng, bỏ lại vào bao. Rồi bỗng dưng trời đổ mưa, nhưng chúng tôi cũng không thể đứng náu mãi dưới hàng hiên chờ tới khi tạnh bởi túi than của chúng tôi còn đó, nó tạo thành một vệt đen dọc theo đường chúng tôi đi, nó còn khiến Malachy trở nên đen nhẻm vì thằng bé phải kỳ cạch nhặt than suốt dọc đường cho vào bao rồi lại gạt nước mưa trên mặt với bàn tay ướt và đen của nó. Tôi bảo trông nó như người da đen, nó cũng bảo tôi trông giống người da đen, và người phụ nữ trong cửa hàng bảo chúng tôi tránh xa cánh cửa của bà ta: “Hôm nay là lễ Giáng sinh, tao không muốn trông thấy người châu Phi chúng mày”.
Chúng tôi lại tiếp tục kéo lê cái túi than về nhà, nếu không sẽ chẳng có gì bỏ vào bụng trong cái đêm Giáng sinh. Phải mất đến hàng năm mới có thể nhóm được lửa và cũng chừng ấy hoặc hơn nữa để có được bữa tối bởi nước lẽ ra phải sôi trong khi mẹ thả vào nồi một cái bắp cải, mấy củ khoai tây để nấu cùng với cái đầu lợn. Khi chúng tôi lôi cái túi lên đại lộ O’Connell, hai anh em trông thấy cảnh các gia đình quây quần trong nhà, mọi người ngồi quanh bàn với rất nhiều món đồ trang trí và những thứ ánh sáng óng ánh, sặc sỡ trông thật đẹp mắt. Đi qua một ngôi nhà, người trong nhà mở cửa sổ ra và bọn trẻ con tranh nhau chỉ vào chúng tôi: “Nhìn xem kìa, người châu Phi đấy. Thế giáo của chúng mày đâu?”.
Malachy lè lưỡi trêu lại bọn chúng, dường như chưa hả tức nó còn định lấy than ném vào cái nhà đó nhưng tôi bảo nó nếu ném than đi thì nhà mình sẽ không có than để nấu bữa tối, như vậy chúng tôi sẽ chẳng có cái gì nhét vào bụng.
Trước cửa nhà tôi lại có một cái vũng nước do cơn mưa quái quỷ gây nên, nhưng cũng chẳng thành vấn đề bởi dẫu sao chúng tôi cũng đã ướt đẫm, và cứ thế, hai anh em lội qua vũng nước lớn vào nhà. Bố nhảy xuống để lôi cái túi than lên Y. Bố bảo hai anh em tôi thật xứng đáng là những đứa trẻ ngoan vì chúng tôi kiêm được rất nhiều than, và rằng có khi toàn bộ con đường Dock đã được trải bằng than. Khi mẹ trông thấy hai đứa, trước tiên bà phá lên cười rồi lại bật khóc. Mẹ cười vì chúng tôi đen nhẻm như hai hòn than và khóc bởi người hai đứa sũng nước. Mẹ bảo chúng tôi cởi hết quần áo ra rồi lấy nước rửa sạch vết than trên mặt và tay chúng tôi. Mẹ bảo bố rằng cái đầu lợn thì có thể chờ được nhưng phải nhanh nhanh pha cho hai đứa mấy cốc trà nóng.
Bên ngoài, trời vẫn mưa nặng hạt để rồi có thêm một cái hồ trong bếp dưới nhà, nhưng ở trên này, ở Ý, chúng tôi lại có lửa để sưởi và căn phòng trở nên ấm áp, khô ráo. Sau khi dùng trà, tôi và Malachy lăn ra giường gà gật mãi cho đến khi bố đánh thức hai anh em dậy và bảo rằng bữa tối đã sẩn sàng. Quần áo của hai đứa vẫn còn ướt nên Malachy ngồi trên hòm đổ đạc với cái áo khoác đỏ của mẹ đem từ Mỹ về quấn quanh người. Còn tôi thì co ro trong cái áo của ông ngoại để lại sau khi ông bỏ sang úc.
Mùi thơm của bắp cải, khoai tây và đầu lợn lan tỏa khắp phòng. Nhưng khi bố nhấc cái đầu lợn ra khỏi nồi và đặt lên đĩa thì Malachy thốt lên: “Ôi, tội nghiệp con lợn quá. Con không muốn ăn con lợn tội nghiệp này đâu”.
Mẹ bảo nó: “Nếu con thấy đói thì con sẽ ăn. Nào, bây giờ thì dẹp cái sự thương cảm của con sang một bén, ngồi vào gần đây dùng bữa đi con”.
Bỗng bố bảo: “Đợi một phút” và thế là ông lấy dao xẻo hai bên má con lợn bầy ra đĩa của chúng tôi rồi xát mù tạt lên. Xong việc, bố cầm lấy cái đĩa trên đó có thủ lợn bỏ xuống gầm bàn. Bố quay sang bảo Malachy: “Bây giờ thì là đùi lợn muối rồi nhé” và thế là Malachy bắt đầu ăn vì nó không còn tròng thấy chỗ thịt nó ăn là từ đâu mà ra và có vẻ như chẳng giống cái đầu lợn nữa. Bắp cải rất mềm và nóng, ngoài ra còn rất nhiều khoai tây cùng với bơ và muối. Mẹ bóc vỏ khoai cho chúng tôi nhưng bố cứ thế ăn, ăn cả vỏ. Bố bảo chất dinh dưỡng của khoai tây nằm cả ở vỏ, mẹ quay sang bố: “Thật may cho anh là không có trứng, nếu có thì anh phải ăn cả vỏ trứng đấy”.
Bố bảo nếu cần bố cũng sẽ như vậy, và thật đáng hổ thẹn khi hàng ngày người Ailen đổ đi hàng triệu cân vỏ khoai và đó chính là lý do tại sao mà hàng ngàn người phải chết vì viêm phổi và chất dinh dưỡng cũng nằm cả ở vỏ trứng, lãng phí như vậy là phạm phải tội thứ tám. Mẹ bảo chúng tôi: “Thôi các con, đừng nghe bố nữa, tập trung vào mà ăn”.
Bố chỉ ăn nửa củ khoai và vỏ, nửa còn lại bố bỏ cả vào nồi. Bố ăn một chút má lợn và vài cọng bắp cải. chỗ còn lại bố trút hết sang đĩa của tôi và Malachy. Bố pha thêm chút trà, cả nhà tôi lại dùng thêm bánh mì và mứt, sau đó không ai có thể than thở gì về việc chúng tôi không được đón một lễ Giáng sinh ngọt ngào.
Trời đã tối hẳn, bên ngoài vẫn mưa rả rích, trong lò than sáng rực rỡ, cách đó không xa bố mẹ tôi ngồi thong thả hút thuốc. Khi quần áo còn chưa khô thì chúng tôi chẳng thể làm gì ngoài việc leo lên giường chui vào trong chăn bởi đó là nơi duy nhất cho tôi cảm giác ấm áp, dễ chịu.
Lần này, chính các thiên thần từng mang Margaret và hai em sinh đôi của tôi đi lại mang đến cho chúng tôi một cậu em trai, em Michael. Bố bảo ông đã tìm thấy thằng Michael ở bậc thang thứ bảy trên đường lên Y. Bố nói với chúng tôi đó chính là chỗ cần phải tìm mỗi khi muốn có thêm trẻ con trong nhà, Thiên thần trên bậc thang thứ Bảy.
Malachy muốn biết làm thế nào có thể có thêm một đứa bé từ Thiên thần ở bậc thang thứ Bảy trong khi có những nhà không có cầu thang trong nhà. Bố bảo nó đừng có hỏi quá nhiều, hỏi nhiều quá như thế là làm phiền người khác.
Malachy dường như không thỏa mãn, nó lại hỏi làm phiền nghĩa là làm sao.
- Làm phiền, làm phiền. Con muốn biết nó nghĩa là gì. Làm phiền là gì hả bố? - nó không chịu buông tha. - Ôi con trai, - bố đang mất dần kiên nhẫn, - thế giới này là cả một sự phiền toái lớn. - Nói rồi bố vớ lấy chiếc mũ đi đến bệnh viện Bedford để thăm mẹ và Michael. Mẹ nằm trong bệnh viện với cái lưng đau, thằng bé nằm bên mẹ để bà có thể yên tâm rằng nó vẫn trộm vía từ khi bị bỏ ở cái bậc thang thứ bảy ấy. Tôi không hiểu nổi chuyện này bởi tôi tin rằng các thiên thần không bao giờ bỏ một đứa trẻ sơ sinh trên bậc thang thứ Bảy. Hỏi bố mẹ tôi thì chỉ nhận được câu trả lời: “Con lại sắp sửa hư y như thằng Malachy rồi đấy, cứ hỏi hoài hỏi mãi. Ra ngoài chơi đi”.
Tôi biết rằng người lớn không thích phải trả lời những câu hỏi của bọn trẻ con. Thế mà họ lại có thể hỏi thoải mái chừng nào họ muốn như: Hôm nay ở trường thế nào? Con có ngoan không? Con đã cầu nguyện trước khi ngủ chưa đấy? Nhưng nếu có dại dột hỏi lại họ xem họ đã cầu nguyện trước khi ngủ chưa thì rất có thể họ sẽ cho anh một cái bợp vào đầu.
Bố đưa mẹ về nhà với em bé, mẹ buộc phải nằm yên trên giường trong vài ngày do bị đau lưng. Mẹ bảo thằng bé trông giống hệt cò chị đã mất của nó, từ làn tóc đen gợn sóng, đòi mắt xanh xinh đẹp, cho tới hàng chân mày kiêu kỳ. Mẹ đã nói đúng như vậy.
Tôi muốn biết tại sao thằng bé lại giống Margaret đến vậy. Tôi cũng muốn biết bậc nào là bậc thang thứ bảy bởi cầu thang nhà tôi có tới chín bậc, không hiểu mọi người bảo bậc thứ bảy là đếm từ trên xuống hay từ dưới lên. Bố sẽ chẳng bao giờ thèm trả lời những câu hỏi kiểu như vậy, tôi biết. “Các thiên thần đến từ trên trời hay chui từ dưới lên”, bố nói, “chắc chắn không giống như chúng ta chui từ cái bếp ra, cái chỗ mà thường xuyên ngập như hồ từ tháng Mười đến tận tháng Tư ấy”.
Cuối cùng tôi cũng biết được bậc thứ bảy được đếm từ trên xuống.
Em Micheal bị cảm lạnh. Mũi nó bị tắc nên thằng bé thở rất khó khăn. Mẹ lo lắm bởi hôm nay là Chủ nhật và Bệnh xá miễn phí cho người nghèo đều đóng cửa. Nếu cứ liều mang thằng bé tới nhà bác sĩ, họ sẽ nhận ra chúng tôi tới từ tầng lớp nào trong xã hội và sẽ đuổi thẳng sang Bệnh xá miễn phí, nơi đó mới phục vụ người nghèo. Nếu có giục họ rằng thằng bé đang chết trên tay bố mẹ nó thì lập tức y tá sẽ thoái thác với lý do bác sĩ đang đi cưỡi ngựa ở ngoại ô.
Mẹ bắt đầu khóc bởi thằng bé đang đánh vật với từng hơi thở qua cái miệng bé xíu của nó. Mẹ cố tìm cách thông mũi cho thằng bé bằng một mẩu giấy quấn tròn, nhưng mẹ cứ luống cuống không dám làm dứt khoát vì sợ thọc vào quá sâu. Bố bảo đừng có làm như thế, chẳng giúp gì được nó cả. “Em đừng có tìm cách thọc các thứ vào đầu thằng bé như thế, để anh thử xem”. Nom có vẻ như bố hôn Michael nhưng thực ra ông ghé mồm vào cái mũi xinh xinh của nó hút sạch những chất bám bên trong rồi nhổ vào đống lửa. Michael cựa quậy mấy cái, khóc váng lên rồi sau đó có thể thấy thằng bé hít lấy hít để không khí bằng cái mũi nhỏ xíu, đạp chân liên tục và cười khanh khách. Mẹ nhìn bố như thể ông vừa từ trên thiên đường xuống, bố thản nhiên bảo đó là cái cách ngày xưa mọi người vẫn làm ở Antrim, từ hồi các bác sĩ vẫn còn đi lại bằng ngựa.
Nhờ có Michael mà gia đình chúng tôi thêm được vài shilling trong mỗi tuần trong tổng số tiền trợ cấp nhưng mẹ bảo cũng chẳng đủ và mẹ còn phải tới hội Bảo trợ thánh Paul để xin thêm đồ ăn. Vào một đêm nọ, có tiếng gõ cửa cồng cộc dưới nhà, mẹ bảo tôi xuống dưới xem có chuyện gì. Mở cửa ra, tôi thấy hai người đàn ông, họ tới từ hội Bảo trợ thánh Paul, họ muốn gặp bố mẹ tôi. Tôi bảo với họ rằng bố mẹ đang ở trên gác, ở Ý, điều đó khiến họ ngạc nhiên thốt lên: “Cái gì cơ?”.
- Trên gác ấy, ở trên đấy không bị ướt, - tôi nói với họ.
Họ muốn biết cái phòng be bé nằm bên cạnh cửa ra vào nhà tôi là cái gì. Tôi bảo họ đấy là nhà vệ sinh. Hai người lại thắc mắc không biết tại sao nhà vệ sinh không ở phía sau nhà mà lại ở đằng trước. Tôi lại phải giải thích cho họ rằng đó là nhà vệ sinh cho toàn bộ các dãy nhà ở đây và thật là may mắn vì nó không nằm phía sau nhà chúng tôi bởi nếu vậy, mọi người sẽ đi thẳng qua bếp nhà tôi với những cái bô nặng mùi, nó sẽ khiến cả nhà chúng tôi phát ốm mất.
Họ có vẻ ngạc nhiên, một người hỏi lại: “Cháu có chắc chỉ có một phòng vệ sinh cho toàn bộ dãy nhà này không?”
-Vâng, đúng như thế mà.
-Chúa ơi, khủng khiếp quá, - họ thốt lên.
Có tiếng mẹ gọi từ trên Ý vọng xuống: “Ai ở dưới đó thế?”.
-Có mấy người mẹ ạ.
-Người nào?
-Từ hội Bảo trợ thánh Paul.
Họ bước từng bước cẩn thận, lội qua cái hồ trong bếp, mỗi bước chân của họ tạo nên những tiếng “nhép, nhép”, “tút, tút”. Hai người quay sang bảo nhau: “Thế này chẳng đáng xấu hổ lắm sao?” cho tới lúc họ leo lên Ý. Họ tỏ ý xin lỗi bố mẹ tôi vì đã làm phiền gia đình nhưng hội Bảo trợ muốn kiểm tra để đảm bảo rằng họ đang giúp đỡ những trường hợp thực sự cần thiết. Mẹ mời hai người dùng trà nhưng họ chỉ nhìn quanh và nói: “Không, cảm ơn bà”. Họ muốn biết tại sao cả nhà chúng tôi lại kéo lên trên gác ở. Họ cũng thắc mắc về nhà vệ sinh. Họ cứ thế hỏi hết câu này đến câu khác, bởi vì người lớn muốn hỏi bao nhiêu cũng được và họ cứ thế ghi ghi chép chép vào cuốn sổ nhỏ, đặc biệt, họ còn đeo cổ áo, cà vạt và vận những bộ vét. Họ hỏi xem Michael được mấy tuổi, bố được Trung tâm Lao động trợ cấp bao nhiêu, tại sao cho tới giờ bố vẫn chưa xin được việc và bố là người vùng nào.
Bố bảo họ rằng phòng vệ sinh có thể giết chết cả nhà chúng tôi bằng đủ mọi loại bệnh, rằng vào mùa đông, ở trong bếp dưới nhà luôn có một cái hồ, đó là lý do khiến chúng tôi phải dời cả lên gác ở. Bố còn đổ trách nhiệm cho dòng sông Shannon về giá lạnh và hơi ẩm của nó đã giết từng người từng người một trong gia đình chúng tôi.
Malachy nói với họ rằng chúng tôi đang ở trên Y khiến họ đều mỉm cười.
Mẹ hỏi họ xem liệu có thể giúp cho Malachy và tôi mỗi đứa một đôi ủng để chúng tôi đi trong mùa đông được không. Họ bảo mẹ cứ thử xuống Nhà Ozanam để xin thử. Mẹ cũng nói với họ rằng mẹ không được khỏe kể từ khi sinh em bé và bà không thể đứng xếp hàng lâu được, nhưng họ bảo ai cũng như ai, đều phải được đối xử công bằng, ngay cả một bà ở dưới thị trấn Ailen sinh ba xong cũng phải đi xếp hàng. Thế rồi họ cảm ơn bố mẹ tôi và bảo sẽ gửi báo cáo cho hội Bảo trợ.
Trong khi họ xuống thang, Malachy tìm cách chỉ cho hai người nơi thiên thần bỏ lại Michael ở bậc thang thứ bảy nhưng bố bảo nó: “Không phải bây giờ, không phải bây giờ”. Malachy vùng vằng muốn khóc, thế là một trong hai người rút trong túi áo ra chiếc kẹo mút dỗ nó. Tôi ước gì cũng có thể khóc lóc được như nó, như vậy tôi cũng có kẹo.
Tôi phải xuống gác lần nữa và chỉ cho họ đi vào những chỗ để không bị ướt giầy. Hai người cứ lắc đầu quầy quậy, luôn miệng lẩm nhẩm: “Chúa anh minh, Chúa nhân từ, lạy Đức mẹ, khủng khiếp quá. Họ ở trên kia không phải là Ý mà là Calcutta”.
Tôi nghe thấy tiếng bố bảo mẹ trên Ý rằng mẹ không nên xin xỏ như thế.
-Anh bảo gì cơ, xin xỏ nghĩa là thế nào?
-Em phải có tự trọng chứ, xin ủng đấy còn gì.
-Thế anh định làm gì hả Vĩ nhân? Anh định để con mình đi chân đất cả mùa đông hay sao?
-Tôi thà sửa lại giầy cho chúng còn hơn.
-Mấy cái mảnh vụn ấy mà anh cũng gọi là giầy à?
-Nhưng tôi sửa được, - bố nói.
-Anh chẳng làm được cái gì cả. Anh là đồ vô dụng, - mẹ tỏ vẻ bực bội.
Hôm sau bố tôi mang về nhà một chiếc lốp xe đạp cũ. Ông sai tôi sang nhà ông hàng xóm Hannon mượn khuôn giày và búa. Ông lấy con dao sắc của mẹ tôi cắt và gọt chiếc lốp cho đến khi ông có được những mảnh lốp hợp với đế và gót giày của chúng tôi. Mẹ tôi bảo với bố tôi rằng làm như thế chỉ tổ phá hỏng hẳn giày của bọn tôi mà thôi nhưng bố tôi vẫn hì hục đóng những mảnh lốp vào giày. Mẹ tôi nói: “Lạy Chúa, nếu anh để nguyên những đôi giày đó thì bọn trẻ còn dùng được tới lễ Phục sinh, mà đến lúc đó thì chúng ta có thể xin được giày mới ở hội Bảo trợ thánh Vincent de Paul rồi”. Mặc cho mẹ tôi phản đối bố tôi vẫn không dừng lại cho tới khi đế và gót giày của chúng tôi được đệm bằng những miếng cao su vuông thìa lìa ra mũi, gót và hai bên. Bố tôi bảo chúng tôi đi thử giày vào và bảo rằng chân chúng tôi sẽ được giữ ấm nhưng chúng tôi không muốn đi giày bố tôi vừa sửa nữa bởi vì những mảnh lốp được đóng vào giày rất gồ ghề khiến chúng tôi bị trượt chân khi đi trên Ý. Khi tôi mang trả búa và khuôn giày, bà Hannon nhìn xuống chân tôi kêu lên: “Lạy Chúa, giày của cháu bị làm sao thế này?” Bà ấy cười phá lên còn ông Hannon thì lắc đầu khiến tôi cảm thấy thật xấu hổ. Hôm sau tôi không muốn đi học nên tôi giả vờ ốm nhưng bố tôi dậy sớm pha trà và rán bánh cho chúng tôi và bảo chúng tôi rằng đáng ra chúng tôi phải biết ơn vì vẫn còn có giày mà đi, rằng ở trường Leamy còn có khối học sinh phải đi chân đất trong những ngày lạnh giá. Trên đường đến trường chúng tôi trở thành trò cười cho bọn con trai bởi vì những mảnh lốp dày đến nỗi chúng làm chúng tôi cao lên đến mấy phân và bọn con trai hỏi mỉa tôi: “Trên đó không khí thế nào hả?” Trong lớp tôi có sáu hay bảy đứa gì đó đi chân đất và chúng nó không nói gì khiến tôi cứ băn khoăn không biết đi giày vá bằng lốp xe để bị trượt oành oạch dễ chịu hơn hay đi chân đất dễ chịu hơn. Nếu bạn không có giày thì bạn có bảy người khác cùng phe. Nếu bạn đi giày vá bằng lốp xe thì bạn chỉ có em bạn mà thôi và anh em bạn phải tự quyết tử trong những trận đánh nhau mà chẳng được đứa con trai nào ủng hộ hết. Tôi ngồi trên một chiếc ghế dài ở sân trường cởi giày và tất ra nhưng khi tôi vào lớp thầy giáo hỏi giày của tôi đâu. Ông ấy biết tôi không phải là một trong những đứa đi chân đất và ông ấy bắt tôi ra sân lấy giày đi vào. Rồi ông ấy nói với cả lớp:
-Trong lớp này ta thấy có sự chế nhạo. Các trò cười trước nỗi bất hạnh của người khác. Có ai trong lớp này cho rằng mình hoàn hảo không? Giơ tay lên cho ta xem.
Không một ai giơ tay.
-Có ai trong lớp này là con nhà giàu có thừa tiền mua giày không? Giơ tay lên cho ta xem.
Không một ai giơ tay.
-Trong lớp này có những người phải chữa giày bằng bất cứ cách nào họ có thể. Trong lớp này có những người không có giày đi. Đó đâu phải là lỗi của họ và đâu phải là diều đáng xấu hổ. Chúa của chúng ta không có giày. Người chết mà không đi giày. Các trò có nhìn thấy Người bị đóng đinh trên cây thập tự với đôi chân đi giày không? Có hay không?
-Không, thưa thầy.
-Các trò nhìn thấy Chúa trên cây thập tự như thế nào?
-Không có giày, thưa thầy.
-Từ bây giờ nếu ta còn nghe thấy trò nào trong lớp này chế nhạo và trêu chọc McCourt hoặc em của trò ấy về chuyện giày thì cái roi này sẽ không nằm yên đâu. Cái gì sẽ không nằm yên nào, các trò?
-Cái roi, thưa thầy.
-Roi này sẽ vung lên đấy. Nó sẽ kêu vun vút trong không khí, và nó sẽ tìm đến lưng trò nào chế nhạo và trêu trọc. Nó sẽ tìm đến đâu, các trò?
-Đến trò nào chế nhạo, thưa thầy.
-Và?
-Trò nào trêu chọc, thưa thầy.
Bọn con trai không quấy rầy chúng tôi nữa và chúng tôi đi giày được vá bằng lốp xe suốt mấy tuần cho tới lễ Phục sinh khi hội Bảo trợ thánh Vincent de Paul cho chúng tôi những đôi giày mới.
Nếu nửa đêm tôi phải dậy đi tiểu thì thê nào tôi cũng đi lên bậc thang trên cùng và nhìn xuống để xem liệu thiên thần có xuất hiện trên bậc thứ bảy hay không. Thỉnh
thoảng tôi nghĩ là tôi có nhìn thấy ánh sáng ở đó và nếu mọi người đều ngủ cả thì tôi ngồi xuống bậc thứ bảy đó để phòng khi thiên thần mang một đứa bé nữa đến hoặc có thể chỉ ghé qua thăm thôi. Tôi hỏi mẹ tôi rằng có khi nào thiên thần mang trẻ con tới rồi quên luôn không nghĩ gì đến chúng nữa không. Mẹ tôi trả lời rằng không đời nào lại có chuyện đó. Thiên thần không bao giờ quên những đứa trẻ vì thế thiên thần thường trở lại để xem chúng có được hạnh phúc hay không.
Tôi có thể hỏi thiên thần đủ loại câu hỏi và tôi chắc rằng thiên thần sẽ giải đáp, trừ khi đó là một nữ thần. Nhưng tôi nghĩ một nữ thần cũng sẽ trả lời các câu hỏi. Tôi chưa nghe thấy ai nói rằng các nữ thần không trả lời các câu hỏi bao giờ.
Tôi ngồi trên bậc thang thứ bảy rất lâu và tôi chắc là thiên thần ở đó. Tôi nói với thiên thần những điều tôi không thể nói với mẹ hay với bố tôi vì tôi sợ nếu tôi nói ra tôi sẽ bị đánh vào đầu hoặc bị đuổi ra ngoài chơi. Tôi nói với thiên thần những chuyện xảy ra ở trường và nói cho thiên thần biết tôi sợ thầy giáo và cái roi của ông ấy đến mức nào mỗi khi ông ấy gầm lên bằng tiếng Ailen mà tôi vẫn không biết ông ấy nói gì bởi tôi sinh ra ở Mỹ và những đứa con trai khác trong lớp được học tiếng Ailen trước tôi một năm.
Tôi ngồi trên bậc thang thứ bảy cho tới khi tôi lạnh không chịu nổi hoặc cho tới khi bố tôi tỉnh giấc phát hiện ra tôi và bắt tôi phải về giường đi ngủ. Bố tôi là người đầu tiên nói với tôi về thiên thần trên bậc thang thứ bảy và bạn hẳn sẽ nghĩ rằng ông biết tại sao tôi lại ngồi ở đó. Có lần tôi đã nói với bố rằng tôi đang ngồi đợi thiên thần, và bố tôi nói: “Ôi chao, Francis, con thật vớ vẩn”.
Tôi trở về giường nhưng tôi vẫn có thể nghe thấy bố tôi thì thầm với mẹ tôi: “Thằng bé tội nghiệp cứ ngồi trên bậc thang nói chuyện với thiên thần”.
Bố tôi cười và mẹ tôi cũng cười và tôi chợt nghĩ: “người lớn thật khó hiểu, sao lại đi cười thiên thần trong khi chính thiên thần mang đến cho họ một đứa bé mới”.
Trước lễ Phục sinh chúng tôi chuyển xuống phòng Ailen. Lễ Phục sinh dễ chịu hơn Giáng sinh bởi vì thời tiết ấm áp hơn, tường nhà không còn nhỏ nước vì ẩm nữa, bếp không còn là một cái hồ, và nếu chúng tôi dậy sớm chúng tôi có thể đón được chút ánh mặt trời chiếu vào qua cửa sổ bếp.
Vào những ngày đẹp trời cánh đàn ông ngồi bên ngoài hút thuốc, nhìn thế giới và nhìn chúng tôi chơi. Cánh đàn bà đứng khoanh tay tán gẫu với nhau. Họ không ngồi bởi vì tất cả những gì họ phải làm là ở nhà, trông con cái, dọn dẹp nhà cửa và nấu ăn còn đàn ông thì cần ghế. Đàn ông ngồi bởi sáng nào họ cũng bận lê chân đến Trung tâm Lao động để ký xin trợ cấp thất nghiệp, bận bàn luận tình hình thế giới và bận nghĩ xem họ sẽ làm gì cho hết ngày.
Lễ Phục sinh dễ chịu hơn Giáng sinh bởi vì bố tôi đưa chúng tôi đến nhà thờ dòng Cứu Thế nơi tất cả các linh mục đều vận đồ trắng và hát. Họ vui bởi vì Chúa của chúng ta đang ở trên thiên đường. Tôi hỏi bố tôi rằng có phải đứa bé ở trong máng cỏ chết rồi hay không và bố tôi trả lời rằng không phải, rằng Chúa qua đời khi Người ba mươi ba tuổi và chính Người bị đóng đinh trên cây thập tự. Tôi không hiểu thế nào mà Người lớn nhanh đến nỗi Người bị treo trên đó với một cái mũ làm bằng gai và máu me khắp người.
Bố tôi nói khi nào lớn tôi sẽ hiểu. Lúc nào bố tôi cũng nói như vậy khiến tôi thèm được lớn như bố để tôi có thể hiểu mọi điều. Thật là thích khi sáng ra bạn thức dậy và hiểu được mọi điều. Tôi ước gì mình được như những người lớn có mật trong nhà thờ, đứng và quì và cầu nguyện và hiểu mọi điều.
Trong lễ Mixa người ta đi đến bàn thờ Chúa và một linh mục bỏ thứ gì đó vào miệng họ. Họ trở về ghê ngồi và tôi thấy miệng họ lúng búng. Malachy kêu đói và nó bảo với bố tôi rằng nó cũng muốn được ăn như người lớn. Bố tôi nói:
-Xuỵt, đó là thánh thể, thân thể và máu của Chúa đấy.
-Nhưng bố.
-Xuỵt, đó là một bí mật.
Có hỏi thêm cũng vô ích. Nếu bạn hỏi một câu hỏi thì người lớn sẽ nói với bạn rằng đó là một bí mật, rằng khi nào lớn lên bạn sẽ hiểu, rằng bạn phải ngoan, rằng bạn hãy về hỏi bố mẹ bạn, rằng vì Chúa hãy để người lớn yên, rằng bạn đi chơi đi.
Bố tôi xin được việc làm đầu tiên của ông ở Limerick tại một nhà máy sản xuất ximăng và mẹ tôi rất phấn khởi. Mẹ tôi sẽ không phải đứng xếp hàng đến chồn cả chân ở hội Bảo trợ thánh Vincent de Paul để xin giày và quần áo cho tôi và Malachy nữa. Mẹ tôi bảo đó không phải là bố thí mà là cứu tế, nhưng bố tôi nói đó là bố thí và như thế rất đáng xấu hổ. Mẹ tôi nói rằng giờ mẹ tôi có thể trả khoản nợ mấy bảng cho cửa hàng Kathleen O’Connel và có thể trả nợ cho bà ngoại tôi. Mẹ tôi ghét phải mang ơn bất kỳ ai đặc biệt là bà ngoại tôi.
Nhà máy ximăng cách thành phố mấy dặm và thế có nghĩa là bố tôi sẽ phải rời nhà trước sáu giờ sáng. Bố tôi không ngại bởi vì ông vốn quen đi bộ xa. Buổi tối trước hôm bố tôi đi làm mẹ tôi chuẩn bị cho bố tôi một bình trà, một chiếc bánh sandwich, một quả trứng luộc kỹ. Mẹ tôi ái ngại cho bố tôi phải đi bộ ba dặm tới chỗ làm và phải đi ba dặm trở về. Một chiếc xe đạp sẽ rất có ích nhưng bạn phải làm việc cả một năm mới đủ tiền để mua một chiếc xe đạp.
Thứ Sáu là ngày trả lương và mẹ tôi dậy rất sớm, vừa dọn nhà vừa hát.
Trong nhà chẳng có gì nhiều để mà dọn dẹp. Mẹ tôi quét sàn bếp và sàn Ý trên gác. Mẹ tôi rửa bốn lọ đựng mứt để dùng làm ca đựng trà. Mẹ tôi nói nếu bố tôi giữ được việc làm lâu thì chúng tôi có thể có những tách uống trà tử tế, và với sự phù hộ của Chúa cùng Đức mẹ lòng lành của Người một ngày nào đó chúng tôi sẽ sắm được khăn trải giường và nếu chúng tôi chịu khó tiết kiệm thì chúng tôi có thể mua được một hoặc hai chiếc chăn bông để khỏi phải đắp những chiếc áo khoác cũ có từ thời xảy ra nạn đói. Mẹ tôi đun nước sôi và giặt những mảnh áo cũ dùng để quấn cho Michael để nó khỏi bậy ra xe nôi và ra nhà. Mẹ tôi hỉ hả bảo: “Ôi, tối nay ông bố các con mang tiền lương về thì chúng ta sẽ có một bữa trà vui lắm đây”.
Ông bố! Mẹ tôi đang vui mà.
Những tiếng còi tầm vang lên khắp thành phố báo hiệu một ngày làm việc đã kết thúc. Malachy và tôi vui cuống cả lên vì chúng tôi biết rằng khi bố tôi mang tiền lương về chúng tôi sẽ có được Xu ngày thứ Sáu. Chúng tôi biết điều đó qua những đứa con trai có bố đi làm và chúng tôi biết rằng sau khi uống trà chúng tôi có thể đến cửa hàng nhà Kathleen O’Connell mua kẹo. Nếu mẹ tôi đang trong tâm trạng vui vẻ thì bà có thể cho chúng tôi hai xu để hôm sau chúng tôi có th?