← Quay lại trang sách

Chương 8

Mẹ tôi nói:

- Alphie là đủ rồi. Tôi mệt lắm rồi. Kết thúc đi. Không thêm đứa nào nữa đâu.

Bố tôi nói:

Một người đàn bà Công giáo tốt phải thực nghĩa vụ của người vợ đối với người chồng và phải phục tùng người chồng nếu không sẽ bị nguyền rủa không ngừng.

Mẹ tôi nói:

Sự nguyền rủa không ngừng đối với tôi nghe cũng đủ hấp dẫn rồi miễn là đừng có thêm trẻ con nữa.

Bố sẽ làm gì đây? Chiến tranh vẫn đang tiếp diễn. Người Anh đang tuyển mộ những người đàn ông Ailen đến làm việc trong các nhà máy quốc phòng của họ, lương họ trả cao, ở Ailen thì không có nhiều việc làm, và nếu vợ bạn lạnh nhạt với bạn thì chả thiếu gì đàn bà ở nước Anh nơi mà những người đàn ông được việc đang ngày ngày chiến đấu chống lại Hitle và Mussolini và bạn có thể làm bất cứ chuyện gì bạn thích miễn là bạn nhớ rằng bạn là người Ailen, thuộc tầng lớp thấp và đừng có cố ngoi lên khỏi tầng lớp của bạn.

Nhiều gia đình trong ngõ nhận được giấy chuyển tiền của những người bố, người anh đang làm việc ở Anh. Họ thi nhau đến bưu điện lĩnh tiền đê họ có thể đi mua hàng và cho thế giới thấy sự phất lên của họ vào đêm thứ Bảy và sáng Chủ nhật. Những đứa con trai được đến tiệm cắt tóc vào những ngày thứ Bảy, phụ nữ thì rủ nhau đi làm đầu. Giờ đây họ trở thành những người cao quí qua cái cách họ bỏ ra sáu xu hoặc một shilling để ngồi xem phim ở rạp Savoy nơi họ gặp những người thuộc tầng lớp cao hơn thay vì trả hai xu để chen chúc trong rạp Lyric với rặt những người thuộc tầng lớp thấp luôn rú và la ó trước những cảnh trên màn ảnh, gào hét cổ vũ trước cảnh dân châu Phi ném lao vào Tarzan hay cảnh người da đỏ cắt da đầu của kỵ binh quân đội Hợp Chủng quốc Hoa Kỳ. Cứ mỗi Chủ nhật đi lễ Mixa về những người mới phất này lại nhồi vào dạ dày của họ nào là thịt, khoai tây, bánh, kẹo các loại, và họ vô tư thưởng thức trà đựng trong những chiếc cốc nhỏ thanh nhã được xếp trong những cái đĩa để hứng trà tràn và khi họ cầm ly trà ngón tay út của họ cong lên để chứng tỏ cho người khác thấy họ thanh lịch như thế nào. Vài người trong số họ không đến những cửa hàng bán cá tẩm bột chiên nữa bởi bạn chẳng thấy gì hay ho ở những chỗ đó hết mà chỉ toàn thấy những anh lính say và những cô gái chơi bời cùng những người đàn ông uống hết cả tiền trợ cấp bị vợ rít gọi về nhà. Những người thanh lịch mới phất ấy chỉ lui tới những nơi như nhà hàng Savoy hay nhà hàng Stella uống trà, ăn bánh, khẽ thấm đôi môi của họ bằng những chiếc khăn ăn thơm tho và về nhà bằng xe buýt để rồi phàn nàn về sự phục vụ xuống cấp của loại phương tiện này. Bây giờ nhà họ đã có điện vì thê họ có thể thấy được những thứ mà trước đó họ chưa hề thấy và khi bóng tối buông xuống họ bật chiếc radio họ mới sắm được lên để nghe tin tức về chiến tranh.

Nếu trời lạnh họ sẽ bật lò sưởi điện và ngồi trong bếp ấm áp nhà họ nghe bản tin và tỏ ra rằng họ rất tiếc trước cảnh phụ nữ và trẻ em người Anh chết dưới bom đạn của Hitle nhưng rồi họ nói, hãy xem người Anh đã làm gì với chúng ta suốt tám trăm năm.

Những gia đình có người đi làm ở Anh có thể ra oai trước những gia đình không có người đi làm việc ở Anh. Vào giờ ăn tối và giờ uống trà những bà mẹ mới phất đứng ở cửa nhà họ gọi với ra ngõ: - Mikey, Katheleen, Paddy, về ăn tối nào. về mau ăn đùi cừu, đậu xanh và khoai tây tẩm bột nào.

Sean, Josie, Peggy, về uống trà nào, về ăn bánh mì nóng ròn phết bơ, và trứng vịt xanh chẳng ai ở đây có nào. Brenden, Annie, Patsy, về ăn bánh pudding rán ròn nào, về ăn xúc xích, về ăn bánh xốp nhúng sherry ngon tuyệt nào.

Những lúc như thế mẹ tôi bảo chúng tôi ở yên trong nhà. Chúng tôi chẳng có gì ngoài bánh mì và trà nên mẹ tôi không muốn những người hàng xóm ồn ào kia nhìn thấy chúng tôi nuốt nước miếng trước mùi thức ăn hấp dẫn tỏa ra từ nhà họ. Mẹ tôi nói: “Nghe họ nói là biết ngay trước đây họ chẳng có gì hết. Đúng là chỉ có những cái đầu của tầng lớp thấp kém mới đứng ở cửa mà gào toáng lên cho cả thế giới biết bữa tối của mình có những gì”.

Mẹ tôi bảo họ ngoi lên cao hơn chúng tôi là bởi bố của chúng tôi là người miền Bắc. Bố tôi nói rằng tất cả những thức ăn đó đều từ nước Anh và những ai ăn chúng sẽ chẳng may mắn nhưng bạn có thể mong chờ gì từ Limerick, từ những người hưởng lợi từ cuộc chiến của Hitle, từ những người sẽ đi làm việc và đi chiến đấu cho người Anh. Bố tôi nói bố sẽ không bao giờ tới đó giúp người Anh chiến thắng trong một cuộc chiến. Mẹ tôi nói: “Không đi, anh cứ ở đây, ở cái nơi không có việc làm và không kiếm nổi một cục than mà đun nước pha trà. Không đi, anh cứ ở đây mà đi uống rượu hết cả tiền trợ cấp và anh cứ ở đây mà nhìn các con anh đi giày rách và mặc quần thủng đít. Nhà nào trong ngõ này cũng có điện còn chúng ta thì may lắm mới có nổi một cây nến. Lạy Chúa, nếu tôi có tiền mua vé tôi sẽ đi Anh ngay và tôi chắc các nhà máy cũng cần cả phụ nữ”.

Bố tôi nói:

Nhà máy không phải chỗ dành cho đàn bà.

Mẹ tỏi nói:

Bếp không phải là chỗ dành cho cái mông của một người đàn ông.

Tôi nói với bố:

Sao bố không đi Anh đi, bố, để chúng ta có điện có đài nghe, để mẹ đứng ở cửa nói cho cả thế giới biết chúng ta có gì ăn hả bố?

Bố tôi nói:

Con không muốn có bố ở nhà với các con hay sao? Có, nhưng hết chiến tranh bố lại về và chúng ta có thể đi Mỹ.

Bố tôi thở dài:

Chao ôi, chao ôi, được rồi.

Bố tôi bảo sau Giáng sinh bố tôi sẽ đi Anh chỉ vì người Mỹ đã tham chiến, thế thôi. Bố tôi bảo nếu người Mỹ không tham gia thì chẳng đời nào bố tôi đi. Bố tôi bảo tôi phải là người đàn ông của gia đình, và thế là bố tôi đến một văn phòng đại diện của người Anh đăng ký đi làm việc tại một nhà máy ở Coventry nơi người ta nói là túi hứng bom của nước Anh. Người đại diện nói với bố tôi: “Có đầy việc cho những người đàn ông nhiệt tình. Ông có thể làm việc thêm giờ cho tới khi ông kiệt sức và nếu như ông chịu khó tiết kiệm thì khi chiến tranh kết thúc ông sẽ thành Rockefeller”.

Chúng tôi dậy sớm tiễn bố tôi ra ga xe lửa. Kathleen O’ConneII biết bố tôi sẽ đi Anh và biết tiền sẽ chảy về nên bà ấy vui vẻ cho mẹ tôi mua chịu trà, sữa, đường, bánh mì, bơ, và một quả trứng.

Một quả trứng.

Mẹ tôi nói:

Trứng là để dành cho bố các con. Bố cần được bồi dưỡng trước một chuyến đi dài.

Đó là một quả trứng luộc và bố tôi bóc vỏ trứng. Bố tôi cắt quả trứng ra làm năm phần và cho mỗi chúng tôi một miếng nhỏ để kẹp vào bánh mì. Mẹ tôi bảo bố tôi:

Đừng ngớ ngẩn thế.

Bố tôi nói:

Một người đàn ông làm gì với cả một quả trứng chứ?

Mẹ tôi rơm rớm nước mắt. Mẹ tôi kéo ghế đến sát bếp. Tất cả chúng tôi ăn bánh mì với trứng và nhìn mẹ tôi khóc cho tới khi mẹ tôi gắt:

Nhìn gì chứ?

Và mẹ quay mặt nhìn vào lò sưởi. Bánh mì và trứng của mẹ vẫn còn nguyên trên bàn và tôi tự hỏi không biết mẹ tôi định giải quyết chúng như thế nào. Trông chúng ngon quá mà tôi thì vẫn còn đói nhưng bố tôi đã đứng dậy và mang chúng tới cho mẹ cùng với một tách trà. Mẹ tôi lắc đầu nhưng bố tôi cứ ấn chúng vào tay mẹ và thê là mẹ vừa ăn vừa uống vừa khóc. Bố tôi ngồi cạnh mẹ một lúc, im lặng, cho tới khi mẹ tôi ngước mắt lên nhìn đồng hồ và nói:

Đến giờ đi rồi. Bố tôi đội mũ và xách túi lên. Mẹ tôi quấn một cái chăn cũ quanh người Alphie và chúng tôi cứ thế lặng lẽ bước trên đường phố Limerick.

Trên phố có những gia đình khác. Những người cha sắp sửa đi xa bước đi trước, những người mẹ bế con trên tay hoặc đẩy xe nôi theo sau. Một bà mẹ đẩy chiếc xe nồi nói với một bà mẹ khác:

Lạy Chúa, chị bế cháu mãi thế chắc là kiệt sức rồi. Chị để cháu lên xe cho tay chị được nghỉ ngơi một tí đi.

Những chiếc xe nôi không biết đã phục vụ bao nhiêu đứa trẻ rồi mà trông chúng cũ kỹ quá và những đứa trẻ nằm trong nôi thì bị xóc đến trớ cả sữa ra.

Cánh đàn ông gọi nhau inh cả lên. Một ngày tốt đây, Mick. Một ngày dễ chịu để khởi hành, Joe. Đúng thế, Mick. A ha, uống một chút trước khi lên đường nào, Joe. Cả Mick nữa nào. Chúng ta cứ việc say sưa đi nào, Joe.

Họ phá lên cười còn đằng sau họ là những người đàn bà mắt đỏ hoe.

Các quán rượu quanh nhà ga chật ních những người đàn ông đến uống bằng tiền mà đại diện người Anh phát cho họ để ăn đường. Họ uống những ly rượu cuối cùng, giọt rượu cuối cùng trên đất Ailen, và họ nói với nhau:

Có Chúa mới biết đây có phải là lần cuối của chúng ta hay không, Mick, lính Đức đang đánh bom người Anh và sau những gì người Anh gây ra cho chúng ta giờ chúng ta lại phải đến đó bảo vệ cái mông cho kẻ thù truyền kiếp của chúng ta thì quả là một bi kịch.

Những người phụ nữ đứng bên ngoài các quán rượu nói chuyện với nhau. Mẹ tôi nói với một bà tên là Meehan:

Nhận được số tiền đầu tiên tôi sẽ đi mua ngay một bữa sáng tử tế cho cả nhà để mỗi người chúng tôi đều được ăn một quả trứng.

Tôi nhìn Malachy:

Nghe thấy chưa, Malachy? Mỗi người một quả trứng nhé. Ôi, Chúa ơi, tôi biết phải làm gì với quả trứng của mình rồi. Đập quanh đầu quả trứng, nhẹ nhàng bóc vỏ ra, lấy thìa nhấc nó lên, phết một ít bơ vào lòng đỏ, thêm một chút muối, từ từ đã, thêm chút muối, thêm chút bơ nữa, và đưa lên miệng, ôi, Chúa ơi, nếu thiên đường có thứ gì ngon thì chắc phải là vị trứng phết bơ và muối, và sau món trứng thì còn gì khác trên thế giới này ngon hơn bánh mì nóng và một chén trà vàng sánh chứ?

Vài người đàn ông uống say đến nỗi không bước đi nổi và những đại diện người Anh phải thuê tiền những người chưa say lôi những người say ra khỏi các quán rượu tống họ lên xe ngựa kéo đến nhà ga và chất họ lên tàu. Những đại diện người Anh thất vọng khi phải lôi những người đàn ông họ đã tuyển mộ ra khỏi quán rượu. Họ hét lên:

Đi nào, các anh. Nếu không là các anh sẽ bị nhỡ tàu và sẽ mất một công việc tốt đấy. Đi nào, đi thôi. Nào, đi nào. Các anh uống hết tiền ăn và các anh sẽ không được phát thêm nữa đâu.

Những người say rượu rủa người Anh hôn mông người Ailen, rằng những người đại diện đó may mà còn sống, may vì không bị treo cổ trên cột đèn sau những gì họ đã làm với người Ailen. Và những người lại say nghêu ngao hát.

Còi tàu cất lên từng hồi dài trong sân ga và những người đại diện nhờ những người đàn bà bảo chồng họ rời quán rượu và những người đàn ông lảo đảo đi ra vừa hát vừa khóc vừa ôm hòn vợ con họ, và họ hứa sẽ gửi thật nhiều tiền về để biến Limerick thành một New York khác. Họ bước lên những bậc của nhà ga và những người đàn bà và trẻ con thi nhau gọi với theo họ:

Kevin, hãy giữ gìn nhé và đừng có mặc áo còn ướt đấy. Nhớ phơi khô tất rồi hãy đi, Michael nhé, nếu không mụn nhọt sẽ giết chết anh đấy. Paddy ơi, đừng uống nhiều rượu quá, anh có nghe không, Paddy? Bố ơi, bố, đừng đi, bố ơi. Tommy, đừng quên gửi tiền về nhé. Hãy nhớ các con anh chỉ còn da bọc xương thôi đấy. Peter ơi, đừng quên uống thuốc đấy, Chúa sẽ phù hộ cho chúng ta. Larry, hãy cẩn thận với những quả bom chết người đấy. Christy, đừng có nói chuyện với đàn bà Anh đấy. Họ đầy bệnh tật đấy. Jackie, nghĩ lại đi. Chúng ta sẽ tự xoay xở được. Đừng đi, Jack-e-e, Jack-e-e, ôi, lạy Chúa, đừng đi.

Bố tôi xoa đầu chúng tôi. Bố bảo chúng tôi phải nhớ bổn phận của con chiên, và trên hết, phải nghe lời mẹ. Bố tôi đứng trước mặt mẹ tôi. Mẹ tôi ôm em Alphie trong tay. Mẹ tôi nói:

Hãy giữ gìn sức khỏe.

Bố tôi thả chiếc túi xuống ôm mẹ tôi. Họ đứng yên như thế một lát cho tới khi Alphie không chịu được bắt đầu càu nhàu. Bố tôi gật đầu, nhặt túi lên, bước lên bậc, và quay lại vẫy tay trước khi đi khuất vào trong ga.

Trở về nhà mẹ tôi nói:

Mẹ biết nghe có vẻ phung phí nhưng mẹ không quan tâm, mẹ sẽ đi nhóm bếp và pha trà nữa vì có phải ngày nào bố các con cũng đi Anh đâu.

Chúng tôi ngồi quanh bếp uống trà và khóc bởi chúng tôi không có bố ở nhà với chúng tôi nữa, cứ thế chúng tôi khóc cho tới khi mẹ tôi bảo:

Thôi, đừng khóc nữa. Bây giờ bố các con đã đi Anh rồi và chắc chắn những khó khăn của chúng ta sẽ không còn nữa.

Chắc chắn là như vậy.

Mẹ và cô Bridey ngồi bên lò sưởi trên gác hút thuốc Woodbine, uống trà, còn tôi thì ngồi dưới cầu thang nghe họ nói chuyện. Chúng tôi có bố làm việc ở nước Anh nên chúng tôi có thể mua chịu bất cứ thứ gì ở cửa hàng của bà Kathleen O’Connell và sẽ trả nợ khi món tiền đầu tiên từ nước Anh chảy về sau nửa tháng nữa. Mẹ tôi nói với cò Bridey rằng mẹ vô cùng muốn thoát khỏi cái ngõ này đến một nơi khác có cái nhà vệ sinh tử tế để chúng tôi không còn phải dùng chung nhà vệ sinh với nửa thế giới nữa. Tất cả chúng tôi sẽ có giày mới, có áo khoác và chúng tôi sẽ không đói mỗi khi đi học về nữa. Chúng tôi sẽ được ăn trứng và thịt muối vào sáng thứ Bảy và bữa tối chúng tôi sẽ được ăn giăm bông, bắp cải, và khoai tây. Chúng tôi sẽ có đèn điện và tại sao lại không chứ? Mẹ tôi nói: “Chẳng phải Frank và Malachy sinh ra dưới ánh điện ở Mỹ đó sao?”.

Tất cả những gì chúng tôi phải làm bây giờ là đợi cho hai tuần trôi qua tới khi anh chàng đưa điện tín tới gõ cửa nhà chúng tôi. Bố tôi sẽ phải ổn định công việc, phải mua quần áo lao động và phải tìm một nơi để ở, vì thế số tiền đầu tiên bố tôi gửi về sẽ không nhiều lắm, chỉ ba bảng hoặc ba bảng mười xu thôi, nhưng chẳng bao lâu chúng tôi cũng sẽ giống như những gia đình khác trong ngõ, sẽ nhận được năm bảng một tuần, sẽ trả hết nợ, sẽ mua quần áo mới, và sẽ tiết kiệm một ít để sau này cả nhà qua Anh và rồi lại tiết kiệm tiếp để lên tàu đi Mỹ. Mẹ tôi cũng sẽ tìm được một việc làm ở một nhà máy chế bom ở Anh và chỉ Chúa mới biết có bao nhiêu tiền chảy vào nhà chúng tôi. Nếu chúng tôi lớn lên mà nói giọng Anh thì mẹ tôi sẽ không vui nhưng có giọng Anh còn hơn là có một cái bụng đói.

Cô Bridey bảo cho dù một người đàn ông Ailen có giọng nào đi chăng nữa anh ta cũng không thể quên những gì người Anh đã gây ra cho chúng ta trong suốt tám trăm năm.

Chúng tôi biết ngày thứ Bảy ở ngõ của chúng tôi sẽ như thế nào. Chúng tôi biết các gia đình như gia đình Downeses luôn nhận được giấy lĩnh tiền sớm bởi vì ông Downeses là một người đàn ông chín chắn, một người biết kiềm chế, mỗi khi lĩnh lương chỉ cho phép mình uống một hoặc cùng lắm là hai cốc rượu rồi về thẳng nhà lên giường đi ngủ. Chúng tôi biết những người đàn ông như ông ấy sau khi nhận lương sẽ không chần chừ một phút chạy ngay ra bưu điện gửi tiền về nhà để người nhà khỏi mong hoặc lo lắng. Nhũng người đàn ông như ông Downeses gửi về nhũng phù hiệu RAF (Không lực Hoàng gia Anh) để con trai họ đính vào áo khoác của chúng. Chúng tôi cũng muốn có những phù hiệu đó và chúng tôi đã dặn bố tôi nhớ gửi cho anh em tôi mỗi đứa một chiếc.

Chúng tôi hau háu nhìn những anh chàng đưa điện tín lượn xe đạp vào ngõ. Họ là những anh chàng đưa điện tín hạnh phúc nhất bởi vì tiền thưởng mà họ nhận được trong ngõ này nhiều hơn ở những khu phố sang trọng của những người giàu có.

Những gia đình nhận được giấy lĩnh tiền sớm trông rất hài lòng. Họ sẽ có cả ngày thứ Bảy để hưởng thụ. Họ sẽ đi mua sắm, họ sẽ đi ăn uống, họ sẽ có cả ngày để nghĩ xem họ sẽ làm gì vào buổi tối và đó cũng là một việc rất tuyệt bởi tối thứ Bảy mà bạn có vài shilling trong túi thì bạn sẽ có tối ngọt ngào nhất trong tuần.

Có những gia đình chẳng tuần nào nhận được giấy lĩnh tiền cả và bạn có thể biết điều đó qua vẻ mặt lo âu của họ. Hai tháng nay thứ Bảy nào bà Meagher cũng đợi ở cửa. Mẹ tôi nói rằng bà ấy sẽ hổ thẹn cả đời vì cứ đợi ở cửa như thế. Tất cả đám con nhà bà Meagher đều chơi trong ngõ và ngóng bưu tá đến. Chúng gọi to: “Này, anh đưa điện tín, anh có gì cho nhà Meagher không? Và khi anh chàng đưa điện tín trả lời rằng không có chúng gặng hỏi tiếp: “Anh chắc chứ?” và anh chàng đưa điện tín khẳng định: “Tất nhiên, chắc. Tớ biết chắc tớ có gì trong túi mà”.

Ai cũng biết khi chuông nhà thờ báo sáu giờ là bưu tá không đến nữa và bóng tối mang theo nỗi thất vọng tới cho nhũng người đàn bà và nhũng đứa trẻ trong ngõ.

Anh bưu tá, anh làm ơn xem lại giúp xem, làm ơn đi. Tôi xem kỹ rồi. Không có gì cho bà đâu. Ôi, lạy Chúa, xin hãy xem kỹ một lần nữa đi. Chúng tôi là người nhà Meagher. Anh xem kỹ chưa? Tôi biết thừa tên bà là Meagher và tôi đã xem kỹ rồi.

Bọn trẻ nhà Meagher bám lấy xe đạp của anh chàng đưa điện tín và anh ta vừa đá chúng ra vừa quát:

Lạy Chúa, chúng mày có lui ra không?

Buổi chiều khi chuông nhà thờ điểm sáu tiếng là ngày kết thúc. Những người nhận được giấy lĩnh tiền được hưởng bữa tối của mình dưới ánh điện lấp lánh còn những người không có giấy lĩnh tiền thì đành thắp nến và xem xem liệu Kathleen O’Connell có cho họ mua chịu bánh mì và trà cho đến tuần tới khi mà với sự cứu giúp của Chúa và Đức Mẹ lòng lành của Người, giấy chuyển tiền sẽ tới.

Ông Meehan ở đầu ngõ sang Anh cùng một đợt với bố tôi và khi người bưu tá dừng lại trước cửa nhà Meehan chúng tôi chắc mẩm thế nào chúng tôi cũng là người tiếp theo. Mẹ tôi đã mặc sẵn áo khoác để đi tới bưu điện lĩnh tiền nhưng mẹ sẽ vẫn ngồi yên trên ghế cho tới khi cầm giấy lĩnh tiền trong tay. Anh chàng đưa điện tín đi sâu vào trong ngõ và vòng vào trước cửa nhà Downeses. Anh ta đưa cho họ giấy lĩnh tiền rồi nhận tiền thưởng và quay xe hướng ra đầu ngõ. Malachy gọi: “Anh đưa điện tín ơi, anh có gì cho nhà McCourt không? Đến ngày của nhà em rồi mà”. Anh chàng đưa điện tín lắc đầu và đạp xe đi.

Mẹ tôi thở ra một hơi khói thuốc. Chúng tôi có cả ngày mặc dầu chúng tôi muốn đi mua hàng sớm trước khi cửa hàng nhà Barry bán hết giăm bông loại ngon. Mẹ tôi không thể rời chiếc ghế bên lò sưởi. Chúng tôi không thể rời khỏi ngõ vì sợ nhỡ bưu tá đến không thấy ai ở nhà. Nếu vậy chúng tôi sẽ phải đợi đến thứ Hai mới lĩnh được tiền và thế là cả dịp cuối tuần hỏng bét. Chủng tôi sẽ phải nhìn nhà Meehan và những người khác hớn hở trong những bộ quần áo mới, phải nhìn họ khệ nệ khuân về nhà họ nào là trứng, khoai tây, xúc xích và nhìn họ kéo nhau đi xem phim mà thèm. Không, chúng tôi không thể rời khỏi ngõ dù chỉ vài xăng ti cho tới khi bưu tá mang giấy chuyển tiền tới. Mẹ tôi bảo: “Đừng lo, nhiều anh đưa điện tín phải đi ăn trưa và chắc chắn họ sẽ phải chạy giấy rất khẩn trương vào khoảng giữa hai giờ và sáu giờ”. Chúng tôi không có gì phải lo cho tới sáu giờ. Chúng tôi chặn tất cả những anh chàng đưa điện tín lại. Chúng tôi nói rằng chúng tôi là người nhà McCourt, rằng chúng tôi đang đợi giấy lĩnh tiền đầu tiên bố tôi gửi từ Anh về, rằng số tiền khoảng ba bảng hoặc hơn thế một chút, rằng có thể người ta quên không điền tên hoặc địa chỉ của chúng tôi vào một cái giấy chuyển tiền trị giá ba bảng, chúng tôi hỏi nhũng người bưu tá đã kiểm tra kỹ hay chưa. Một anh chàng đưa đưa điên tín bảo rằng khi nào về tới bưu điện anh ta sẽ kiểm tra xem. Anh ta nói anh ta biết cái cảm giác đợi giấy nhận tiền bởi chính bố anh ta là một kẻ uống hết cả cặn rượu ở Anh và chẳng bao giờ gửi về nhà được một xu. Mẹ tôi ở trong nhà nghe thấy hết và mẹ tôi bảo chúng tôi rằng không bao giờ được nói như vậy về bố của chúng tôi. Gần sáu giờ cũng chính anh chàng đưa đưa điện tín ấy lại quay lại và anh ta bảo với chúng tôi rằng anh ta đã hỏi bưu điện rồi nhưng họ trả lời là không có gì cho chúng tôi hết. Mẹ tôi quay mặt vào nhìn đăm đăm xuống những tàn tro trong bếp và hít hơi cuối cùng từ điếu thuốc Woodbine đã cháy đến đầu ngón tay của mẹ. Michael mới lên năm không phải đã mười một tuổi như tôi nên nó không hiểu gì cứ chạy đến hỏi mẹ rằng chúng tôi có ăn tối với món cá tẩm bột chiên không bởi nó đói rồi. Mẹ tôi nói: “Tuần sau, tuần sau, con ạ”. Và thế là em tôi mang cái mặt ủ rũ ra ngõ chơi tiếp.

Bạn không biết phải làm gì với mình khi mà giấy lĩnh tiền đầu tiên không đến. Bạn không thể ở ngoài ngõ chơi với các em mình cả đêm được bởi tất cả những người khác đều đã về nhà và bạn không thể không cảm thấy xấu hổ khi phải ở ngoài ngõ và bị tra tấn bởi mùi thức ăn thơm nức tỏa ra khắp ngõ. Bạn không muốn nhìn ánh điện hắt ra từ các ô cửa sổ và không muốn nghe bản tin từ đài của nhà người khác. Bà Meagher và đám con của bà ấy không thò mặt ra ngoài và trong bếp nhà họ chỉ có ánh sáng lờ mờ của một ngọn nến. Họ cũng xấu hổ. Các tối thứ Bảy họ ở yên trong nhà, thậm chí sáng Chủ nhật họ không đi lễ Mixa. Cô Bridey nói với mẹ rằng bà Meagher luôn xấu hổ vì những bộ quần áo rách rưới họ mặc trên người và rất tuyệt vọng khi phải tới Bệnh xá miễn phí xin giúp đỡ. Mẹ tôi bảo đó là điều tồi tệ nhất có thể xảy đến với một gia đình. Nó tồi tệ hơn cả việc tới hội thánh Vincent de Paul, tồi tệ hơn cả việc đi ăn xin trên đường phố. Đó là điều cuối cùng bạn làm để giữ cho các con bạn khỏi phải vào trại trẻ mồ côi.

Tự nhiên tôi đau ở trên mũi khoảng giữa hai lông mày và chỗ đó sưng đỏ, ngứa ngáy. Mẹ tôi bảo tôi không được động vào chỗ đau đó và không được để nước rớt vào chỗ đó nếu không nó sẽ lan ra. Nếu bạn bị đau tay thì mẹ tôi cũng sẽ bảo bạn đừng động vào chỗ đau và đừng để nước rơi vào nếu không chỗ đau sẽ lan ra. Tôi nghe lời mẹ tôi nhưng chỗ đau đó vẫn lan sang cả hai mắt tôi khiến mắt tôi đỏ sọc, đùn rỉ và dính chặt rất khó mở mỗi khi tôi ngủ dậy. Mắt tôi dính đến nỗi sáng ra tôi phải dùng tay để mở lông mi và mẹ tôi phải dùng một cái giẻ ẩm để thấm mắt cho tôi. Lông mi của tôi rụng hết nên vào những ngày trời có gió, bụi ở Limerick tha hổ bay vào mắt tôi. Bà tôi bảo tôi có đôi mắt trụi và bà bảo đó hoàn toàn là do lỗi ở tôi, rằng tất cả những gì xảy ra với đôi mắt của tôi đều do tôi cứ ngồi dưới cột đèn ở đầu ngõ chúi mũi vào những quyển sách bất kể dưới thời tiết như thế nào và nếu Malachy không thôi đọc sách thì điều tương tự cũng sẽ xảy ra với nó. Bà tôi nói:

Xem đấy, cái thằng Michael nứt mắt ra cũng lại chúi mũi vào những quyển sách rồi đấy, thằng bé đáng lẽ phải chạy chơi như một đứa trẻ khỏe mạnh chứ. Sách, sách, sách, rồi chúng mày sẽ làm hỏng hết mắt cho mà xem.

Bà tôi ngồi uống trà với mẹ tôi và tôi nghe thấy bà thì thầm với mẹ:

Phải cho thằng bé một bãi nước bọt của thánh Anthony. Gì cơ ạ? Một bãi nước bọt của người mẹ nhịn ăn vào buổi sáng chứ gì nữa. Hãy lén đi đến chỗ nó khi nó còn ngủ và nhổ vào mắt nó một bãi nước bọt như thế mắt nó sẽ khỏi thôi.

Nhưng tôi luôn thức trước mẹ tôi. Tôi cố làm cho mắt mình mở trước khi mẹ tôi trở dậy. Tôi có thể nghe tiếng bước chân của mẹ tôi trên sàn nhà và khi mẹ tôi tới bên cạnh tôi định nhổ bọt tôi vội mở mắt ngay. Mẹ tôi lẩm bẩm: “Chúa ơi, thằng bé mở mắt rồi”.

Con nghĩ mắt con đỡ rồi. Thế thì tốt - Mẹ tôi nói và đi ngủ tiếp.

Mắt tôi không khỏi và mẹ tôi phải đưa tôi tới Bệnh xá miễn phí nơi những người nghèo tìm tới để được khám bác sĩ và được phát thuốc miễn phí. Đó là một nơi cung cấp sự giúp đỡ nhân đạo khi bạn bị mất cha, hay có một người cha bỏ rơi gia đình hay khi gia đình bạn không có thu nhập gì cả và cũng không được nhận tiền trợ cấp.

Có những chiếc ghế băng được đặt bên ngoài các phòng khám. Những chiếc ghế ấy luôn chật ních những người ngồi nói về bệnh tật. Những ông già và những bà già ngồi trên ghế rên rỉ và than vãn, những đứa trẻ nhỏ thì kêu khóc inh cả lên còn những bà mẹ thì luôn miệng dỗ dành: “Nín đi, nín đi nào, con ngoan”, ở đó một cái bục với một cái bàn quầy cao đến ngang ngực. Khi bạn muốn gì đó bạn phải đứng xếp hàng trước bục đợi đến lượt gặp ông Coffey hoặc ông Kane. Những người đàn bà xếp hàng trước bục cũng giống như những người đàn bà xếp hàng ở hội thánh Vincent de Paul. Họ mang khăn choàng và họ phải nể ông Coffey và ông Kane bởi nếu không thì họ sẽ được các ông ấy bảo về nhà đợi đến tuần tới trong khi bạn đang cần giúp đỡ vào chính lúc này. Ông Coffey và ông Kane thích được cười trước những người đàn bà đến xin giúp đỡ. Họ sẽ quyết định bạn có đủ tuyệt vọng để được nhận sự trợ giúp hay không hoặc bạn đã ốm đến mức phải gặp bác sĩ hay chưa. Bạn phải kể tình cảnh và bệnh tình của bạn trước mặt mọi người và họ thường được một mẻ cười vì những gì bạn nói ra. Họ sẽ nói:

- Vậy bà muốn gì, bà O’Shea? Một giấy khám bệnh, đúng không nhỉ? Vậy rắc rối của bà là gì? Đau ở đâu à? Trúng gió chăng? Hay ăn quá nhiều bắp cải? Ô, bắp cải sẽ tự nó chữa trị thôi mà.

Và họ cười phá lên, bà O’Shea cũng cười và tất cả những người đàn bà khác có mật ở đó cũng cười và không quên khen ông Coffey và ông Kane là những người đàn ông vui tính.

Ông Coffey nói:

Nào, bà kia, tên bà là gì? Angela McCourt, thưa ông. Bà có chuyên gì? Là con trai tôi kia ạ. Cháu nó bị đau mắt. Ôi, lạy Chúa, quả đúng như vậy. Đôi mắt thằng bé trông tuyệt vọng thật. Chúng giống hệt như hai ông mặt trời vậy. Người Nhật có thể lấy để lên cờ của họ được đấy, ha ha ha. Bà đã đổ axít vào mặt thằng bé hay sao mà mắt nó ra nông nỗi ấy? Mắt cháu nó bị viêm thưa ông. Năm ngoái cháu nó bị thương hàn và bây giờ thì lại bị thế này. Được rồi, được rồi, chúng tôi không cần nghe chuyện của cả đời thằng bé. Đây, bà cầm giấy này tới gặp bác sĩ Troy.

Hai chiếc ghế băng bên ngoài phòng khám của bác sĩ Troy đầy những bệnh nhân đang chờ khám. Mẹ tôi ngồi cạnh một bà già bị sưng mũi. Bà ấy nói:

Tôi đã thử các kiểu rồi, tất cả các kiểu chữa mẹo mà Chúa trời mách. Tôi tám mươi ba tuổi rồi và tôi muốn xuống mồ với một cơ thể lành lặn. Chẳng lẽ tôi muốn đi gặp Chúa của tôi với một cái mũi lành lặn cũng là đòi hỏi quá đáng sao? Còn cô, cô bị làm sao? Con trai cháu. Thằng bé bị đau mắt. Ôi, xin Chúa che chở cho chúng con, nhìn mắt thằng bé kìa. Tôi chưa thấy mắt ai đau nặng như mắt thằng bé. Tôi chưa thấy mắt ai đỏ như mắt nó. Mắt cháu nó bị viêm mà. Chắc chắn bài thuốc này chữa khỏi được cho nó. Cô phải kiếm được màng thai nhi. Đó là cái gì vậy? Đứa trẻ nào lúc sinh ra cũng có cái màng đó trên đầu, một thứ có phép màu đấy. Dùng một cái màng và chụp lên đầu thằng bé vào một ngày có dính số ba, bảo thằng bé nín thở trong ba phút cho dù cô phải tát nó đi nữa, vẩy nước thánh từ đầu đến chân nó ba lần và mắt nó sẽ sáng như trước. Cháu phải kiếm một cái màng như thế ở đâu ạ? Bà đỡ nào mà chả có. Thứ đó chữa được đủ các loại bệnh.

Mẹ tôi bảo mẹ sẽ nói chuyên với y tá O’Halloran xem liệu cô ấy có thể để cho chúng tôi một cái màng thai nhi hay không.

Bác sỹ Troy khám mắt cho tôi và nói:

Đưa thằng bé này nhập viện ngay. Đưa nó tới khoa mắt ở City Home. Giấy giới thiệu đây. Cháu nó bị làm sao, thưa bác sĩ? Viêm kết mạc rất nặng, trường hợp nặng nhất tôi từng gặp và nó còn mắc bệnh gì đó tôi chưa thể nói chính xác được. Nó cần được một bác sĩ chuyên khoa mắt khám ngay. Cháu sẽ phải nằm viên bao lâu, thưa bác sĩ? Chỉ có Chúa mới biết. Đáng lẽ phải đưa nó đi khám từ lâu rồi mới phải.

Phòng đó ở khoa mắt có hai mươi giường bệnh và có những người đàn ông và những đứa con trai quấn băng quanh đầu, đeo kính dày hoặc đắp gạc trên mắt. Mấy người lần đi giữa các giường vừa đi vừa chọc gậy lách cách để dò đường. Có một người đàn ông luôn kêu khóc rằng anh ta không bao giờ còn nhìn được nữa, rằng anh ta còn trẻ, con anh ta còn bé mà anh ta thì chẳng bao giờ còn được nhìn thấy chúng nữa. Anh ta gào lên:

Jésus Christ, ôi, Jésus Christ, và các y tá sửng sốt trước cách anh ta gọi tên Chúa. Thôi ngay đi, Maurice, đừng có báng bổ Chúa như vậy. Anh còn có sức khỏe. Anh còn sống. Tất cả chúng ta ai mà chẳng gặp rắc rối cơ chứ. Thôi đi, hãy nghĩ tới những đau đớn của Chúa trên cây thánh giá, hãy nghĩ đến những chùm gai trên đầu Người, nghĩ đến nhũng cái đinh đâm vào chân tay Người, và cả những vết thương khác mà Người phải chịu đựng.

Maurice nói:

Ôi, Jésus, nhìn xuống mà rủ lòng thương con đi. Xơ Bemadette cảnh cáo nếu anh ta không cẩn thận cái mồm thì họ sẽ chuyển anh ta đến phòng cách ly.

Vào buổi sáng tôi phải đi xuống tầng dưới để nhỏ thuốc. Cô y tá ra lệnh: “Ngồi lên chiếc ghế cao kia và cầm lấy cái kẹo này”. Ông bác sĩ cầm trên tay một cái lọ có chứa một thứ chất lỏng màu nâu. Ông ấy bảo tôi ngửa đầu ra sau, bảo tôi mở mắt và ông ấy nhỏ thứ thuốc màu nâu ấy vào mắt tôi và chao ôi, thứ thuốc đó giống như một ngọn lửa xuyên vào óc tôi vậy. Cô y tá nói: “Mở mắt bên kia ra nào, ngoan nào”. Và cô phải dùng tay vành mắt tôi ra cho ông bác sĩ đưa lửa xuyên vào óc tôi lần nữa. Cô y tá lau thuốc rơi trên má cho tôi và bảo tôi đi theo cô ấy lên gác nhưng tôi gần như không nhìn thấy gì và tôi chỉ muốn áp mặt xuống một dòng sông băng. Bác sỹ bảo tôi: “Nào, đi mau đi, hãy ra dáng đàn ông nào, hãy làm một chiến binh dũng cảm”.

Lần bước trên những bậc thang tôi thấy cả thế giới chỉ là một màu nâu lờ mờ. Những bệnh nhân khác đều đang ăn tại giường và khay thức ăn của tôi cũng được để sẵn ở đó rồi nhưng tôi không muốn ăn chút nào vì đầu tôi vẫn như có lửa đang cháy bên trong. Tôi ngồi xuống giường và một cậu bé đi đến trước mặt tôi nói: “Cậu không muốn ăn à? Vậy để tớ ăn cho” và cậu ta nhấc khay thức ăn của tôi lên mang đi.

Tôi cố nằm xuống giường nhưng một y tá nói: “Không, không, không được nằm nửa ngày nửa buổi thế này. Cậu đâu có bị bệnh nặng lắm đâu”.

Tôi phải ngồi với đôi mắt nhắm chặt và mọi thứ đối với tôi chỉ toàn màu nâu và đen, đen và nâu và tôi cứ chắc là tôi đang mơ bởi, Chúa ơi, tôi đang ngồi thì nghe thấy một giọng nói quen quen cất lên bên tai tôi:

Đó chẳng phải là anh bạn nhỏ năm ngoái bị thương hàn đó sao, Francis bé nhỏ. Ôi, trăng là một con thuyền bị lật giữa biển mây, cậu đấy sao, Francis, tôi đã nghỉ làm ở cái bệnh viện Fever đó rồi, ơn Chúa, bởi ở đó có đủ các mầm bệnh và cậu sẽ chẳng bao giờ chắc chắn được rằng cậu không mang về nhà cho vợ cậu những mầm bệnh dính trên quần áo, Francis, hai mắt cậu biến thành màu nâu cả rồi chứ gì? Cháu bị viêm, Seamus ạ. Rồi, cậu sẽ khỏi trước khi cậu lấy vợ thôi mà, Francis. Mắt cậu cũng cần được luyện đấy. Chớp mắt rất có lợi đấy. Tôi có một ông chú bị bệnh về mắt và chỉ nhờ chớp mắt mà ông ấy nhìn tốt hơn đấy. Mỗi ngày ông ấy tập chớp mắt một giờ và quả là cuối cùng mắt ông ấy khỏi thật.

Tôi muốn hỏi thêm về chuyên chớp mắt nhưng Seamus nói:

Francis, cậu có nhớ bài thơ đó không, Francis, bài thơ tuyệt vời của Patricia ấy?

Ông ấy đứng giữa lối đi trong phòng chống cán chổi đọc bài thơ và tất cả những bệnh nhân trong phòng không ai kêu rên nữa còn các y tá và các xơ thì đứng lại lắng nghe Seamus. Khi ông ấy đọc xong cả bài thơ, mọi người nhất loạt vỗ tay hoan hô và thế là Seamus nói với cả thế giới rằng ông ấy rất thích bài thơ đó, rằng ông ấy sẽ giữ nó mãi trong đầu cho dù ông ấy đi đâu và rằng nếu không phải vì Frank McCourt và căn bệnh thương hàn kia cùng Patricia Madigan bị mắc bệnh bạch hầu đã về bên Chúa thì ông ấy sẽ không bao giờ biết bài thơ ấy và thê là nhờ Seamus mà tôi trở nên nổi tiếng khắp khoa mắt của bệnh viện City Home.

Mẹ tôi không thể đến bệnh viện thăm tôi mỗi ngày được bởi vì viện cách nhà tôi rất xa. Không phải lúc nào mẹ tôi cũng có tiền để đi xe buýt mà đi bộ thì mẹ tôi lại bị đau chân. Mẹ tôi bảo mắt tôi trông đã đỡ hơn mặc dù bạn không thể nói gì khi mà mắt tôi lúc nào cũng đầy thứ thuốc nhỏ mắt màu nâu ấy, thứ thuốc có mùi và có màu như iốt và nếu đó là iốt thật thì chắc nó phải bốc cháy rồi. Tuy nhiên, người ta vẫn nói thuốc đắng giã tật mà. Một hôm trời ấm áp mẹ tôi xin phép được đưa tôi đi dạo quanh sân bệnh viện và thật tình cờ tôi nhìn thấy ông Timoney đang đứng dựa vào bức tường ở khu dành cho người già nhìn lên trời. Tôi muốn nói chuyện với ông ấy và tôi phải xin phép mẹ tôi bởi vì ở trong bệnh viện bạn chẳng bao giờ biết việc gì là đúng việc gì là sai.

Ông Timoney. Ai đấy?Ai hỏi ta thế này? Cháu đây, Frank McCourt, thưa ông. Francis, a, Francis. Chào ông Timoney, tôi là mẹ của cháu. Hai người thật tốt phúc. Ta chẳng có bạn bè, chẳng có họ hàng, chẳng có con Macushla nữa. Cậu làm gì ở nơi này thế, Francis? Cháu bị viêm mắt, thưa ông. Ôi, Chúa ơi, Francis, không phải là mắt. Ôi, cậu còn bé quá sao đã bị như vậy, trời ơi. Ông Timoney, ông có muốn cháu đọc cho ông không? Với đôi mắt đau ư, Francis? Ô, không, con trai ạ, hãy giữ gìn đôi mắt của cậu. Trong đầu ta đã có tất cả những gì ta cần rồi. Ta đủ thông minh để nhồi vào đầu mình nhiều thứ khi ta còn trẻ và bây giờ ta có cả một thư viện trong đầu rồi. Người Anh đã bắn chết vợ của ta. Người Ailen đánh chết con chó tội nghiệp của ta. Đó có phải là một trò đùa của thế giới này không nhỉ? Thế giới thì tồi tệ nhưng Chúa trời thì tốt - Mẹ tôi nói. Đúng thế. Chúa trời tạo ra thế giới, một thế giới tồi tệ, nhưng Chúa trời thì tốt. Chào nhé, Francis. Hãy để mắt cậu được nghỉ ngơi và khi nào khỏi mắt thì hãy nhớ đọc cho tới lúc nhắm mắt nhé. Chúng ta đã từng có những ngày vui vẻ với Jonathan Swift, đúng không, Francis? Vâng, đúng thế, thưa ông Timoney.

Mẹ tôi đưa tôi trở lại phòng bệnh. Mẹ tôi bảo tôi:

Đừng khóc vì ông Timoney, ông ấy có phải là bố của con đâu. Với lại khóc sẽ có hại cho mắt con đấy.

Mỗi tuần Seamus lại đến phòng tôi ba lần và lần nào đến ông ấy cũng mang tới một bài thơ mới ông ấy nhớ trong đầu. Ông ấy nói:

Khi cậu bảo Patricia rằng cậu không thích bài thơ về con cú và con mèo cậu đã làm cô bé buồn đấy Francis ạ. Cháu rất tiếc, Seamus. Tôi có bài thơ đó trong đầu đấy, Francis, và nếu cậu không bảo bài thơ đó ngớ ngẩn thì tôi sẽ “nói” nó cho cậu nghe. Cháu không nói thế nữa đâu.

Ông ấy đọc bài thơ đó lên và tất cả mọi người trong phòng đều thích nó. Họ muốn học thuộc và Seamus phải đọc ba lần cho đến khi cả phòng cùng đồng thanh đọc.

Rồi một hôm Seamus đến chân tay không, không mang theo chổi và tôi cứ tưởng ông ấy mang đầy một túi thơ đến cho mọi người nhưng ông ấy chỉ mỉm cười và bảo với tôi rằng ông ấy sắp đi Anh làm việc trong một nhà máy để kiếm tiền đổi đời. Ông ấy nói sẽ làm việc ở đó hai tháng rồi sẽ đón vợ ông ấy sang và có thể Chúa trời sẽ rủ lòng thương ban cho họ con cái vì ông ấy phải làm gì đó với những bài thơ ông ấy giữ trong đầu và còn gì tốt hơn là đọc chúng cho những đứa con của chính ông ấy để tưởng nhớ tới Patricia dễ thương đã chết vì bệnh bạch hầu.

Tạm biệt, Francis. Nếu tôi biết viết chữ ra hồn thì tôi sẽ viết thư cho cậu nhưng khi nào vợ tôi sang bên ấy tôi sẽ bảo vợ tôi viết cho cậu. Có lẽ tôi phải học đọc học viết thôi để con tôi không bị trêu là có một ông bố ngốc nghếch.

Tôi muốn khóc lắm nhưng bạn không thể khóc trong khoa mắt khi mà ngày nào người ta cũng bỏ công nhỏ vào mắt bạn thứ thuốc màu nâu rát như lửa ấy, nếu bạn làm vậy thì thế nào các y tá cũng nói: “Gì thế, gì thế, nam nhi kiểu gì thế”, và thế nào một xơ cũng bảo: “Thôi đi, hãy nghĩ đến những đau đớn mà Chúa của chúng ta phải chịu trên cây thánh giá, nghĩ đến những chùm gai trên đầu Người, những cái đinh đâm vào chân tay Người và cả những vết thương khác mà Người phải chịu đựng nữa”.

Tôi nằm viện đúng một tháng và mặc dầu mắt tôi vẫn chưa khỏi hẳn bác sĩ bảo tôi có thể về nhà được và rằng nếu tôi luôn nhớ rửa mật bằng xà bông và khăn sạch và chú ý bồi dưỡng bằng các thức ăn giàu dinh dưỡng như thịt bò và trứng thì chẳng bao lâu tôi sẽ có một đôi mắt sáng ngời ha ha.

Ông Downes từ nước Anh trở về vì mẹ ông ấy qua đời. Ông ấy kể với vợ mình về bố tôi. Vợ ông ấy lại đi kể với cô Bridey và cô Bridey kể lại cho mẹ tôi. Ông Downes nói rằng Malachy McCourt uống rượu như một kẻ mất trí, rằng con người ấy ném hết tiền lương của mình vào các quán rượu ở Coventry và mỗi lần uống say lại hát những bài hát phản kháng của người Ailen những bài hát mà người Anh chẳng thèm quan tâm bởi họ đã quá quen với cái cách người Ailen kêu ca về những nỗi khổ tám trăm năm của mình, nhưng họ không chịu đựng được bất cứ người nào đứng trước quán rượu lăng mạ Vua, Hoàng hậu, hai công chúa và cả Hoàng thái hậu nữa. Lăng mạ Hoàng thái hậu thì quá quắt lắm. Bà già tội nghiệp ấy đã làm gì ai bao giờ đâu cơ chứ? Lần nào Malachy cũng uống hết cả tiền thuê trọ và bị chủ trọ đuổi cổ không cho ở đến nỗi phải vào ngủ trong công viên. Malachy đúng là nỗi hổ thẹn thường trực và ông Downes mừng vì Malachy không phải là người Limerick nếu không con người ấy sẽ khiên cả cái thành phố cổ kính này phải xấu hổ. Quan chức của Coventry đang mất dần kiên nhẫn và nếu Malachy McCourt không thôi gây ra những chuyện khó chịu thì người ta sẽ đá con người ấy ra khỏi nước Anh.

Mẹ tôi bảo với cô Bridey rằng mẹ không biết phải làm gì trước những chuyện từ nước Anh, rằng trong đời mẹ chưa bao giờ cảm thấy tuyệt vọng đến thế. Mẹ tôi có thể thấy rõ Kathleen O’Connell không muốn bán chịu hàng cho mẹ tôi nữa, mẹ tôi bị bà ngoại mắng cho một trận khi mẹ hỏi vay bà một shilling, người ở hội thánh Vincent de Paul muốn biết bao giờ thì mẹ tôi ngừng đến xin họ cứu trợ khi mà mẹ có một người chồng đang làm việc ở Anh. Mẹ tôi xấu hổ vì chúng tôi phải mặc những bộ quần áo rách rưới, đi những đôi giày tồi tàn và những đôi tất thủng. Đêm mẹ tôi nằm nhắm mắt nhưng không ngủ mà chỉ mông lung nghĩ tới việc đưa bốn đứa con trai của mình vào trại trẻ mồ côi để mẹ tôi có thể đi Anh tìm một công việc gì đó để làm và đón chúng tôi sang cho chúng tôi một cuộc sống tốt hơn. 0 đó có thể có bom đạn nhưng mẹ tôi thích bom đạn hơn là cảm giác xấu hổ vì cứ phải đi cầu xin hết người này đến người khác.

Không, dù thế nào đi nữa mẹ tôi cũng không chịu nổi ý nghĩ đưa anh em tôi vào trại trẻ mồ côi. Nếu như các bạn có những trại trẻ như trại Boys ‘Town ở Mỹ với một linh mục tốt bụng như cha Spencer Tracy thì còn được nhưng bạn không bao giờ có thể tin tưởng những người ở một trại mồ côi như trại Glin những người cậy quyền đánh đập những bé trai và bỏ đói chúng không thương tiếc.

Mẹ tôi nói chẳng còn nơi nào nữa ngoài Bệnh xá miễn phí với trợ cấp công cộng và sự cứu tế và mẹ tôi sẽ hổ thẹn cả đời vì phải tới đó cầu xin người ta. Thê có nghĩa là bạn đã ở tận đầu cuối của một sợi dây thừng rồi và có lẽ chỉ hơn những người lang thang, những người ăn xin trên phố một chút thôi. Thế có nghĩa là bạn phải quỵ lụy trước ông Coffey và ông Kane và phải cảm ơn Chúa vì Bệnh xá miễn phí ở tận cuối Limerick nên mọi người trong ngõ sẽ không biết bạn đang đi xin cứu tế.

Mấy người phụ nữ mách mẹ tôi nên tới Bệnh xá miễn phí vào đầu giờ làm việc của ông Coffey và ông Kane vì vào lúc đó các ông ấy có thể vẫn còn tâm trạng dễ chịu. Nếu bạn đến vào tầm giữa buổi trở đi khi mà hai ông ấy đã gặp nhiều đàn ông đàn bà và trẻ con ốm yếu thì có lẽ họ sẽ cáu kỉnh với bạn. Mẹ tôi sẽ đưa chúng tôi đi cùng để chứng minh rằng mẹ tôi có bốn đứa con đang cần ăn uống. Mẹ tôi đánh thức chúng tôi dậy sớm và lần đầu tiên trong đời mình chúng tôi được mẹ bảo đừng rửa mặt, đừng chải đầu, và hãy mặc bộ quần áo nào rách rưới nhất. Mẹ tôi bảo tôi rụi mắt cho mắt đỏ lên bởi ở Despensary trông bạn càng tệ thì bạn càng đáng thương và càng có cơ hội nhận được sự cứu trợ. Mẹ tôi phàn nàn rằng trông Malachy và Michael khỏe mạnh quá và bạn sẽ không khỏi thắc mắc tại sao vào đúng cái hôm ấy chúng lại không có những cái đầu gối đóng vảy hay những vết thâm tím và những vết sứt xước như chúng vẫn có thường xuyên. Nếu chúng tôi gặp người trong ngõ hoặc những người quen ở ngoài phố thì chúng tôi không được phép nói với họ chúng tôi đang đi đâu. Không nói cho cả thế giới biết và đợi bà tôi phát hiện ra chuyện chúng tôi đi xin cứu tế mẹ tôi cũng đủ xấu hổ lắm rồi.

Khi chúng tôi đến Despensary, ở đó đã có nhiều người đợi ở bên ngoài. Có những bà mẹ ôm con giống như mẹ tôi và có những đứa bé bé như Alphie, và có những đứa trẻ biết chạy chơi như chúng tôi. Những bà mẹ vừa ôm những đứa bé chống lạnh cho chúng vừa hét những đứa đang chạy chơi để ngăn chúng không chạy ra đường ngộ nhỡ xe đâm phải. Những ông già và những bà già đứng dựa vào tường nói chuyện với nhau hoặc im lặng. Mẹ tôi bảo chúng tôi phải ở quanh đấy không được chạy lung tung. Chúng tôi đợi khoảng nửa tiếng thì cánh cửa lớn mở ra. Một người đàn ông bảo chúng tôi vào bên trong và xếp hàng trước bục, rằng ông Coffey và ông Kane còn đang uống trà. Một phụ nữ phàn nàn:

Hai ông ấy không thể uống mau lên hay sao, các con tôi sắp chết cóng đến nơi rồi.

Người đàn ông kia nói bà ấy là người gây phiền toái nhưng lần này ông ấy sẽ cho qua không ghi tên bà ấy bởi trời quả là lạnh thật nhưng ông ta bảo nếu bà ấy kêu ca thêm một lời nào nữa là bà ấy sẽ phải hối tiếc.

Ông Coffey và ông Kane đi đến ngồi tại chiếc bàn quầy và không để ý gì đến những người đang chờ đợi họ. Ông Kane đeo cặp kính của ông ấy vào, gỡ chúng ra, lau đi lau lại hai mắt kính, lại đeo kính vào, và nhìn lên trần nhà. Ông Coffey đọc báo, ghi chép gì đó, rồi đưa tờ báo cho ông Kane. Họ thì thầm với nhau. Họ nhẩn nha. Họ không nhìn chúng tôi.

Rồi ông Kane gọi người đầu tiên:

Tên ông là gì? Timothy Creagh, thưa ông. Creagh, ha? Một cái tên cổ hay của Limerick đây. Vâng, thưa ông. Ông cần gì ông Creagh? Vâng, dạ dày của tôi lại đau nên tôi muốn được bác sĩ Feeley khám cho, thưa ông. Ô, ông Creagh, ông có chắc là không phải rượu đã làm ông đau lại không? Ô, không phải do rượu đâu, thưa ông. Từ lâu tôi không đụng đến một giọt rượu nào. Vợ tôi cũng ốm nặng và tôi phải chăm sóc bà ấy. Trên thế giới này có nhiều kẻ lười biếng lắm. Ông Creagh ạ. Và ông Kane nhìn xuống nói với những người đang xếp hàng. Các ông bà có nghe thấy không? Có nhiều kẻ lười biếng lắm, đúng không?

Và những người đứng xếp hàng đồng thanh:

Đúng thế, thưa ông Kane, nhiều kẻ lười biếng lắm.

Ông Creagh nhận giấy khám bác sĩ, những người xếp hàng đứng nhích lên và ông Kane sắp sửa hỏi đến mẹ tôi.

Bà cần sự cứu tế phải không? Vâng, thưa ông Kane. Thế chồng bà đâu? Chồng tôi đang ở Anh, nhưng... Ở Anh ư? Vậy tiền gửi về hàng tuần đâu, những món tiền năm bảng to ấy? Từ khi đi sang đó chồng tôi chưa gửi về cho chúng tôi một xu nào, thưa ông Kane. Thật ư? Ô, chúng ta biết tại sao, đúng không? Chúng ta biết những người đàn ông Ailen đến Anh để làm gì. Chúng ta biết có người nhìn thấy vài người đàn ông Ailen chơi bời cùng với bọn gái điếm Piccadilly, đúng không?

Ông ta nhìn xuống những người đứng xếp hàng và những người đó biết rằng họ phải nói:

Đúng, thưa ông Kane, và họ biết họ phải nặn ra những nụ cười thậm chí phải cười to nếu không đến khi họ lên bục họ sẽ gặp khó khăn. Họ biết ông Kane sẽ đẩy họ sang cho ông Coffey mà ông Coffey thì nổi tiếng là người hay nói không.

Mẹ tôi nói với ông Kane rằng bố chúng tôi đang ở Convetry và nơi ấy cách xa Piccadilly và ông Kane bỏ kính xuống nhìn mẹ tôi trừng trừng:

Gì cơ? Chúng ta đang có một bất đồng nhỏ ở đây chăng? Ô, không, thưa ông Kane. Tôi muốn bà biết rằng, chính sách ở đây không cho phép những phụ nữ có chồng đang ở Anh được hưởng cứu tế. Tôi muốn nói cho bà biết rằng bà đang giật miếng bánh từ miệng của những người đáng được nhận bánh hơn. Ô, vâng. Thưa ông Kane. Tên bà là gì nhỉ? McCourt, thưa ông. Đây không phải là một cái tên Limerick. Do đâu mà bà có cái tên này? Từ chồng tôi, thưa ông. Chồng tôi là người miền Bắc. Chồng bà là người miền Bắc mà lại để bà đến đây xin cứu tế từ nước Ailen Tự Do ư? Chẳng phải đây là điều chúng ta đã đấu tranh ư? Tôi không biết, thưa ông. Tại sao bà không đi đến Belfast và hỏi xem những người đàn ông của Orange có thể làm gì cho bà, hả? Tôi không biết, thưa ông. Bà không biết. Tất nhiên bà không biết. Trên thế giới này có nhiều cái gọi là không biết lắm.

Ông ta nhìn xuống những người đứng xếp hàng:

Tôi nói rằng trên thế giới này có nhiều cái gọi là không biết lắm.

Và những người xép hàng trước bục gật đầu đồng thanh:

Đúng thế, thưa ông.

Ông ta thì thầm gì đó với ông Coffey và cả hai người cùng nhìn mẹ tôi, họ nhìn anh em tôi. Cuối cùng ông ấy nói rằng mẹ tôi có thể hưởng sự cứu tế nhưng nếu mẹ tôi nhận được dù chỉ một xu bố tôi gửi về thì mẹ tôi không được kêu ca gì hết mà phải gửi trả lại tiền cứu tế cho Bệnh xá miễn phí. Mẹ tôi hứa là mẹ tôi sẽ làm như họ nói và chúng tôi ra về.

Chúng tôi theo mẹ đến cửa hàng Kathleen O’Connell để lấy trà và bánh mì cùng một ít than bùn để đun. Chúng tôi trèo lên gác và nhóm bếp ở trên đó để pha trà. Tất cả chúng tôi im lặng, thậm chí cả Aphie cũng vậy, bởi chúng tôi biết ông Kane đã làm gì mẹ tôi.

10

Thời tiết ở Ailen lạnh và ẩm ướt nhưng chúng tôi ở cả trên gác. Mẹ tôi bảo rằng chúng tôi nên mang bức tranh Giáo hoàng lên trên gác treo ở gần cửa sổ. Dù sao Giáo hoàng cũng là một người bạn của dân lao động, ông ấy là người Ý mà người Ý thì ưa thời tiết ấm áp. Mẹ tôi ngồi bên bếp, người khẽ run, và chúng tôi biết khi mẹ không thèm động đến một điếu thuốc có nghĩa là có gì đó rất tệ. Mẹ tôi nói mẹ rét và mẹ muốn uống thứ gì đó chua, một cốc nước chanh chẳng hạn. Nhưng trong nhà chúng tôi không còn một xu, thậm chí buổi sáng còn không có bánh mì để ăn. Mẹ tôi uống trà và đi nằm.

Cả đêm giường của chúng tôi cứ chốc chốc lại cọt kẹt vì mẹ tôi trở mình liên tục và mẹ làm chúng tôi không thể ngủ được vì thỉnh thoảng lại rên rỉ đòi uống nước. Sáng ra mẹ tôi không dậy mà nằm đó run và rên, và tất cả chúng tôi đều im lặng. Nếu mẹ tôi không dậy thì tôi và Malachy sẽ bị muộn học. Nhiều giờ trôi qua mẹ tôi vẫn không dậy và khi tôi biết đã quá giờ vào lớp rồi tôi bắt đầu nhóm bếp đun ấm nước. Mẹ tôi vật vã đòi uống nước chanh nhưng tôi chỉ có thể đưa cho mẹ một cốc nước lọc. Tôi hỏi mẹ tôi có muốn uống trà không và mẹ tôi phản ứng như thể một người điếc vậy. Mật mẹ tôi đỏ bừng và thật lạ là mẹ tôi chẳng nhắc gì tới thuốc lá.

Anh em tôi ngồi lặng im bên bếp, Malachy, Michael, Alphie, và tôi. Chúng tôi uống trà còn Alphie thì nhai mẩu bánh mì chấm đường cuối cùng. Nó quệt tay làm đường dính lên mũi lên má khiến chúng tỏi buồn cười. Nhưng chúng tôi không thể cười to nếu không mẹ tôi sẽ dậy bắt tôi và Malachy đi học và chúng tôi sẽ bị phạt đến chết mất vì tội đi học muộn. Chúng tôi không cười lâu được, không còn bánh nữa mà chúng tôi thì đói, cả bốn anh em tôi đều đói. Chúng tôi không được bà Kathleen bán chịu hàng cho nữa. Chúng tôi cũng không thể bén mảng đến gần bà tôi được. Hễ trông thấy mặt chúng tôi là bà tôi lại mắng mỏ chúng tôi vì bố tôi là người miền Bắc và vì bố tôi ở Anh không gửi một xu nào về cho mẹ con tôi. Bà tôi nói chúng tôi có thể chết đói vì sự thiếu quan tâm của bố tôi. Bà tôi bảo như thế mẹ tôi sẽ được một bài học vì ai bảo mẹ tôi lại đi lấy một người đàn ông miền Bắc, một người tính khí kỳ quặc.

Tuy nhiên, tôi sẽ phải thử đến cửa hàng của bà Kathleen O’Connell một lần nữa. Tôi sẽ nói với bà ấy rằng mẹ tôi đang ốm, các em tôi đang đói và chúng tôi rất muốn có một ít bánh mì.

Tôi đi giày vào và chạy băng qua các con phố để giữ người tôi khỏi cóng bởi thời tiết tháng Hai sương giá. Nhìn qua những ô cửa sổ bạn có thể thấy được cảnh ấm cúng bên trong những căn bếp nơi có lò sưởi ấm, nơi mọi thứ đều ánh lên dưới ánh điện, nơi có những chiếc cốc, những chiếc khay được đật trên những chiếc bàn cùng với những đĩa bánh cắt lát và những bình mứt bình bơ và chỉ cần ngửi mùi trứng và mùi giăm bông tỏa ra từ những ô cửa ấy cũng đủ làm bạn ứa nước miếng rồi và còn cảnh các gia đình quây quần với những bà mẹ đeo tạp dề bận rộn nấu ăn hoặc rửa bát và dù Chúa Jésus từ trên tường nhìn xuống với dáng vẻ buồn bã nhưng họ vẫn hạnh phúc vì có thức ăn ngon, có điện sáng và vì họ vẫn là những tín đồ ngoan đạo.

Tôi cố tìm trong đầu một bài hát nhưng tôi chỉ thấy tiếng rên rỉ đòi uống nước chanh của mẹ tôi mà thôi.

Nước chanh. Có một xe chở hàng vừa rời quán South bỏ lại bên ngoài quán những sọt đựng những chai bia cùng những chai nước chanh và trên phố lúc ấy không có một bóng người. Trong khoảng hai giây tôi đã lấy được hai chai nước chanh thủ vào trong áo và lại bước đi thong thả như không.

Bên ngoài cửa hàng của bà Kathleen O’Connell có một xe chở bánh mì. Cửa sau của xe hàng để mở và tôi có thể nhìn rõ hơi bánh mì nóng bốc ra từ đó. Người lái xe đang ở trong cửa hàng uống trà với bà Kathleen và chẳng khó khăn gì tôi cũng kiếm được cho mình một ổ bánh mì nóng. Thật không phải chút nào khi lấy cắp của bà Kathleen O’Connell vì bà ấy luôn tử tế với chúng tôi nhưng nếu tôi vào cửa hàng hỏi xin bánh thì bà ấy sẽ nổi giận và mắng rằng tôi đã làm hỏng bữa uống trà sáng của bà ấy trong khi bà ấy luôn thích được thưởng thức trà trong yên tĩnh. Tôi giấu chiếc bánh vào trong áo và tự hứa với mình rằng khi nào đi xưng tội tôi sẽ nói ra tất cả.

Các em tôi đang ở trên giường chơi cùng những chiếc áo khoác nhưng khi nhìn thấy bánh mì một cái là chúng nhảy cả xuống đất. Chúng tôi đói qua không kịp cắt bánh mà xé thành từng miếng mà nhai. Malachy cầm chai nước chanh đặt vào môi mẹ tôi và mẹ tôi uống ừng ực cho tới khi chai nước chanh không còn một giọt. Nếu mẹ tôi thích uống thứ nước đó như vây thì tôi có thể kiếm thêm cho mẹ.

Chúng tôi cho chỗ than cuối cùng vào bếp và ngồi quanh bếp bịa ra những câu chuyện giống như bố tôi thường bịa. Tôi kể cho các em tôi nghe chuyến phiêu lưu của tôi với những chai nước chanh và chiếc bánh m