Chương 7
Có những thứ Năm bố tôi đi lĩnh tiền trợ cấp thất nghiệp ở Trung tâm Lao động và người quen trông thấy rủ bố tôi ra quán. Bố tôi bảo sẽ chỉ uống một vại thôi nhưng bao giờ cũng vậy trước khi các quán đóng cửa tất cả số tiền trợ cấp đã đi đời nhà ma và bố tôi về nhà trong tình trạng say mèm, bước không vững và gào chúng tôi dậy, bắt chúng tôi đứng xếp hàng và bắt chúng tôi thề chết cho Ailen ngay từ cơ hội đầu tiên. Bố tôi nói như vậy đấy, cơ hội đầu tiên. Tôi chín tuổi còn Malachy tám tuổi và chúng tôi thuộc tất cả các bài hát phản kháng bố tôi vẫn hát. Chúng tôi hát những đoạn trong bài hát về Kevin Barry và Roddy McCorley, bài hát Phương Tây ngủ yên, bài O’Donnell Abu, bài Những chàng trai Wexford. Chúng tôi hát và hứa chết cho Ailen bởi vì bạn không bao giờ biết được khi nào thì trong túi bố tôi còn một hoặc hai xu và nếu bố tôi cho chúng tôi một hoặc hai xu đó thì ngày hôm sau chúng tôi có thể chạy đến cửa hàng Kathleen O’Connell mua kẹo ăn. Có những đêm Michael là ca sĩ xuất sắc nhất và tiền thuộc về nó. Malachy và tôi không biết chúng tôi lên tám lên chín và thuộc tất cả các bài hát và hứa chết cho Ailen để làm gì khi mà tiền lại rơi vào tay Michael để rồi ngày hôm sau nó hí hửng nhai kẹo. Nó mới ba tuổi bọ nên có ai khiến nó chết cho Ailen đâu cơ chứ,
không ai hết, ngay cả Padraig Pease, người đã bị quân Anh bắn ở Dublin vào năm 1916 và trước khi chết đã hy vọng cả thế giới chết cùng với mình. Hơn nữa, bố của Mikey Molley nói rằng ai muốn chết cho Ailen đều là đồ con lừa. Bao nhiêu người đã chết cho Ailen từ thời kỳ đầu đến giờ và giờ đây thực trạng đất nước tốt đẹp như thế này đây.
Thật là tệ khi bố tôi tìm được việc gì cũng đánh mất nó trong ba tuần nhưng cứ một tháng bố tôi lại uống hết tiền trợ cấp một lần. Mẹ tôi chán ngán và sáng ra mẹ tôi giữ vẻ mặt khổ sở và không thèm nói với bố tôi. Bố tôi uống trà và ra ngoài đi dạo đến tận tối. Khi bố tôi trở về mẹ tôi vẫn không nói với bố tôi và không pha trà cho bố. Nếu bếp không còn lửa vì nhà hết than và không có cách gì để đun nước pha trà thì bố tôi rên mấy tiếng rồi đi lấy nước lạnh ở bình uống và chép miệng như thể ông đang uống bia. Bố tôi nói rằng nước uống tử tế là tất cả những gì một người đàn ông cần và mẹ tôi nghe thấy thế liền khịt mũi một cái. Khi mẹ tôi không nói với bố tôi không khí trong nhà thật nặng nề và lạnh lẽo và chúng tôi biết chúng tôi cũng không nên nói với bố tôi vì nếu chúng tôi mà nói với bố tôi thì thế nào mẹ tôi cũng lườm chúng tôi. Chúng tôi biết bố đã làm chuyện tồi tệ và chúng tôi biết bạn có thể làm cho một người khổ sở bằng cách không nói với người đó. Ngay cả Michael mới tí tuổi đầu cũng biết rằng khi bố tôi làm chuyện tồi tệ thì nó không nói với bố từ thứ Sáu đến thứ Hai và khi bố tôi cố ôm nó thì nó vùng ra và chạy sang với mẹ.
Tôi chín tuổi và tôi có một người bạn, Mikey Spellacy, cậu con trai có những người thân lần lượt từ bỏ cõi đời vì lao phổi. Tôi ghen tị với cậu ta bởi vì cứ mỗi khi nhà cậu ta có người chết là cậu ta lại được nghỉ học một tuần và được mẹ đính lên áo một dải băng đen để cậu ta có thể đi hết ngõ này đến ngõ khác và hết phố này đến phố khác và mọi người biết cậu ta đang có tang nên xoa đầu cậu ta và cho cậu ta tiền và kẹo.
Nhưng mùa hè này Mikey đang ở trong tâm trạng lo lắng. Chị gái Brenda của cậu ta đang vật vã với bệnh lao và mới có là tháng Tám thôi và nếu chị cậu ta chết trước tháng Chín thì cậu ta sẽ không có một tuần nghỉ học bởi vì bạn không thể được miễn học một tuần khi mà năm học đã kết thúc. Cậu ta đến tìm Billy Campbell và tôi để nhờ chúng tôi đến nhà thờ thánh Joseph cầu nguyện cho chị Brenda của cậu ta cầm cự được cho tới tháng Chín.
Nếu chúng tớ đi cầu nguyện cho chị của cậu thì cậu thuê chúng tớ gì nào? Ô, nếu chị tớ sống được tới tháng Chín và tớ được nghỉ học một tuần thì tớ sẽ cho các cậu đến dự bữa wake và các cậu có thể ăn giâm bông, pho mát, bánh và được uống rượu cherry và nước chanh rồi được nghe hát và nghe kể chuyện cả đêm.Ai có thể nói không với những thứ hấp dẫn ấy kia chứ? Chẳng có sự vui vẻ nào giống như sự vui vẻ của một bữa wake, bữa ăn của đêm thức canh người chết. Chúng tôi chạy đến nhà thờ nơi có tượng thánh Joseph, tượng Trái tim thiêng của Jésus, tượng Đức Mẹ Đồng Trinh và tượng thánh Therese, tượng thánh Little Flower. Tôi cầu nguyện trước tượng thánh Little Flower bởi vì thánh cũng chết vì bệnh lao và như thê thánh sẽ cảm thông.
Chắc chắn một trong những lời cầu nguyện của chúng tôi đã linh nghiệm bởi vì Brenda sống đến tận ngày thứ hai của năm học mới. Chúng tôi bảo với Mickey rằng chúng tôi rất tiếc trước mất mát của gia đình cậu ta nhưng cậu ta tỏ ra rất vui mừng vì cậu ta lại được nghỉ học một tuần và lại được đeo băng tang để nhận tiền và kẹo của mọi người.
Nghĩ đến bữa ăn của đêm thức canh thi hài Brenda tôi thấy ứa nước miếng. Billy gõ cửa nhà Mickey và cô của Mickey thò đầu ra cửa hỏi:
- Gì?
Chúng cháu đến để cầu nguyện cho chị Brenda và Mickey bảo chúng cháu có thể dự bữa wake ạ.Cô của Mickey gọi với vào trong nhà:
Mickey! Gì ạ? Ra đây. Mày bảo những thằng du côn này đến đây dự bữa wake của chị mày sao? Không ạ. Nhưng Mickey, cậu đã hứa...Cô của cậu ta đóng sầm cửa ngay trước mặt chúng tôi. Chúng tôi không biết phải làm gì nhưng rồi Billy Campbell bảo tôi:
Chúng ta quay lại nhà thờ thánh Joseph và cầu nguyện cho từ nay trở đi những người trong gia đình của Mickey Spellacy sẽ chết vào giữa kỳ nghỉ hè của nó và cả đời nó sẽ không bao giờ được nghỉ học một ngày nào nữa.Chắc chắn một trong những lời cầu nguyện của chúng tôi lại linh nghiệm bởi vì mùa hè sau đó chính Mickey bị nhiễm lao và cậu ta không được nghỉ học một ngày nào và chắc hẳn chuyện đó dạy cho cậu ta một bài học.
Bà tôi nói với mẹ tôi:
Anh Pat của chị, chân nó không được ổn, lại phải đi bán báo khắp thành phố này từ năm lên tám đến giờ thế mà thằng Frank nhà anh chị lớn thế rồi mà chẳng làm việc gì hết. Nhưng nó mới có chín tuổi và vẫn còn đi học mà mẹ. Đi học. Cái trường đó chỉ dạy nó cãi lại và làm cho nó vác cái mồm to và cái tính kỳ quặc giống bố nó đi lêu lổng mà thôi. Nó có thể sang giúp bác Pat nó vào các tối thứ Sáu khi người ta ra hàng tấn báo Limerick Leader. Nó có thể đưa báo đến những nhà giàu có cổng dài hàng dặm để cho cái chân bác Pat nó được nghỉ ngơi và nó cũng kiếm được vài xu. Tối thứ Sáu Frank còn phải đến hội Hữu ái. Quên cái hội Hữu ái đó đi. Trong giáo lý có thấy đả động gì đến mấy cái hội đó đâu.Tôi gặp bác Pat để lấy Limerick Leader vào năm giờ chiều thứ Sáu. Người đàn ông giao báo càu nhàu rằng tay tôi như ống sậy thế thì cầm hai cái tem chưa chắc đã nổi nói gì đến một đống báo nhưng bác Pat bắt tôi phải ôm tám tờ báo trên mỗi cánh tay. Bác ấy nói trời đang mưa và nếu tôi đánh rơi báo xuống đường thì bác ấy sẽ giết tôi. Bác ấy bảo tôi men theo tường đi lèn phố ƠConnell để báo khỏi bị ướt. Tôi phải chạy thật nhanh vào một điểm đặt mua báo, trèo lên bậc, chạy vào cửa, chạy lên gác, kêu “Báo đây”, đưa tiền cho bác Pat rồi khẩn trương đi đến điểm đặt báo khác. Những người đặt báo bồi dưỡng cho bác Pat vì sự vất vả của bác ấy, và bác ấy không cho tôi sơ múi gì đến số tiền đó.
Chúng tôi đi lên đại lộ O’Connell, đến Barrington, vào đường Nam Circular, xuống phố Henry và quay lại văn phòng lấy thêm báo. Bác Pat đội một cái mũ lưỡi chai và một cái áo giống như áo ponsô của một anh chàng cao bồi để giữ cho báo khỏi bị ướt nhưng bác ấy luôn miệng kêu ca rằng cái chân đau của bác ấy sẽ giết chết bác ấy và chúng tôi ghé vào một quán bia để bác ấy làm một vại đền cho cái chân đau của bác ấy. Bác Pa Keating đang ở trong quán toàn thân đen nhẻm như mọi khi và bác ấy nói với bác Pat:
Cậu Pat này, cậu cứ để thằng bé đứng thần mặt ra ở ngoài kia vì thèm nước chanh sao?Bác Pat ngơ ngác:
Gì? Gì cơ?Bác Pa mất hết kiên nhẫn:
Lạy Chúa, thằng bé vác cả đống báo chết tiệt của cậu đi khắp thành phố và cậu không thể - Ôi, thôi, quên đi. Timmy, lấy cho thằng bé này một chai nước chanh nào. Frankie, cháu không có cái áo mưa nào sao? Không, thưa bác Pa. Cháu không việc gì phải ra mưa ra gió như thế này. Cháu ướt sũng rồi đấy. Ai bắt cháu phải làm cái việc chết tiệt này hả? Bà nói là cháu phải giúp bác Pat bởi vì chân bác ấy đau. Cái bà già ấy hả, đồ chó cái, nhưng mà này cháu đừng có nói với họ là bác đã rủa bà mẹ vợ của bác đấy.Bác Pat vịn bàn đứng dậy, vơ tập báo lên tay và giục tôi:
Đi thôi, trời sắp tối rồi.Bác ấy bước tập tễnh trên đường, vừa đi vừa rao mấy tiếng chẳng giống tên tờ báo bác ấy đang bán tí nào và thế cũng chẳng sao bởi vì ở thành phố này ai mà chả biết Ab Sheehan bị tật ở đầu. Chúng tôi đang đi thì có người gọi: “Ab, bán cho tôi một tờ, tội nghiệp cái chân khốn khổ của anh, cầm lấy vài xu mà mua thuốc lá này, đúng là phải đi bán báo vào hôm mưa như thế này thì khổ thật”.
Bác Pat tôi lúng búng Cán ơn, Cán ơn, cán ơn và mặc dầu chân bác ấy tội nghiệp như người ta nói, tôi vẫn phải rất vất vả mới theo kịp bác ấy qua các phố. Bác ấy hỏi tôi:
Mày còn mấy tờ? Một, thưa bác Pat. Mang đến cho ông Timoney. Ông ấy nợ tiền nửa tháng báo. Lấy tiền nợ và tiền bổi dưỡng nữa. Ông ấy bồi dưỡng nhiều đấy và đừng có ăn bớt như thằng Gerry. Bớt tiền bỏ túi nó, thằng chó chết.Tôi gõ cửa nhà ông Timoney và nghe thấy tiếng sủa vang của một con chó to. Một giọng đàn ông cất lên đe con chó: “Macushla, đừng sủa ầm lên như thế nếu không tao phết vào đít đấy”. Con chó ngừng sủa, cánh cửa bật mở và một người đàn ông đứng đó với mái tóc trắng, cặp kính dày, chiếc áo len trắng, và một cây gậy chống trên tay. Ông ấy hỏi:
Ai đấy? Chúng tôi được đón ai thế này? Báo, thưa ông Timoney. Không phải là Ab Sheehan đấy chứ? Cháu là cháu của bác ấy, thưa ông. Gerry à? Không, thưa ông. Cháu là Frank McCourt. Một đứa cháu khác à? Anh ta nặn ra nhiều cháu thế nhỉ? Anh ta có một nhà máy nặn ra cháu trai ở sân sau chăng? Tiền ta trả nợ đây và bán cho ta một tờ hay là cứ giữ lấy cũng được. ích gì đâu nhỉ? Ta có đọc được nữa đâu còn cái bà Minihan đọc giúp ta thì chẳng thấy đến gì cả. Bà ấy cụt chân. Tên cậu là gì nhỉ? Frank, thưa ông. Cậu biết đọc không? Có, thưa ông. Cậu có muốn kiếm sáu xu không? Có, thưa ông. Vậy thì mai cậu hãy đến đây. Tên cậu là Francis, đúng không nhỉ? Frank, thưa ông. Tên cậu là Francis. Làm gì có thánh nào tên là Frank. Đó là tên của bọn găngtơ và bọn chính trị gia. Mai hãy đến và đọc cho ta. Cháu sẽ đến, thưa ông. Cậu có chắc là cậu biết đọc không? Cháu chắc ạ, thưa ông. Cậu có thể gọi ta là ông Timoney. Vâng, thưa ông Timoney.Bác Pat vừa xoa chân vừa càu nhàu: “Tiền của tao đâu, mà... mà mày không được nói chuyện với khách hàng rồi bỏ tao ở ngoài chờ với cái chân đau muốn chết như thế đâu đấy”. Bác ấy phải ghé vào quán bia ở gần ngã ba Punch để uống một vại cho chân đỡ đau. Sau khi uống xong bác ấy bảo bác ấy không bước nổi một bước nào nữa và thế là chúng tôi bắt xe buýt về nhà. Người soát vé xe buýt hỏi tiền vé nhưng bác Pat nhăn nhó bảo ông ta để cho bác ấy và cái chân đau của bác ấy được yên. Và người soát vé đành chào thua bác ấy.
Xe buýt dừng lại gần đài kỷ niệm ƠConnell và bác Pat đi vào quán cá tẩm bột chiên Monument nơi tỏa ra mùi thức ăn thơm phức khiến tôi đói cồn cào. Bác Pat mua một shilling cá tẩm bột chiên và trông thấy gói thức ăn tôi ứa cả nước miếng nhưng khi chúng tôi về đến cửa nhà bà tôi bác Pat đưa cho tôi ba xu và hẹn gặp tôi vào thứ Sáu và cầm gói cá tẩm bột chiên đi vào trong nhà.
Con chó Macushla đang nằm duỗi dài bên ngoài cửa nhà ông Timoney và khi tôi đưa tay mở cánh cửa vườn để đi vào lối dẫn tới cửa con chó chạy xồ ra và vật tôi ngã uỵch xuống đất và chắc chắn nếu ông Timoney mà không quát nó kịp thời thì nó đã ăn sống nuốt tươi tôi rồi.
Cậu không sao chứ, Francis? Vào đi. Con chó là một tín đồ Hindu, ta tìm thấy mẹ của nó lang thang ở Bangalore. Đọc tờ Limerick Leader ạ? Không, không phải tờ Limerick Leader. Ta sẽ không để cái tờ báo chết tiệt đó làm bẩn cái mông của ta. Có một cuốn sách ở trên bàn ấy, cuốn Những chuyến đi của Gullỉver. Dưới cuốn đó có một cuốn khác. Cuốn Một lời đề nghị khiêm tốn. Đọc cho ta nghe cuốn đó. Cậu thấy nó chưa? Ta thuộc cả cuốn đó rồi nhưng ta vẫn muốn cậu đọc cho ta nghe.Tôi cứ đọc được hai hoặc ba trang ông ấy lại bảo tôi dừng lại. Ông ấy hỏi: “Cậu đọc tốt đấy. Này, cậu nghĩ gì về cái đó, về chuyện thằng bé mới một tuổi mà được cho ăn đủ thứ, nào là thịt hầm, bánh mì, bánh nướng, bánh hấp, đủ thứ, hả? Macushla muốn bữa trưa của nó là một đứa bé Ailen bụ bẫm đúng không, Macushla?
Ông ấy đưa cho tôi sáu xu và hẹn tối thứ Bảy tới quay lại.
Mẹ tôi mừng ra mặt vì tôi kiếm được sáu xu từ việc đọc thuê cho ông Timoney. Mẹ tôi muốn biết tôi đã đọc gì cho ông ấy nghe. Tôi nói rằng tôi phải đọc cuốn Một lời đề nghị khiêm tốn và mẹ tôi gật gù: “Không vấn đề gì, đó chỉ là một cuốn sách thiếu nhi thôi. Ý thích của ông ấy chắc hẳn là phải kỳ cục một chút vì đầu óc của ông ấy không còn được bình thường sau nhiều năm phục vụ cho quân đội Anh ở Ân Độ và người ta nói rằng ông ấy đã cưới một phụ nữ Ân Độ và bà ấy không may đã bị một tên lính gây rối bắn chết. Vì thế ông ấy mới bảo con đọc sách thiếu nhi chứ”. Mẹ tôi biết tất cả những điều đó qua lời kể của bà Minihan, một người hàng xóm trước đây đã từng đến dọn nhà thuê cho ông Timoney nhưng rồi không chịu được cái cách ông ấy cười nhạo đạo Thiên Chúa. Bà ấy có thể chịu được việc uống cherry vào Chủ nhật nhưng bà ấy không thể chịu đựng được việc ông ấy cố tình lôi kéo bà ấy theo đạo Phật và không chịu đựng nổi khi ông ấy bảo rằng người Ailen sẽ sung sướng hơn nhiều nếu họ ngồi dưới một gốc cây và nhìn Mười điều răn của Chúa cùng Bảy trọng tội nổi lềnh bềnh trên sông Shannon và trôi ra biển.
Thứ Sáu của tuần tiếp theo Declan Collopy ở hội Hữu ái gặp tôi đang đi bán báo trên đường cùng với bác Pat. Cậu ta gọi to:
Này, Frankie McCourt, mày làm gì với Ab Sheehan đấy? Bác ấy là bác của em. Mày phải có mặt ở hội cơ mà. Em phải đi làm, anh Declan ạ. Mày không phải đi làm. Mày đã mười tuổi quái đâu mà làm với lụng và mày làm ảnh hưởng đến sĩ số của chi hội đấy. Nếu thứ Sáu tới mày không đến hội thì tao sẽ đập vỡ mõm mày ra, nghe rõ chưa?Bác Pat nói:
Cút ngay, cút, nếu không tao giẵm bẹp bây giờ. o, câm ngay, ông Đần Độn.Declan đẩy bác Pat vào một bức tường gần đó. Tôi bỏ tập báo xuống và lao vào nó nhưng nó tránh sang bên và túm gáy tôi đập mặt tôi vào tường và tôi nổi điên đến nỗi tôi không còn nhìn thấy nó nữa. Tôi lao vào nó dùng tay và dùng chân đánh lại nó và nếu như tôi có thể dùng răng cắn nát mặt nó ra thì tôi cũng làm nhưng tay nó dài như tay tinh tinh và nó chỉ cần dùng tay đẩy thôi tôi cũng không thể đụng đến người nó được. Nó nói: “Mày điên rồi con ạ. Mày đến hội mà xem, tao sẽ xử lý mày” và nó chạy đi.
Bác Pat lẩm bẩm: “Mày không nên đánh nhau như thế, mày để báo của tao xuống đất làm ướt mấy tờ rồi, tao bán làm sao được, tao cũng muốn lao vào đánh nhau với thằng đó lắm, nếu không vì báo thì tao đã đánh nhau với nó rồi”.
Bác ấy cho tôi một ít khoai tây chiên và thay vì đưa cho tôi ba xu bác ấy đưa cho tôi sáu xu. Bác ấy giải thích rằng vì mẹ tôi cứ đến cằn nhằn với bà tôi về việc bác ấy trả công cho tôi ít nên bác ấy phải đưa thêm cho tôi chứ bác ấy đâu có kiếm được nhiều nhặn gì.
Mẹ tôi rất vui vì giờ đây mỗi thứ Sáu tôi kiếm được sáu xu từ bác Pat và sáu xu từ ông Timoney. Một shilling mỗi tuần tạo ra một sự khác biệt lớn và mẹ tôi cho tôi hai xu để đi xem phim ở rạp Lyric mỗi khi tôi đọc thuê cho ông Timoney xong.
Sáng thứ Bảy ông Timoney nói:
Đợi đó, chúng ta lấy cuốn Gulliver. Cậu sẽ biết Jonathan Swift là nhà văn vĩ đại nhất của Ailen, không nói đúng hơn ông là người viết trên giấy da tài giỏi nhất. Một người đàn ông vĩ đại, Francis ạ.Ông Timoney cười trong khi nghe tôi đọc cuốn Một lời đề nghị khiêm tốn và chắc bạn sẽ thắc mắc là ông ấy buồn cười vì cái gì chứ khi mà cuốn sách đó chỉ toàn nói đên chuyện hành hạ những đứa trẻ Ailen. Ông ấy nói:
Khi nào cậu lớn cậu sẽ thấy nó buồn cười, Francis ạ.Bạn không được phép cãi lại người lớn nhưng ông Timoney thì khác, ông ấy không bực mình khi tôi nói:
Ông Timoney, người lớn luôn nói với chúng cháu: “Khi nào cậu lớn cậu sẽ cười. Khi nào cậu lớn cậu sẽ hiểu. Tất cả sẽ đến khi cậu lớn”.Ông ấy cười phá lên tưởng chừng sắp rơi khỏi ghế và nói:
Ôi, trời ạ, Francis. Cậu là một kho báu. Cậu sao vậy chứ? Cậu bị ong đốt vào mông hay sao thế? Hãy nói cho ta biết câu sao thế. Không sao, thưa ông Timoney. Ta nghĩ cậu có một cái miệng rộng, Francis ạ, và ta ước gì ta có thể nhìn thấy cái miệng của cậu. Hãy tới soi vào cái gương Tuyết Trắng ở tường ấy, rồi nói cho ta biết có phải miệng cậu rộng thật không. Đừng sợ. Hãy nói cho ta biết cậu sao thế. Tối qua cháu gặp Declan Collopy và cháu đã dính vào một vụ đánh lộn.Ông Timoney làm thế nào mà khiến tôi kể với ông về hội Hữu ái, về Declan và về bác Pat bị tật ở đầu của tôi, rồi ông ấy bảo với tôi rằng ông ấy biết bác Pa Keating, người bị nhiễm khí gas trong chiến tranh. Ông ấy nói: “Pa Keating là một người đáng quý. Ta sẽ cho cậu biết ta sẽ làm gì, Francis ạ. Ta sẽ nói chuyện với Pa Keating và bọn ta sẽ tới tìm những gã hỗn láo ở hội Hữu ái đó. Ta là người theo đạo Phật và ta không ủng hộ việc đánh nhau nhưng ta không làm ngơ đâu. Bọn chúng không thể bắt nạt người đọc sách bé nhỏ của ta được, vì Chúa Jésus, không thể để như thế được”.
Ông Timoney là một ông già nhưng ông ấy nói chuyện như một người bạn và tôi có thể nói với ông những cảm giác của mình. Bố tôi chẳng bao giờ nói chuyện với tôi giống như ông Timoney. Bố tôi luôn than: “Chao ôi” rồi bố tôi đi biến ra đường.
Bác Pat nói với bà tôi rằng bác ấy không muốn tôi giúp bác ấy đưa báo nữa, bác ấy muốn thuê một thằng bé khác làm việc đó với tiền công ít hơn và bác ấy nghĩ là tôi phải chia cho bác số tiền sáu xu tôi kiếm được nhờ việc đọc sách thuê bởi vì nếu không có bác ấy thì tôi làm sao có được công việc đó.
Bà hàng xóm của ông Timoney bảo tôi rằng tôi đừng có phí thời gian gõ cửa nhà ông ấy, con chó Macushla đã cắn người đưa thư, người đưa sữa và một bà xơ tình cờ đi ngang qua trong cùng một ngày. Và, ông Timoney không thể nhịn cười mặc dù sau đó khi con chó bị mang đi xử phạt ông ấy kêu khóc: “Mày có thể cắn người đưa thư và người đưa sữa tùy thích nhưng cắn một xơ đang đi đến gặp giám mục thì không thể được nhất là khi chủ của mày lại là một tín đồ theo đạo Phật, một mối đe dọa đối với những người theo đạo Thiên Chúa sống xung quanh”. ông Timoney vừa cười vừa khóc ghê quá đến nỗi bác sĩ nói ông ấy bị loạn thần kinh và họ đưa ông ấy đến City Home nơi dành cho những người già lẩn thẩn vô gia cư.
Công việc sáu xu ngày thứ Bảy của tôi chấm dứt như vậy đó. Nhưng tôi vẫn sẽ đọc cho ông Timoney nghe cho dù được tiền hay là không. Tôi đợi ở dưới phố cho tới khi người hàng xóm đó vào nhà bà ta, rồi tôi trèo qua cửa sổ nhà ông Timoney để lấy cuốn Những chuyến du hành của Gulliver và đi bộ suốt mấy cây số tới City Home để ông Timoney không bị mất buổi nghe truyện. Người đàn ông tôi gặp ở cổng trừng mắt nhìn tôi và sẵng giọng:
Chuyện gì? Mày muốn vào đó đọc sách cho một ông già điên nghe sao? Mày định lừa tao sao? Biến khỏi đây mau trước khi tao gọi bảo vệ tới. Cháu gửi lại cuốn sách để người khác đọc cho ông ấy nghe được không ạ? Muốn thì cứ việc. Chúa đọc cho ông ta nghe tao cũng chẳng quan tâm. Tao sẽ đưa cho ông ta.Và người đó phá lên cười.
Mẹ tôi hỏi:
Con sao thế? Sao con nhăn nhó thế?Và thế là tôi kể cho mẹ tôi nghe việc bác Pat không muốn thuê tôi nữa, việc người ta đưa ông Timoney vào City Home vì ông ấy cười khi con Macushla cắn người đưa thư, người đưa sữa và xơ đi ngang qua. Mẹ tôi cũng phá lên cười. Cười xong mẹ tôi nói:
Ôi, mẹ rất tiếc, thật tội nghiệp liền một lúc con mất cả hai công việc. Có lẽ con nên tới hội Hữu ái để đội vũ trang khỏi sờ đến con, và để tránh cha Gorey hỏi thăm tới.Declan bắt tôi ngồi trước mặt nó và nếu tôi nhúc nhích thì nó sẽ bẻ gãy cổ tôi vì nó sẽ ngồi đó để theo dõi tôi.
Mẹ tôi nói mẹ tôi lại không leo cầu thang được và thế là mẹ chuyển giường xuống bếp nằm. Mẹ tôi cười: “Mẹ sẽ lên Sorrento khi nào tường ẩm và nước mưa tràn vào đến cửa”. Năm học đã kết thúc và mẹ tôi có thể ngủ muộn đến chừng nào mẹ tôi muốn vì mẹ không phải dậy lo đồ ăn cho chúng tôi đi học nữa. Bố tôi nhóm lò, pha trà, cắt bánh mì, nhắc chúng tôi rửa mặt và bảo chúng tôi đi chơi. Bố tôi để chúng tôi ngủ nếu chúng tôi muốn nhưng khi không phải đi học thì bạn chẳng bao giờ muốn nằm trên giường hết. Hễ mở mắt dậy thì chúng tôi muốn chạy ra ngõ chơi ngay.
Rồi một ngày vào tháng Bảy bố tôi nói chúng tôi không được phép xuống dưới nhà. Chúng tôi phải ở trên gác chơi.
Bố, tại sao chứ? Đừng hỏi, hãy ở trên ấy chơi với Malachy và Michael, khi nào bố nói xuống được hãy xuống.Bố tôi đứng ở cửa canh chừng không cho anh em tôi bén mảng tới nửa bậc thang. Chúng tôi lấy chân nâng chăn lên giả vờ là chúng tôi đang ở trong lều, giả vờ làm Robin Hood. Chúng tôi săn tìm bọn bọ chét và lấy móng tay giết chúng.
Rồi chúng tôi nghe thấy tiếng trẻ con khóc ở dưới nhà và Malachy hỏi:
Bố, mẹ có em bé mới phải không? Đúng, con trai ạ.Tôi lớn hơn vì vậy tôi bảo với Malachy rằng mẹ chuyển giường xuống bếp để thiên thần có thể bay xuống và đặt em bé ở bậc thứ bảy nhưng Malachy không hiểu bởi nó mới chỉ tám tuổi sắp lên chín còn tôi một tháng nữa là tròn mười tuổi.
Mẹ nằm trên giường với em bé mới. Em bé mới có cái mặt bụ bẫm và toàn thân nó đỏ hỏn. Có một người đàn bà ở trong bếp cùng một y tá mặc áo choàng trắng và chúng tôi biết cô y tá có nhiệm vụ tắm cho các em bé vì những em bé luôn bẩn thỉu sau một hành trình dài cùng với thiên thần. Chúng tôi muốn cù em bé nhưng cô y tá nói: “Không, không, các cháu có thể nhìn em bé nhưng không được chạm một ngón tay lên người nó đâu”.
Không được chạm một ngón tay. Cò y tá đã nói vậy đấy.
Chúng tôi ngồi bên bàn vừa uống trà và ăn bánh mì vừa nhìn em trai mới của chúng tôi nhưng nhìn chán nó vẫn không mở mắt nhìn lại vì thế chúng tôi bỏ ra ngoài chơi.
Mấy ngày sau mẹ tôi ra khỏi giường bế em bé đến bên bếp lò. Em bé mở mắt và khi chúng tôi cù nó nó phát ra những tiếng ọ ẹ, bụng nó rung rung khiến chúng tôi cười như nắc nẻ. Bố tôi cù nó và hát một bài hát Scottish.
Bố tôi kiếm được việc làm vì vậy Bridey Hannon có thể đến chơi với mẹ và em bé bất cứ lúc nào cô ấy muốn và có lần mẹ tôi không đuổi chúng tôi ra ngoài chơi để họ nói chuyện bí mật. Họ ngồi bên bếp hút thuốc và nói về những cái tên. Mẹ tôi nói mẹ thích những cái tên như Kevin và Sean nhưng cô Bridey lại nói: “Ôi, không, ở Limerick này có quá nhiều người mang những cái tên đó rồi. Lạy Chúa, Angela, nếu chị thò đầu ra cửa gọi, “Kevin hay Sean, về uống trà đi” thì một nửa dân cư ở Limerick sẽ đổ xô vào cửa nhà chị cho mà xem.
Cô Bridey nói nếu Chúa nhân từ cho cô ấy có một đứa con trai thì cô ấy sẽ gọi nó là Ronald bởi cô ấy phát điên vì cái anh Ronald Colman mà cô ấy thấy trong một bộ phim ở rạp Coliseum. Cô ấy còn gợi ý một cái tên khác, Errol Flynn.
Mẹ tôi nói:
Cô đừng có dính vào chuyện này, Bridey. Tôi sẽ không bao giờ thò đầu ra cửa mà gọi “Errol, Errol, về uống trà đi”. Chắc chắn con tôi sẽ thành trò cười cho người ta nếu nó mang cái tên đó. Ronald - Cô Bridey nói - Vậy thì Ronald. Thằng bé xinh lắm mà. Không - Mẹ tôi phản đối - Nó phải là người Ailen. Chẳng phải bao nhiêu năm nay chúng ta đấu tranh vì điều đó hay sao? Nếu gọi con mình là Ronald thì bao thế kỷ nay chúng ta đấu tranh với người Anh làm gì cơ chứ? Lạy Chúa, Angela, chị nói cứ như là chính thằng bé phân biệt Ailen và Anh không bằng. Đúng đấy, Bridey ạ.Đột nhiên cô Bridey há hốc miệng:
Lạy Chúa, Angela, thằng bé làm sao ấy.Mẹ đứng dậy khỏi ghế, ôm chặt em bé trong tay, rên rỉ:
Ôi, lạy Chúa, nó khó thở.Cò Bridey luống cuống nói:
Tôi sẽ về tìm mẹ tôi sang.Cô ấy chạy đi và chỉ một phút sau cô ấy đã quay trở lại cùng với bà Hannon.
Lấy dầu ra đây - Bà Hannon nói. - Cô có dầu không? Dầu ấy. Dầu gan cá, có không? Được, dầu ấy được.Bà Hannon đổ dầu vào miệng em bé, lật nghiêng nó, vuốt lưng nó, đưa cái thìa vào họng nó và lấy ra một cục màu trắng.
Được rồi - Bà ấy nói - Sữa đây mà. Nó đọng lại và chèn họng thằng bé vây nên cô phải cho dầu vào để cục sữa long ra.Mẹ tôi khóc: “Lạy Chúa, con suýt mất thằng bé. Ôi, nếu nó có chuyện gì thì làm sao con sống nổi”.
Mẹ tôi ôm em bé, vừa khóc vừa cố cảm ơn bà Hannon.
Được rồi, được rồi, cô đừng nói nữa. Hãy đưa thằng bé lên giường nghỉ ngơi đi, hai mẹ con bị một phen hú vía rồi còn gì.Trong khi bà Hannon và cô Bridey đưa mẹ tôi về giường tôi để ý thấy trên ghế mẹ tôi vừa ngồi có một vết máu. Mẹ tôi bị chảy máu như vậy mẹ sẽ chết ư? Liệu tôi có nên bảo để mọi người biết không. Không, mày không thể nói gì hết bởi vì người lớn luôn có những bí mật, tôi tự bảo mình. Tôi biết nếu tôi nói điều gì đó thì thế nào người lớn cũng bảo: “Đừng có lo, cậu thì chuyện gì cũng tò mò, không phải việc của cậu, đi ra ngoài chơi đi”.
Tôi phải giữ bí mật đó trong lòng hoặc có thể nói chuyện với thiên thần. Đợi bà Hannon và cô Bridey ra về tôi ngồi xuống bậc thang thứ bảy. Tôi cố nói với thiên thần rằng mẹ tôi đang bị chảy máu đến chết mất. Tôi muốn thiên thần nói bảo tôi đừng sợ nhưng bậc thang thì lạnh, không có ánh sáng và chẳng có giọng nói nào cất lên với tôi cả. Tôi chắc là thiên thần đã bỏ đi mãi mãi rồi.
Mẹ tôi không bị chảy máu đến chết. Hôm sau mẹ bế em bé dậy chuẩn bị cho lễ rửa tội, mẹ bảo với cô Bridey rằng mẹ sẽ không thể tha thứ cho mình nếu em bé chết phải xuống địa ngục nơi dành cho những đứa trẻ chưa được rửa tội, một nơi có lẽ là đẹp và ấm áp nhưng vĩnh viễn chỉ có bóng tối và không có cơ hội thoát ra thậm chí ngay cả vào ngày Phán Quyết.
Bà tôi ở đó giúp mẹ, nghe thấy thế bèn nói:
Phải đấy, những đứa trẻ không qua lễ rửa tội sẽ chẳng được lên thiên đường.Cô Bridey bảo trong những trường hợp như vậy Chúa nghiêm khắc quá.
Họ mặc cho em bé chiếc váy may bằng ren Limerick, chiếc váy mà tất cả chúng tôi đã mặc khi chịu lễ rửa tội. Mẹ tôi bảo anh em tôi được phép cùng đi đến nhà thờ thánh Joseph và chúng tôi rất thích bởi chúng tôi biết sau lễ rửa tội sẽ có bánh nhân sữa và nước chanh.
Malachy hỏi mẹ tôi:
Mẹ ơi, em bé tên là gì? Anphonsus Joseph.Tôi không ngậm miệng được nữa bèn nói:
Đó là một cái tên ngớ ngẩn. Không phải một cái tên Ailen.Bà tôi lườm tôi bằng đôi mắt đỏ đục. Bà nói:
Thằng ranh này đáng bị khâu mồm lại. Mẹ tôi giơ tay tát vào mặt tôi một cái khiến tôi loạng choạng. Tim tôi như đang vỡ và tôi muốn khóc nhưng tôi không thể bởi bố tôi không có mặt ở đó nên tôi là người đàn ông trong nhà. Mẹ tôi quát: Mang cái miệng rộng lên gác ngay và không đựợc bước chân ra khỏi phòng.Tôi dừng lại ở bậc thang thứ bảy nhưng nó lạnh lẽo làm sao, tối tãm làm sao và ắng thinh chẳng có một tiếng nói nào.
Mọi người đi đến lễ rửa tội hết chỉ còn lại mình tôi. Tôi ngồi ở trên gác vừa chờ đợi vừa dùng tay và chân giết bọ chét. Tôi ước gì bố tôi ở nhà với tôi và tôi nghĩ tới đứa em trai bé bỏng với cái tên lạ lùng, Alphonsus, một cái tên khốn khổ.
Hồi lâu sau tôi nghe thấy tiếng mọi người ở nhà thờ về đang nói về trà, rượu vang, bánh nhân sữa, mứt chanh và nhắc lại những lời họ đã nghe ở lễ rửa tội rằng thằng bé là đứa trẻ đáng yêu nhất trên đời, Alphie, một cái tên lạ nhưng không hề gì, Chúa sẽ che chở cho nó và nó sẽ mãi sống và là bản sao của bố mẹ, bà và những người anh bé bỏng đã chết.
Tiếng bà tôi vọng lên từ chân cầu thang:
Frank, xuống mà ăn bánh và mứt này. Cháu không muốn ăn. Bà cứ giữ lấy. Bà nói xuống là xuống, nếu để bà phải leo lên đó thì bà sẽ cho mấy cái phát vào mông và đừng có mà ân hận đấy. Ân hận ư? Ân hận là gì? Đừng hỏi ân hận là gì. Xuống đây ngay.Giọng bà tôi nghe rất đanh và từ “ân hận” nghe có vẻ nguy hiểm. Tôi xuống.
Đứng trong bếp bà tôi nói vọng ra:
Nhìn cái mồm rộng của nó mà xem. Đừng nghĩ nó vui khi có em trai mới trừ khi một thằng bé sắp lên mười luôn bị đau ở mông.Mứt chanh và bánh sữa rất ngon còn Alphie thì ọ ẹ vui vẻ hưởng ngày lễ rửa tội của nó mà không biết rằng cái tên nó mang là một cái họa.
Ông nội tôi ở miền Bắc gửi bưu điện cho em Alphonsus năm bảng. Mẹ tôi muốn đích thân đi lĩnh nhưng mẹ không thể đi bộ xa được. Bố tôi nói bố sẽ đi lĩnh. Mẹ tôi bảo tôi và Malachy đi cùng bố. Bố tôi lĩnh tiền xong liền bảo với chúng tôi:
Được rồi, các chàng trai, hãy về nhà nói với mẹ rằng lát nữa bố sẽ về.Malachy nói:
Bố, bố không được đi uống rượu đâu. Mẹ bảo bố phải mang tiền về nhà. Bố không được uống rượu. Thôi, thôi, các con, về nhà với mẹ đi. Bố đưa tiền cho chúng con cầm về. Đó là tiền ông cho em bé. Nào, Francis, đừng hỗn như vậy. Hãy nghe lời bố, về nhà đi.Bố tôi nói rồi bỏ chúng tôi ở đó và đi thẳng vào quán South.
Mẹ tôi ngồi bên bếp bế Alphie. Thấy chúng tôi về mẹ lắc đầu:
Bố lại vào quán rồi phải không? Vâng. Các con hãy quay lại đó và làm cho bố các con phải bỏ đó mà ra. Mẹ muốn các con đứng giữa quán nói to cho tất cả mọi người ở đó biết rằng bố các con là người bố uống bia bằng tiền dành để nuôi em bé. Các con hãy nói cho cả thế giới biết rằng trong nhà của chúng ta không con một mẩu thức ăn, không còn một cục than, không còn một giọt sữa cho em bé bú.Anh em tôi băng qua các con phố và Malachy được dịp trổ tài nói to của nó: “Bố, bố năm bảng đó là tiền nuôi em bé. Không phải tiền uống rượu. Em bé ở nhà đang khóc đòi uống sữa còn bố thì ở đây uống bia bằng tiền mua sữa của em bé”.
Bố tôi đứng dậy ra khỏi quán South. Malachy vẫn muốn đứng đó nói tiếp nhưng tôi bảo nó phải nhanh đi tìm bố kẻo bố vào các quán khác uống hết cả năm bảng của em bé. Chúng tôi không tài nào tìm thấy bố ở các quán khác. Bố biết chắc thế nào mẹ sẽ đến tìm bố hoặc sẽ cho chúng tôi đi tìm mà các quán rượu ở Limerick thì nhiều vô kể, có đi tìm đến cả tháng cũng không đi hết được. Chúng tôi đành nói với mẹ rằng chúng tôi không tìm thấy bố và thế là mẹ mắng chúng tôi là lũ vô dụng. Ôi, Chúa ơi, lúc đó, tôi ước gì tôi có đủ sức để đi đến tất cả các quán rượu ở Limerick. Tôi sẽ xé miệng bố tôi ra. Tôi tự bảo mình: tiếp tục tìm đi, hãy đến các quán ở gần ga xem, đến cả quán cá Naughton và cửa hàng bán cá tẩm bột chiên nữa.
Tôi phải đi một mình vì Malachy bị tả phải ngồi bô luôn. Tôi tìm khắp các quán ở phố Pamell và các quán ở khu lân cận. Tôi ngó vào những phòng nhỏ nơi phụ nữ thường tới uống rượu và cả những nhà vệ sinh dành cho nam giới nữa. Tôi đói nhưng tôi sợ phải về nhà nói với mẹ tôi rằng tôi vẫn chưa tìm thấy bố. Bố tôi không ở quán Naughton cũng không ở tiệm bán khoai tây chiên nhưng có một người đàn ông say rượu đã ngủ ngay tại bàn ăn trong góc của một quán nhỏ, bỏ chỗ cá tẩm bột chiên của ông ta trong tờ báo dưới sàn và nếu tôi không nhặt gói thức ăn đó thì mèo cũng sẽ tha mất vì vậy tôi giấu gói thức ăn vào trong áo rồi đi ra khỏi quán tới bậc thềm trước nhà ga ngồi xuống vừa ăn vừa nhìn những người lính say khướt khoác tay những cô gái đi dưới phố mà lòng thầm cảm ơn người đàn ông say trong quán rượu đã cho giấm vào cá tẩm bột chiên và rồi chợt nhớ rằng nếu đêm nay tôi chết thì tôi sẽ chết như một kẻ có tội bởi tôi đã lấy trộm gói thức ăn và có lẽ sẽ bị đày xuống địa ngục nhưng tôi lại nghĩ hôm nay là thứ Bảy và nếu cha xứ vẫn còn ở bục nghe xưng tội thì sau khi ăn xong tôi có thể đến đó gột rửa linh hồn mình.
Nhà thờ dòng Dominica ở ngay trên phố Glentworth.
Xin hãy cứu rỗi con, thưa Cha, bởi vì con có tội.Tôi nói thế với cha xứ và lần xưng tội gần nhất của tôi được thực hiện mới mười lăm ngày trước đó. Tôi nói với Cha những tội thông thường và rồi sau đó tôi xưng với cha tội lấy trộm cá tẩm bột chiên của một người say rượu.
Tại sao, con của ta?
Vì con đói quá, thưa Cha. Sao con lại đói? Vì chẳng có gì trong bụng con cả, thưa Cha.Cha xứ không nói gì và mặc dù ở đó tối tôi vẫn nhận thấy Cha lắc đầu:
Con của ta, sao con không về nhà và bảo mẹ con cho con ăn? Vì mẹ con bảo con đến các quán rượu tìm bố con, thưa Cha, con không tìm thấy bố con còn mẹ con thì chẳng còn một miếng thức ăn nào trong nhà bởi vì bố con đã mang năm bảng ông nội con cho để nuôi em bé đi uống và mẹ con mắng con vì con không tìm được bố con.Tôi không biết Cha xứ có ngủ gật hay không nữa bởi Cha im lặng hồi lâu rồi Cha mới nói:
Con của ta, hãy ngồi xuống đây. Ta nghe người nghèo xưng tội. Ta làm lễ sám hối cho họ. Ta nên quỳ xuống rửa chân cho họ. Con có hiểu ta nói gì không, con của ta.Tôi nói với Cha là tôi hiểu nhưng thực ra tôi chẳng hiểu gì.
Hãy về nhà đi. Hãy cầu nguyện cho ta, Không sám hối sao, Cha? Không, con của ta. Con đã ăn trộm cá và khoai tây. Con đáng bị trừng phạt. Con đã được xá tội. Đi về đi. Hãy cầu nguyện cho ta.Cha xứ cầu phúc cho tôi bằng tiếng Latin, lẩm bẩm gì đó một mình bằng tiếng Anh còn tôi thì chẳng biết phải làm gì với Cha.
Tôi ước gì tôi có thể tìm thấy bố tôi để tôi có thể về nhà nói với mẹ tôi: “Mẹ ơi bố đây, bố còn ba bảng ở trong túi”. Bây giờ tôi không đói nữa vì vậy tôi có thể đi dọc một bên đường O’Connell và xuôi xuống đường bên kia tìm bố trong các quán bia và bố tôi đang ở trong quán Gleeson, làm sao tôi không nhận ra bố tôi ở trong ấy qua giọng hát đó chứ. Tim tôi muốn nổ tung trong lồng ngực và tôi không biết phải làm gì bởi tôi biết trong lòng tôi cũng đang giận sôi lên giống như mẹ tôi ở nhà và tôi có thể nghĩ tới chuyện chạy vào trong quán và đá cho bố tôi một cái rồi lại chạy ra nhưng tôi không làm thế bởi vì chúng tôi có những buổi sáng ngồi quanh bếp lửa nghe bố tôi kể về Cuchulain, de Valera và Roosevelt và vì nếu bố tôi ở đó uống đến say bằng tiền của em bé thì ánh mắt bố trông sẽ giống hệt như ánh mắt của Eugene khi nó tìm Oliver và tôi đành đi về nhà mà nói dối mẹ tôi rằng tôi không tìm thấy bố, không nhìn thấy bố đâu cả.
Mẹ tôi nằm trên giường với em bé. Malachy và Michael đang ngủ trên phòng Ý. Tôi biết tôi không phải nói gì với mẹ tôi cả, chỉ chút nữa thôi khi quán rượu đóng cửa bố tôi sẽ về nhà hát ầm ĩ và đưa ra một xu gạ chúng tôi chết cho Ailen và bây giờ mọi chuyện sẽ khác bởi uống hết cả tiền trợ cấp hay tiền lương lao động thì đã là đủ tồi rồi, nhưng một người đàn ông uống hết cả tiền dành cho một đứa bé mới sinh thì quá tệ, trên cả quá tệ, mẹ tôi sẽ nói vậy.
8Tôi đã lên mười và tôi sắp sửa đến nhà thờ thánh Joseph để làm lễ Kiên tín. Ở trường thầy O’Dea chịu trách nhiệm chuẩn bị cho chúng tôi. Chúng tôi phải biết về Ân thánh hóa, một hạt nhỏ rất giá trị mà Chúa Jésus ban cho các tín đồ của Chúa khi Chúa qua đời. Thầy O’Dea trợn mắt lên khi nói với chúng tôi rằng nhận lễ Kiên tín chúng tôi sẽ trở thành một phần của Đức Chúa. Chúng tôi sẽ có những món quà của thánh thần: sự Khôn Ngoan, Hiểu Biết, sự Dẫn Dắt, lòng Dũng Cảm, trí Thông Minh, lòng Mộ Đạo, và lòng kính Chúa. Các linh mục và các thầy giáo nói với chúng tôi rằng nhận lễ Kiên tín có nghĩa là bạn đã trở thành một chiến binh thực thụ của nhà thờ và rằng như thế có nghĩa là bạn đã nguyện phụng sự nhà thờ cho tới lúc chết và sẽ sẵn sàng tử vì đạo trong trường hợp chúng tôi bị những người theo đạo Tin lành hay những tín đồ Hồi giáo hay bất cứ phái ngoại đạo nào tấn công. Lại chết. Tôi muốn nói với họ rằng tôi không muốn chết cho Đức tin bởi vì tôi đã hứa chết cho Ailen rồi.
Mikey Molloy bảo tôi: “Cậu đùa đấy à? Nói chết cho Đức tin chỉ là một trò lừa gạt thôi. Họ chỉ nói thế để dọa câu thôi mà. Chết cho Ailen cũng vậy. Không ai chết cho cái gì nữa cả. Tất cả các kiểu chết đó đều kết thúc rồi. Tớ sẽ không chết cho Ailen và cũng không chết cho Đức tin đâu. Tớ chỉ chết cho mẹ tớ mà thôi.
Mikey biết tất cả. Cậu ấy sắp mười bốn tuổi. Cậu ấy hay ngất. Cậu ấy có tầm nhìn.
Người lớn nói với chúng tôi rằng chết cho Đức tin là một vinh dự, và rằng ngày nhận lễ Kiên tín cũng giống ngày lễ Ban thánh thể, bạn sẽ đi vào các ngõ, đến các phố và có thể nhận bánh, kẹo và tiền qua buổi đi quyên góp.
Chính vì lẽ đó mà Peter Dooley tới tìm chúng tôi. Chúng tôi gọi cậu ta là Quasimodo vì cậu ta có một cái bướu trên lưng.
Quasimodo có chín chị gái và người ta nói rằng mẹ cậu ta không muốn có cậu ta chút nào nhưng thiên thần vẫn mang cậu ấy đến cho bà ta và thắc mắc về cái mà thiên thần gửi đến là có tội. Quasimodo lớn rồi, cậu ta mười lăm. Mái tóc đỏ của cậu ta đâm về mọi hướng. Cậu ta có đôi mắt xanh và một cái kho lưu trữ trong đầu với nhiều thông tin đến nỗi cậu ta cứ gõ gõ vào thái dương để giữ cho cái kho đó ở yên chỗ nó nên ở. Chân phải của cậu ta ngắn và bị tật nên mỗi khi bước người cậu ta lại giật lên như thể đang nhảy vậy và bạn sẽ không thể biết cậu ta ngã lúc nào. Đó là khi bạn không ngờ. Cậu ta nguyền rủa cái chân mình, cậu ta nguyền rủa cuộc đời, nhưng cậu ta nguyền rủa bằng giọng Anh rất hay mà cậu ta học được từ đài BBC. Trước khi ra khỏi nhà bao giờ cậu ta cũng thò đầu ra cửa và nói với cái ngõ hẻm: “Tớ ra đấy, tớ ra đấy”. Khi cậu ta mười hai tuổi cậu ta quyết định rằng với bộ dạng của cậu ta và cái cách đời nhìn cậu ta thì tốt nhất là cậu ta nên chuẩn bị cho một cồng việc phù hợp với mình, một công việc chỉ để người ta nghe thấy thôi chứ không để người ta nhìn thấy và như thế thì có công việc nào hay hơn việc ngồi sau chiếc micờrô ở đài phát thanh BBC trên London đọc bản tin?
Nhưng bạn không thể đến London mà không có tiền và đó là lý do tại sao cậu ta tập tễnh đến gặp chúng tôi vào thứ Sáu đó, cái ngày trước buổi lễ Kiên tín. Cậu ấy có một ý tưởng cho tôi và Billy. Cậu ta biết ngày hôm sau chúng tôi sẽ có tiền và nếu mỗi chúng tôi hứa trả cho cậu ta một shilling thì ngay tối hôm đó cậu ta sẽ cho chúng tôi trèo qua ống máng đằng sau nhà để nhìn qua cửa sổ xem các chị gái cậu ta tắm. Tôi đồng ý ngay. Billy nói: “Tớ cũng có chị gái, tại sao tớ phải trả tiền để xem các chị gái cậu không mặc quần áo?”.
Quasimodo nói rằng nhìn chị gái mình ở trần là tội nặng nhất trong các loại tội và cậu ta không tin là trên thế giới có linh mục nào lại có thể xá cho cái tội đó, rằng nếu muốn được xá tội đó có lẽ bạn phải đến gặp giám mục mà giám mục thì chắc chắn là đáng sợ lắm.
Billy đồng ý.
Tối thứ Sáu chúng tôi trèo qua tường sân sau nhà Quasimodo. Đó là một tối đẹp trời, vầng trăng tháng Sáu lơ lửng tỏa sáng trên bầu trời Limerick và bạn có thể cảm nhận được rất rõ làn gió ấm áp thổi tới từ sông Shannon. Quasimodo sắp sửa để Billy trèo lên ống máng thì Mikey Molloy trèo qua tường vào rít qua kẽ răng gọi Quasimodo: “Đây, một shilling đây. Để tao trèo lên đó đi”. Mikey đã mười bốn tuổi, to lớn hơn mấy chúng tôi và công việc chở than cũng làm cho cậu ta khỏe hơn chúng tôi. Người cậu ta đen nhẻm vì than giống như bác Pa Keating và tất cả những gì bạn nhìn thấy ở cậu ta là đôi mắt trắng dã và đám nước bọt trắng ở môi dưới của cậu ta, và những cái đó nói cho bạn biết rằng cậu ta có thể ngất bất cứ lúc nào.
Quasimodo nói:
- Đợi đã, Mikey. Các cậu ấy lên trước.
Đợi cái mông tao thì có - Mikey văng tục và bước đến chỗ ống máng. Billy làu bàu nhưng Quasimodo chỉ biết lắc đầu: Tớ chịu. Tuần nào nó cũng cầm một shilling đến. Tớ phải để nó trèo lên ống máng nếu không nó đánh tớ và mách mẹ tớ và thế nào mẹ tớ cũng nhốt tớ trong hố than cả ngày cùng với lũ chuột.Mikey trèo ống máng bằng một tay. Tay còn lại của cậu ta lục xục trong túi quần và khi cái ống máng bắt đầu lắc lư và phát ra những tiếng cọt kẹt Quasimodo rít lên:
Molly, đừng có đánh võng trên ống máng như thế.Quasimodo luống cuống vừa đi tập tễnh trong sân vừa rủa. Chất giọng BBC của cậu ta biến đâu mất thay vào đó là giọng nói Limerick chính cống:
Lạy Chúa, Molly, xuống ngay không tao gọi mẹ tao ra bây giờ.Bàn tay của Mikey đút sâu hơn vào trong túi quần và trong chớp mắt chiếc ống máng đảo mạnh rồi đổ xuống còn Mikey thì nằm lăn trên sân kêu: “Tôi chết mất. Gãy hết rồi. Ôi, Chúa ơi”. Lúc đó bạn có thể nhìn thấy nước bọt ở môi dưới cậu ta và cả máu từ cái lưỡi bị chính cậu ta cắn phải nữa.
Mẹ của Quasimodo vừa chạy qua cửa vừa la: “Lạy Chúa chuyện gì thế này!” và đèn bếp bật sáng soi rõ mảnh sân. Tiếng kêu oai oái của các chị gái Quasimodo vọng xuống từ cửa sổ. Billy cố tẩu thoát nhưng mẹ của Quasimodo đã tóm chân cậu ta lôi cậu ta từ trên tường xuống. Bà ấy bảo cậu ta chạy đến hiệu thuốc của ông O’Connor nhờ gọi xin một xe cứu thương hay một bác sĩ cho Mikey. Bà ấy đá Quasimodo vào trong hiên. Cậu ta quỳ, chống cả hai tay xuống đất van xin nhưng mẹ cậu ta vẫn lôi cậu ta vào hố than dưới cầu thang và khóa cậu ta trong đó.
Ngồi nguyên trong đó đến khi nào mày khôn ra - Bà ấy bảo cậu ta thế.Quasimodo kêu khóc van xin mẹ cậu ta bằng giọng Limerick:
Ôi, mẹ ơi, mẹ, cho con ra đi, mẹ. Nhiều chuột quá mẹ ơi. Con chỉ muốn đi đến BBC thôi mà, mẹ ơi. Ôi, lạy Chúa, mẹ ơi, lạy Chúa. Con sẽ không cho ai trèo lên ống máng nữa đâu. Rồi con đi London con sẽ gửi tiền về cho mẹ, mẹ ơi, mẹ ơi!Mickey vẫn nằm dưới sân, kêu khóc và quằn quại. Xe cứu thương tới đưa cậu ta đến bệnh viện với cái vai gãy và cái lưỡi quấn băng.
Mẹ chúng tôi đổ đến. Bà Dooley nói:
Thật nhục nhã, nhục nhã. Các con gái tôi không thể tắm mà không bị cả thế giới nhìn trộm còn những thằng ranh hư đốn đó, chúng đáng bị lôi cổ đến linh mục xưng tội trước khi chúng nhận lễ Kiên tín.Nhưng mẹ tôi nói:
Tôi không biết người ta thế nào, còn tôi, tôi đã phải chắt bóp cả năm để có được bộ đồ cho thằng Frank nhà tôi đi nhận lễ Kiên tín và tôi sẽ không đến chỗ linh mục mà nói rằng con tôi không đáng nhận lễ đó để rồi phải đợi đến sang năm khi mà con tôi không còn mặc vừa bộ đồ đó nữa chỉ vì nó đã trèo lên ống máng để ngó cái mông giơ xương của Mona Dooley.Mẹ xoắn tai tôi lôi tôi về nhà và bắt tôi quỳ xuống trước bức tranh Đức Giáo hoàng:
Hãy thề đi, hãy thề với Người rằng con sẽ không bao giờ nhìn trộm Mona Dooley nữa - Mẹ tôi tức tối ra lệnh.Tôi thề.
Nếu con nói dối con sẽ không được rửa tội trong buổi lễ ngày mai và như thế con sẽ phạm vào tội báng bổ Người.Tôi thề.
Chỉ có giám mục mới có thể xin Chúa xá cho con tội đó.Tôi thề.
Được rồi. Đi ngủ đi và từ nay trở đi hãy tránh xa cái thằng Quasimodo Dooley khốn khổ ấy ra.Ngày hôm sau tất cả chúng tôi đều được nhận lễ Kiên tín. Giám mục hỏi tôi: “Điều răn thứ tư là gì?” và tôi trả lời: “Kính trọng cha mẹ ạ”. Giám mục khẽ vuốt má tôi và thế là tôi đã trở thành một chiến binh của nhà thờ. Tôi quỳ chịu lễ mà cứ nghĩ đến Quasimodo đang bị nhốt trong hố than dưới cầu thang nhà cậu ta và tôi tự hỏi: mình có nên cho cậu ta một shilling để cậu ấy đến BBC lo sự nghiệp không nhỉ?
Nhưng rồi tôi quên Quasimodo bởi vì tôi bị chảy máu mũi và bị chóng mật. Những đứa con trai con gái nhận lễ Kiên tín xong đang ở ngoài nhà thờ với bố mẹ họ, được ôm hôn dưới ánh mặt trời rực rỡ và tôi không quan tâm. Bố tôi đang làm việc và tôi không quan tâm. Mẹ tôi hôn tôi và tôi không quan tâm. Bọn con trai nói đến buổi đi quyên và tôi không quan tâm. Mũi tôi vẫn chảy máu và mẹ tôi sợ tôi sẽ làm bẩn chiếc áo mới. Mẹ tôi chạy vào trong để xin Stephen Carey người giữ đồ thánh một miếng vải và ông ấy đưa cho mẹ tôi một miếng vải chéo cứng queo khiến mũi tôi đau rát. Mẹ tôi hỏi: “Con có muốn đi quyên không?” và tôi trả lời là tôi không quan tâm. Malachy nói: “Đi chứ, anh Frankie” và nó buồn ra mặt vì tôi đã hứa sẽ đưa nó đi xem phim ở rạp Lyric và mua đầy kẹo bỏ trong ống tay áo. Tôi muốn nằm. Tôi có thể nằm xuống đó trên bậc thềm của nhà thờ thánh Joseph và ngủ mãi mãi. Mẹ tôi nói, -Bà đang nấu một bữa sáng đặc biệt, và nghe đến thức ăn tôi buồn nôn không chịu nổi đến nỗi tôi lao ra rìa lối đi nôn thốc nôn tháo, cả thế giới nhìn tôi và tôi không quan tâm. Mẹ tôi bảo mẹ sẽ đưa tôi về nhà và cho tôi đi nằm còn các bạn của tôi thì tròn mắt ngạc nhiên vì có ai lại đi nằm khi mà buổi đi quyên sắp bắt đầu bao giờ.
Mẹ tôi giúp tôi cởi bộ lễ phục ra và dắt tôi về giường. Mẹ tôi giật một mảnh vải đặt nó dưới cổ tôi và một lát sau mũi tôi không chảy máu nữa. Mẹ tôi mang trà tới nhưng nhìn thấy trà là tôi lại buồn nôn và tôi phải nôn vào bô. Bà Hannon chạy sang và tôi có thể nghe thấy bà ấy nói rằng tôi ốm rất nặng phải gọi bác sĩ ngay. Mẹ tôi bảo thứ Bảy phòng khám không mở cửa vậy thì chúng tôi tìm đâu ra bác sĩ chứ?
Bố tôi đi làm ở nhà máy bột của Rank về và bố nói với mẹ rằng tôi đang trải qua một giai đoạn, giai đoạn của những đau đớn. Bà tôi đến và nói y hệt như bố tôi. Bà bảo khi những thằng bé chuyển từ một số năm này sang một số năm khác, nghĩa là từ chín chuyển sang mười tuổi, phải trải qua sự thay đổi, và rất dễ chảy máu mũi. Bà nói có lẽ tôi có quá nhiều máu trong người và có mất đi một chút rồi thay máu mới cũng chẳng sao.
Ngày hôm đó trôi qua và tôi nằm trên giường lúc tỉnh lúc mê. Tối đến Malachy và Michael trèo lên giường và tôi nghe thấy Malachy nói: “Anh Frankie nóng quá”. Michael nói: “Anh ấy chảy máu ra chân em này”. Mẹ tôi đặt mảnh vải ướt lên trên mũi tôi và đặt một cái chìa khóa lên gáy tôi nhưng tôi vẫn không cầm máu. Đến sáng Chủ nhật thì ngực tôi đầy máu và cả quanh người tôi cũng có máu. Mẹ tôi bảo với bố tôi rằng tôi chảy máu qua cả hậu môn và bố tôi nói có lẽ tôi bị tiêu chảy, và triệu chứng đó cũng thường thấy khi một đứa trẻ trải qua giai đoạn đau đớn mà nó phải trải qua.
Bác sỹ Troy là bác sĩ của khu chúng tôi nhưng ông ấy đang đi vắng và ông bác sĩ đến khám cho tôi thì sặc mùi rượu. Ông ấy khám cho tôi rồi bảo mẹ tôi rằng tôi bị cảm lạnh nên phải giữ cho tôi nằm yên trên giường. Mấy ngày trôi qua mà tôi vẫn ngủ li bì và tiếp tục chảy máu. Mẹ tôi nấu trà, trà thịt bò, nhưng tôi không muốn ăn. Mẹ tôi mang kem tới nhưng trông thấy kem là tôi buồn nôn. Bà Hannon lại sang, thông báo rằng ông bác sĩ kia say nói linh tinh, và bảo chúng tôi phải sang xem ông Troy đã về chưa.
Mẹ tôi mời được ông Troy. Ông ấy sờ trán tôi, vạch mi mắt tôi lên, lật tôi nằm úp để kiểm tra lưng tôi, bế tôi trên tay và cứ thế chạy ra chỗ chiếc xe ô tô đang đậu của ông ấy. Mẹ chạy theo ông bác sĩ và được ông ấy nói cho biết rằng tôi bị sốt thương hàn. Mẹ tôi than khóc: “Ôi, Chúa ơi, ôi, Chúa ơi, con sẽ mất cả gia đình sao? Chuyện này không kết thúc được sao?” Mẹ tôi ngồi vào trong xe, bế tôi lên lòng và khóc suốt dọc đường tới bệnh viện Fever ở City Home.
Giường bệnh có những tấm khăn trải mát lạnh. Các y tá mặc đồng phục trắng bong và xơ Rita cũng vận toàn đồ trắng. Bác sỹ Humphrey và bác sĩ Campbell cũng mặc áo choàng trắng và đeo ống nghe lủng lẳng trước ngực. Tôi
ngủ và ngủ nhưng tôi thức lúc họ mang những cái chai đựng thứ gì đó màu đỏ tươi treo trên những cái cột nhỏ và đặt ở đầu giường tôi và chọc những cái kim có dây nối với những cái bình đó vào mắt cá chân và cổ tay phải của tôi. Xơ Rita nói: “Con đang được tiếp máu đấy, Francis ạ. Máu của những người lính từ Sarsfield Baracks”.
Mẹ tôi ngồi bên giường bệnh và cô y tá nói với mẹ: “Bà biết đấy, đây là một ngoại lệ. Không một ai như thê từng được cho phép vào bệnh viện này bởi người ta sợ bệnh sẽ lây nhưng họ đã chiếu cố bà vì con trai bà đang trong tình trạng nguy kịch. Nếu cậu bé vượt qua được thời điểm này thì chắc chắn cậu bé sẽ hồi phục thôi”.
Tôi chìm vào giấc ngủ. Khi tôi tỉnh giấc mẹ tôi không còn ở đó nữa nhưng có gì đó chuyển động ở trong phòng và tôi nhận ra đó là một linh mục, cha Gorey, đến từ hội Hữu ái. Tôi lại thiếp đi và rồi họ đánh thức tôi dậy và thay khăn trải giường cho tôi. Cha Gorey xức dầu thánh lên người tôi cầu nguyện cho tôi bằng tiếng Latin. Tôi biết đó là nghi thức Extreme Unction - xức dầu lần cuối - và thế có nghĩa là tôi sắp chết và tôi không quan tâm. Họ lại đánh thức tôi dậy nhận thánh thể. Tôi không muốn nhận, tôi sợ mình lại nôn. Tôi để mặc bánh thánh trên lưỡi và lại thiếp đi và khi tôi tỉnh dậy bánh thánh không con trên lưỡi tôi nữa.
Trời đã tối và bác sĩ Campbell đang ngồi bên giường tôi. Ông ấy vừa cầm cổ tay tôi vừa nhìn đồng hồ đeo tay của ông ấy rất chăm chú. Ông ấy có mái tóc đỏ, ông ấy đeo kính và luôn mỉm cười khi nói với tôi. Bây giờ ông ấy ngồi quay mặt ra phía cửa sổ. Mắt ông ấy nhắm và ông ấy ngáy khe khẽ. Ông ấy hơi ưỡn mông lên và đánh rắm rồi tự cười mình và tôi biết tôi đã khá hơn vì chẳng có bác sĩ nào lại đánh rắm trước một đứa bé sắp chết cả.
Xơ Rita trong bộ đồ trắng bong xuất hiện khi mặt trời chiếu vào cửa sổ. Xơ cầm cổ tay tôi, nhìn đồng hồ của xơ, và mỉm cười. Xơ nói: “Dậy rồi, phải không Francis? Ô, Francis, ta nghĩ con đã vượt qua ?