← Quay lại trang sách

Chương 10

Thời tiết ở Ailen lạnh và ẩm ướt nhưng chúng tôi ở cả trên gác. Mẹ tôi bảo rằng chúng tôi nên mang bức tranh Giáo hoàng lên trên gác treo ở gần cửa sổ. Dù sao Giáo hoàng cũng là một người bạn của dân lao động, ông ấy là người Ý mà người Ý thì ưa thời tiết ấm áp. Mẹ tôi ngồi bên bếp, người khẽ run, và chúng tôi biết khi mẹ không thèm động đến một điếu thuốc có nghĩa là có gì đó rất tệ. Mẹ tôi nói mẹ rét và mẹ muốn uống thứ gì đó chua, một cốc nước chanh chẳng hạn. Nhưng trong nhà chúng tôi không còn một xu, thậm chí buổi sáng còn không có bánh mì để ăn. Mẹ tôi uống trà và đi nằm.

Cả đêm giường của chúng tôi cứ chốc chốc lại cọt kẹt vì mẹ tôi trở mình liên tục và mẹ làm chúng tôi không thể ngủ được vì thỉnh thoảng lại rên rỉ đòi uống nước. Sáng ra mẹ tôi không dậy mà nằm đó run và rên, và tất cả chúng tôi đều im lặng. Nếu mẹ tôi không dậy thì tôi và Malachy sẽ bị muộn học. Nhiều giờ trôi qua mẹ tôi vẫn không dậy và khi tôi biết đã quá giờ vào lớp rồi tôi bắt đầu nhóm bếp đun ấm nước. Mẹ tôi vật vã đòi uống nước chanh nhưng tôi chỉ có thể đưa cho mẹ một cốc nước lọc. Tôi hỏi mẹ tôi có muốn uống trà không và mẹ tôi phản ứng như thể một người điếc vậy. Mật mẹ tôi đỏ bừng và thật lạ là mẹ tôi chẳng nhắc gì tới thuốc lá.

Anh em tôi ngồi lặng im bên bếp, Malachy, Michael, Alphie, và tôi. Chúng tôi uống trà còn Alphie thì nhai mẩu bánh mì chấm đường cuối cùng. Nó quệt tay làm đường dính lên mũi lên má khiến chúng tỏi buồn cười. Nhưng chúng tôi không thể cười to nếu không mẹ tôi sẽ dậy bắt tôi và Malachy đi học và chúng tôi sẽ bị phạt đến chết mất vì tội đi học muộn. Chúng tôi không cười lâu được, không còn bánh nữa mà chúng tôi thì đói, cả bốn anh em tôi đều đói. Chúng tôi không được bà Kathleen bán chịu hàng cho nữa. Chúng tôi cũng không thể bén mảng đến gần bà tôi được. Hễ trông thấy mặt chúng tôi là bà tôi lại mắng mỏ chúng tôi vì bố tôi là người miền Bắc và vì bố tôi ở Anh không gửi một xu nào về cho mẹ con tôi. Bà tôi nói chúng tôi có thể chết đói vì sự thiếu quan tâm của bố tôi. Bà tôi bảo như thế mẹ tôi sẽ được một bài học vì ai bảo mẹ tôi lại đi lấy một người đàn ông miền Bắc, một người tính khí kỳ quặc.

Tuy nhiên, tôi sẽ phải thử đến cửa hàng của bà Kathleen O’Connell một lần nữa. Tôi sẽ nói với bà ấy rằng mẹ tôi đang ốm, các em tôi đang đói và chúng tôi rất muốn có một ít bánh mì.

Tôi đi giày vào và chạy băng qua các con phố để giữ người tôi khỏi cóng bởi thời tiết tháng Hai sương giá. Nhìn qua những ô cửa sổ bạn có thể thấy được cảnh ấm cúng bên trong những căn bếp nơi có lò sưởi ấm, nơi mọi thứ đều ánh lên dưới ánh điện, nơi có những chiếc cốc, những chiếc khay được đật trên những chiếc bàn cùng với những đĩa bánh cắt lát và những bình mứt bình bơ và chỉ cần ngửi mùi trứng và mùi giăm bông tỏa ra từ những ô cửa ấy cũng đủ làm bạn ứa nước miếng rồi và còn cảnh các gia đình quây quần với những bà mẹ đeo tạp dề bận rộn nấu ăn hoặc rửa bát và dù Chúa Jésus từ trên tường nhìn xuống với dáng vẻ buồn bã nhưng họ vẫn hạnh phúc vì có thức ăn ngon, có điện sáng và vì họ vẫn là những tín đồ ngoan đạo.

Tôi cố tìm trong đầu một bài hát nhưng tôi chỉ thấy tiếng rên rỉ đòi uống nước chanh của mẹ tôi mà thôi.

Nước chanh. Có một xe chở hàng vừa rời quán South bỏ lại bên ngoài quán những sọt đựng những chai bia cùng những chai nước chanh và trên phố lúc ấy không có một bóng người. Trong khoảng hai giây tôi đã lấy được hai chai nước chanh thủ vào trong áo và lại bước đi thong thả như không.

Bên ngoài cửa hàng của bà Kathleen O’Connell có một xe chở bánh mì. Cửa sau của xe hàng để mở và tôi có thể nhìn rõ hơi bánh mì nóng bốc ra từ đó. Người lái xe đang ở trong cửa hàng uống trà với bà Kathleen và chẳng khó khăn gì tôi cũng kiếm được cho mình một ổ bánh mì nóng. Thật không phải chút nào khi lấy cắp của bà Kathleen O’Connell vì bà ấy luôn tử tế với chúng tôi nhưng nếu tôi vào cửa hàng hỏi xin bánh thì bà ấy sẽ nổi giận và mắng rằng tôi đã làm hỏng bữa uống trà sáng của bà ấy trong khi bà ấy luôn thích được thưởng thức trà trong yên tĩnh. Tôi giấu chiếc bánh vào trong áo và tự hứa với mình rằng khi nào đi xưng tội tôi sẽ nói ra tất cả.

Các em tôi đang ở trên giường chơi cùng những chiếc áo khoác nhưng khi nhìn thấy bánh mì một cái là chúng nhảy cả xuống đất. Chúng tôi đói qua không kịp cắt bánh mà xé thành từng miếng mà nhai. Malachy cầm chai nước chanh đặt vào môi mẹ tôi và mẹ tôi uống ừng ực cho tới khi chai nước chanh không còn một giọt. Nếu mẹ tôi thích uống thứ nước đó như vây thì tôi có thể kiếm thêm cho mẹ.

Chúng tôi cho chỗ than cuối cùng vào bếp và ngồi quanh bếp bịa ra những câu chuyện giống như bố tôi thường bịa. Tôi kể cho các em tôi nghe chuyến phiêu lưu của tôi với những chai nước chanh và chiếc bánh mì và tôi bịa ra tình tiết tôi bị các chủ quán rượu và các chủ cửa hàng truy đuổi và cảnh tôi chạy vào nhà thờ thánh Joseph nơi không ai có thể đuổi theo bạn cho dù bạn là một tên tội phạm thậm chí cho dù bạn đã giết mẹ đẻ của mình đi nữa. Malachy và Michael sửng sốt khi nghe tôi kể tôi đã lấy trộm nước chanh và bánh mì như thê nào nhưng rồi Malachy nói đó chỉ là những việc mà Robin Hood thường làm, trộm của người giàu chia cho người nghèo. Michael bảo tôi là một kẻ ngoài vòng pháp luật và nếu họ tóm được tôi họ sẽ treo cổ tôi lên cái cây cao nhất ở công viên People giống như những kẻ ngoài vòng pháp luật bị treo cổ trong các bộ phim chiếu ở rạp Lyric. Malachy nói tôi nên chắc là tôi được ban ân bởi nếu không sẽ khó mà tìm được một linh mục rửa tội cho tôi khi tôi bị treo cổ. Tôi bảo rằng nhất định sẽ có linh mục đến buổi treo cổ. Những linh mục là để cho những dịp đó mà. Roddy McCorley có một linh mục và Kevin Barry cũng vậy. Malachy nói lúc Roddy McCorley và Kevin Barry bị treo cổ không có linh mục nào có mặt bởi trong các bài hát về họ đâu có nhắc tới linh mục nào và nó bắt đầu cao giọng hát những bài hát về Roody McCorley và Kevin Barry để chứng minh điều đó cho tới khi mẹ tôi rên rỉ và quát nó câm miệng.

Em Alphie lim dim buồn ngủ rồi ngủ ngay trên sàn cạnh bếp lò. Mặc dù chúng tôi không muốn nó bị lây bệnh từ mẹ tôi không muốn nó chết chúng tôi vẫn phải bê em lên giường đặt nó nằm cạnh mẹ tôi để nó được ấm. Nếu mẹ tôi thức dậy mà thấy em tôi chết trên giường bên cạnh mẹ thì không biết mẹ sẽ kêu khóc đến bao giờ và chắc chắn mẹ sẽ oán trách tôi trước tiên.

Ba chúng tôi cũng vào giường nằm co ro trong những chiếc áo cũ và cố không lăn vào chỗ đệm thủng. Chúng tôi nằm như thế khá dễ chịu nhưng rồi Michael bắt đầu lo về việc Alphie bị lây bệnh của mẹ tôi và cả chuyện tôi sẽ bị treo cổ không có mặt cha xứ. Nó bảo mọi người trên thế giới đều có nhiều anh em nên thật không công bằng khi nó chỉ còn duy nhất một người anh. Nó ngủ thiếp đi trong lo lắng, Malachy cũng lơ mơ còn tôi nằm đó nghĩ tới mứt. Có thêm một chiếc bánh mì và một lọ mứt dâu tây hay bất cứ lọ mứt gì chẳng phải tuyệt lắm sao. Tôi không nhớ là đã bao giờ tôi trông thấy một xe chở mứt chưa và tôi không muốn giống như Jesse James mang vũ khí chạy vào cửa hàng đòi người ta phải đưa cho mình một lọ mứt. Làm thế chắc chắn sẽ bị treo cổ thôi.

Có ánh nắng chiếu vào qua cửa sổ và tôi chắc bên ngoài hẳn phải ấm áp hơn và lẽ nào các em tôi lại không ngạc nhiên khi chúng tỉnh dậy thấy tôi cùng với bánh mì và mứt. Chúng sẽ ăn ngấu nghiến mọi thứ và sẽ lại lải nhải về tội lỗi của tôi và cả chuyện treo cổ nữa.

Mẹ tôi vẫn đang ngủ mê man mặc dầu mặt mẹ rất đỏ và tiếng gáy của mẹ nghe không được đều.

Tôi phải cẩn thận khi đi trên phố bởi nếu ông bảo vệ Dennehy mà nhìn thấy tôi thì ông ấy sẽ lôi cổ tôi về trường và thầy O’Halloran sẽ phạt tôi trước lớp mất. Ông bảo vệ chịu trách nhiệm về vấn đề sĩ số của trường và ông ấy thích dùng xe đạp đuổi bắt bạn và xách tai bạn lôi về trường.

Bên ngoài cửa của một căn nhà lớn ở phố Barrington có một cái hộp. Tôi giả vờ đến gõ cửa để nhìn vào trong hộp và tôi thấy trong đó có một bình sữa, một chiếc bánh mì, pho mát, cà chua, và ôi Chúa ơi, một lọ mứt cam. Tôi không thể giấu tất cả các thứ đó trong áo được. Ôi, Chúa ơi. Tôi có nên lấy cả hộp không nhỉ? Những người đi đường chẳng chú ý gì hết. Tôi có thể bê cả hộp. Mẹ tôi từng bảo dù bạn lấy trộm một con cừu to hay một con cừu non cũng thế cả thôi, bạn có thể bị treo cổ. Tôi nhấc chiếc hộp lên và cô làm ra vẻ như mình là một đứa trẻ đi đưa hàng và chẳng ai để ý tôi hết.

Malachy và Michael đã chờ sẵn ngoài cửa và khi chúng nhìn thấy những thứ trong chiếc hộp tôi mang về chúng không chần chừ giây nào mà chộp ngay lấy chiếc bánh mì bẻ ra lấy mứt chấm. Alphie vừa mút mứt vừa bôi mứt lên mặt lên tóc lên chân nó. Chúng tôi nhúng thức ăn vào chỗ trà đã nguội ngắt bởi vì bếp không còn lửa nữa.

Mẹ tôi lại rên rỉ đòi uống nước chanh và thế là tôi cho mẹ uống nửa chai nước chanh thứ hai để mẹ tôi nằm yên. Mẹ tôi đòi uống nữa và tôi rót thêm nước vào chỗ nước chanh còn lại trong chai để mẹ tôi dùng được lâu hơn bởi tôi không thể cả đời chạy ra phố lấy trộm nước chanh của người ta được. Chúng tôi tạm ổn được một lúc cho tới khi mẹ tôi bắt đầu mê sảng gọi tên em gái và hai đứa em trai đã mất của tôi, mẹ tôi than thở vì sao các em tôi bỏ mẹ tôi ra đi khi chúng còn quá bé như vậy, than thở tại sao Thượng Đế lại không để những điều tang thương ấy xảy ra với người giàu, than thở tại sao nhà chúng tôi không có nổi một chai nước chanh. Michael hỏi chúng tôi rằng liệu mẹ tôi có chết không và Malachy bảo với nó rằng người ta không thể chết trước khi một linh mục tới. Rồi Michael lại hỏi chúng tôi có thể nhóm bếp lên và pha trà hay không bởi vì nó đang rét run ở trên giường với những chiếc áo khoác cũ rách. Malachy nói chúng tôi nên đến từng nhà hỏi xin than và củi và sẽ dùng xe nôi của Alphie chở than. Chúng tôi nên mang Alphie theo bởi nó còn bé và nó hay cười và nếu người ta nhìn thấy nó người ta sẽ mủi lòng. Chúng tôi cố rửa những vết bẩn trên người Alphie nhưng khi chúng tôi để nước tiếp xúc với da của nó nó hét lên hoảng sợ. Michael bảo vào trong xe nôi đựng than là Alphie lại bẩn ngay vì thế rửa ráy cho nó chỉ phí công. Michael nhỏ tuổi nhưng nó luôn nói những câu khôn ngoan như vậy.

Chúng tôi đẩy xe nôi tới đại lộ của những người giàu có nhưng khi chúng tôi gõ cửa những người hầu ló mặt ra bảo chúng tôi hãy đi ngay nếu không họ sẽ gọi nhà chức trách tới và thật là nhục nhã khi phải đẩy một chiếc xe nôi tồi tàn, dơ dáy, bốc mùi lên tận trời, một chiếc xe không đáng dùng để chở một con lợn đến lò mổ đi khắp các phố và thật nhục nhã khi bạn phải làm việc đó ở một đất nước Công giáo nơi mà trẻ con đáng lẽ phải được yêu chiều và phải được nuôi sống để truyền Đức tin từ thế hệ này sang thế hệ khác. Malachy rủa một cô hầu hôn mông nó và thế là cô ta tát nó một cái khiến nó rớm nước mắt và nó bảo từ giờ trở đi nó không thèm đến xin gì của nhà giàu nữa. Nó bảo đi xin như thế cũng chẳng ích gì, rằng chúng tôi sẽ đi vòng ra phía sau những ngôi nhà đó và trèo tường vào mà lấy bất cứ thứ gì chúng tôi muốn. Michael sẽ rung chuông cửa trước và sẽ giữ chân những người hầu để tôi và Malachy ném than ra qua tường rồi chất than lên xe nôi quanh Alphie.

Theo cách đó chúng tôi lấy được than của mấy nhà nhưng rồi Malachy ném một cục than qua tường không may trúng vào người Alphie khiến Alphie khóc thét lên buộc chúng tôi phải bỏ mặc Michael đấy mà chạy. Malachy nói chúng tôi nên mang than về nhà trước sau đó sẽ đến tìm Michael. Bây giờ chúng tôi không thể dừng lại vì Alphie khóc khiến mọi người ném về phía chúng tôi những cái nhìn khó chịu như thể muốn nói rằng chúng tôi là nỗi hổ thẹn của mẹ chúng tôi nói riêng và của cả Ailen nói chung.

Về tới nhà chúng tôi phải mất một một lúc mới đưa được Alphie ra khỏi xe than và nó cứ khóc liên hồi khiến tôi phải lấy chút bánh mì và mứt còn lại ra dỗ nó. Tôi cứ sợ mẹ tôi sẽ lao ra khỏi giường nhưng mẹ tôi vẫn nằm đó lảm nhảm về bố tôi, về rượu và về những đứa em đã qua đời của tôi.

Malachy tìm được Michael về, và cùng với chúng là những câu chuyện rung chuông cửa. Một người phụ nữ rất giàu mở cửa và bảo Michael vào bếp nhà bà ấy ăn bánh, uống sữa, ăn bánh mì và mứt. Bà ấy hỏi về gia đình chúng tôi và nó nói với bà ấy rằng bố chúng tôi có một công việc rất khá ở Anh nhưng mẹ chúng tôi đang bị ốm rất nặng và chỉ luôn miệng đòi uống nước cam. Người phụ nữ giàu có đó muốn biết ai đang chăm sóc chúng tôi và Michael khoe rằng chúng tôi tự trồng nhau, rằng chúng tôi đầy bánh mì và mứt cam. Người phụ nữ đó ghi tên và địa chỉ của Michael, khen nó ngoan và bảo nó về nhà với mẹ và các anh.

Malachy mắng Michael là đồ ngốc đã nói cho cái bà nhà giàu ấy mọi chuyện. Nó bảo giờ thì bà ta sẽ đi tố cáo chúng tôi và chúng tôi chưa kịp biết tí gì thì các linh mục của cả thế giới đã đến gõ cửa nhà chúng tôi rồi.

Nó vừa nói dứt lời thì bỗng có tiếng đập cửa dồn dập. Nhưng đó không phải là một linh mục mà là ông bảo vệ Dennehy. Ông ta vừa đập cửa vừa gọi to:

Chào, có ai ở nhà không? Bà có nhà không bà McCourt?

Michael nhanh nhảu chạy ra gõ gõ vào cửa sổ và vẫy ông bảo vệ. Tôi tức quá đá cho nó một cái còn Malachy thì tung một quả đấm cảnh cáo và thế là Michael la lên:

Em sẽ nói cho ông bảo vệ biết. Em sẽ nói cho ông ấy biết. Các anh ấy giết cháu, ông bảo vệ ơi. Các anh ấy đấm đá cháu đây này.

Nó không chịu im còn ông bảo vệ thì quát inh cả lên bắt chúng tôi phải mở cửa. Tôi thò đầu qua cửa sổ bảo với ông ấy rằng tôi không thể mở cửa được bởi vì mẹ tôi đang bị mắc một căn bệnh nguy hiểm.

Thê bố các cậu đâu hả? Bố cháu ở Anh. Vậy thì tôi phải nói chuyện với mẹ các cậu. Ông không thể. Ông không thể. Mẹ cháu bị bệnh nặng. Tất cả chúng cháu đều bị bệnh. Có lẽ bị thương hàn. Chúng cháu đã bị những vết đỏ rồi đây này. Em Alphie đã bị mọc bướu. Bệnh chết người đấy ông ạ.

Mặc chúng tôi nói gì ông bảo vệ cứ đẩy cửa vào và xuất hiện ở trên gác đúng lúc Alphie chui từ dưới gầm giường ra mắt mũi lấm lem. Ông bảo vệ nhìn nó và mẹ tôi rồi bỏ mũ ra đưa tay lên gãi đầu. Ông ấy nói:

Lạy Chúa Jésus, thánh Maria và thánh Joseph, đây đúng là một trường hợp tuyệt vọng còn gì. Sao mẹ các cậu lại ốm đến nông nổi này?

Tôi bảo với ông ấy rằng không nên đến gần mẹ tôi còn Malachy thì bảo rằng chúng tôi còn lâu mới lại đi học tiếp được nhưng ông bảo vệ nói cho dù có chuyện gì đi nữa chúng tôi vẫn phải đi học, rằng chúng tôi có mặt trên đời là để đi học còn ông ấy có mặt trên đời là để đảm bảo rằng chúng tôi phải có mặt ở trường. Ông ấy muốn biết chúng tôi có họ hàng thân thuộc gì không và rồi ông ấy bắt tôi đi gọi bà tôi và bác Aggie.

Họ mắng tôi té tát và bảo tôi là đổ bẩn thỉu. Tôi cố giải thích rằng mẹ tôi ốm và tôi thì phải vất vả lo cho tất cả nhà, phải giữ lửa trong bếp, phải kiếm nước chanh cho mẹ tôi và bánh mì cho các em tôi. Có kể với họ về mứt cam cũng chẳng ích gì bởi họ sẽ lại mắng tôi thôi. Và cũng chẳng phàn nàn với họ về thái độ của những người giàu làm gì.

Họ dong tôi về nhà, mắng tôi suốt dọc đường khiến tôi xấu hổ. Ông bảo vệ vẫn đứng đó gãi đầu. Ông ấy nói:

Xem đấy, đúng là một sự nhục nhã. Ó Bombay và Bowery ở New York cũng chẳng có những cảnh như thế này đâu.

Bà tôi nhìn mẹ tôi than vãn:

Lạy Chúa, Angela, Con bị làm sao thê này? Những người đó đã làm gì con?

Mẹ tôi liếm đôi môi khô nẻ của mình và rên ri đòi uống nước chanh:

Mẹ đòi uống nước chanh đấy, - Michael nói, - Chúng cháu lấy trộm nước chanh cho mẹ và còn lấy trộm cả bánh mì và mứt cam nữa, bây giờ tất cả chúng cháu đều là tội phạm. Frankie thành tội phạm trước, chúng cháu đi lấy trộm than thành tội phạm sau.

Ông bảo vệ có vẻ thích câu chuyện của Michael, ông ấy đưa nó xuống nhà và mấy phút sau chúng tôi nghe thấy tiếng ông ấy cười. Bác Aggie nói chúng tôi làm như thế với một người mẹ ốm nằm trên giường thật đáng xấu hổ. Ông bảo vệ quay lên gác bảo bác Aggie nên tìm bác sĩ cho mẹ tôi. Mỗi khi ông ấy nhìn tôi và các em tôi ông ấy lại lấy mũ che mặt và nói:

Những đứa-trẻ tuyệt vọng, đúng là những đứa trẻ tuyệt vọng.

Bác Aggie đưa bác sĩ tới và ông ấy đưa ngay mẹ tôi vào bệnh viện bằng ô tô của mình vì ông ấy bảo mẹ tôi bị viêm phổi. Anh em chúng tôi muốn được ngồi xe ô tô của ông bác sĩ nhưng bác Aggie quát:

Không được, tất cả chúng mày phải đến nhà tao cho đến khi nào mẹ chúng mày được ra viện.

Tôi bảo với bác ấy rằng bác ấy không phải lo. Tôi mười một tuổi và tôi có thể trông các em tôi được. Tôi vui vì được ở nhà không phải đi học và tôi nói tôi sẽ đảm bảo các em tôi được ăn uống và tắm rửa. Nhưng bà tôi hét lên rằng tôi không được làm thế còn bác Aggie thì đấm tôi một cái. Ong bảo vệ bảo tôi còn quá nhỏ không thể làm tội phạm cũng không thể làm một người cha được nhưng tôi rất có triển vọng trong cả hai vai trò này.

Mặc quần áo vào mau lên - Bác Aggie quát. - Chúng mày sẽ đến nhà tao cho tới khi mẹ chúng mày được ra viện. Lạy Chúa, đứa trẻ này đúng là một sự nhục nhã.

Bác ấy tìm được một mảnh tã và quấn quanh đít Alphie để nó khỏi bậy ra xe nôi. Rồi bác ấy nhìn chúng tôi và quát: “Sao còn đứng ngây ra đó không đi mặc quần áo đi hả?” Tôi sợ bác ấy sẽ đánh tôi khi tôi nói rằng quần áo của chúng tôi đã ở cả trên người chúng tôi rồi. Nhưng bác ấy chỉ nhìn tôi trừng trừng và lắc đầu chán ngán. Bác ấy bảo tôi cho nước và đưòng vào chai cho Alphie. Bác ấy bảo tôi đẩy xe qua các phố vì bác ấy không thể đẩy cái xe bẩn thỉu nặng như đeo đá không đáng để chở một con chó ghẻ ấy. Bác ấy vớ ba cái áo khoác cũ ở trên giường ấn chúng vào xe và nếu bạn nhìn không tinh thì bạn không thể thấy Alphie ở trong xe.

Bà tôi đi cùng chúng tôi từ ngõ Roden đến căn hộ của bác Aggie ở phố Windmill: “Mày không thể đẩy cái xe ấy cho ngay ngắn được sao? Lạy Chúa, mày giết nó mất. Đừng có để xe lắc như thế nếu không tao sẽ tát cho đấy”. Bà tôi không vào nhà bác Aggie. Bà tôi không thể chịu đựng nổi chúng tôi thêm một phút nào nữa. Bà tôi đã chán cả bầu đàn thê tử nhà McCourt từ cái ngày bà tôi phải gửi tiền mua vé cho sáu chúng tôi từ Mỹ về Ailen, rồi bỏ tiền ra lo đám tang cho các em, rồi cho chúng tôi thức ăn mỗi khi bố tôi uống rượu hết cả tiền trợ cấp, rồi giúp mẹ tôi sống qua ngày trong khi người bố nát rượu của tôi đổ hết tiền lương mà nước Anh trả vào cổ chai. Ôi, bà đã ngán lắm rồi, ngán lắm rồi, và bà quay gót bước đi xuống phố Herry, kéo chiếc khăn choàng đen chùm lên mái đầu tóc trắng của bà.

Khi bạn mười một tuổi và các em bạn đứa lên mười, đứa lên năm, đứa mới chỉ một tuổi bạn sẽ không biết phải làm gì khi bạn đến nhà người khác cho dù đó là nhà của bác ruột bạn. Người ta bảo bạn bế em bé vào bếp nhưng đó đâu phải là nhà của bạn và khi đã vào trong bếp rồi bạn không biết phải làm gì vì bạn sợ bác của bạn sẽ mắng hoặc đánh vào đầu bạn. Bác Aggie cởi áo khoác của bác ấy ra và cất nó vào phòng ngủ và bạn bế em đứng đó đợi nghe lệnh mới. Nếu bạn bước một bước lên phía trước hoặc bước một bước sang ngang là bác Aggie sẽ ra và hỏi bạn đi đâu và bạn không biết phải trả lời thế nào bởi chính bạn cũng đâu có biết. Nếu bạn nói gì với các em bạn thì có thể bác Aggie sẽ nói “mày nghĩ mày đang nói chuyện với ai trong bếp nhà tao hả?” Chúng tôi phải đứng và phải im lặng và điều đó quả là khó khi mà tiếng tong tong vọng ra từ phòng ngủ nghe rõ mồn một và chúng tôi biết bác Aggie đang đi tiểu ở trong đó. Tôi không dám nhìn Malachy. Nếu tôi mà nhìn nó thì tôi sẽ cười ngay, nó cũng sẽ cười rồi Michael cũng sẽ cười và nếu chúng tôi mà cười thành tiếng thì chúng tôi sẽ nguy mất và nếu chúng tôi mà cười thì hình ảnh cái mông to bè của bác Aggie trên một cái bô hoa văn nhỏ tẹo hiện lên trong đầu chúng tôi sẽ khiến chúng tôi cười đến mấy ngày không dừng lại được mất. Tôi có thể nhịn cười được. Tôi sẽ không cười. Malachy và Michael sẽ không cười và rõ ràng là chúng tôi tự hào vì mình đã không cười, không gây rắc rối với bác Aggie cho tới khi Alphie trên tay tôi cười và nói Goo goo và thế là chúng tôi không nhịn được nữa. Chúng tôi phá lên cười và Alphie với cái mặt bẩn thỉu cũng cười và nói Goo goo cho tới khi chúng tôi cười rũ cả người ra và bác Aggie hét lên, chạy tới giáng cho tôi một cú đấm vào đầu khiến tôi và cả Alphie tưởng chừng như dính vào tường. Bác ấy cũng đánh cả Malachy và cố đánh cả Michael nữa nhưng nó nhanh chân chạy sang phía bên kia chiếc bàn tròn khiến bác ấy không chạm tay đến nó được. Bác ấy gào lên: “Lại đây mau. Tao sẽ cho cái miệng của mày mất cười” nhưng Michael vẫn chạy quanh bàn còn bác Aggie thì béo quá nên chẳng thể nào tóm được nó. Bác ấy tức tối: “Rồi tao sẽ tóm được mày thôi, tao sẽ đốt cái mông mày, còn mày, bỏ em mày xuống đất đi”. Bác ấy ném những cái áo khoác cũ của chúng tôi xuống sàn nhà và tôi đặt Alphie nằm xuống đó để cho nó vừa cầm chai nước đường vừa nói Goo goo vừa cười. Bác Aggie ra lệnh cho chúng tôi cởi hết quần áo ra và ra chỗ vòi nước ở sân sau kỳ cọ người không được để xót chỗ nào. Bác ấy bảo chúng tôi không được phép trở vào nếu còn dù chỉ một vết bẩn nhỏ trên người. Tôi muốn nói với bác ấy rằng trời tháng Hai lạnh lắm, bên ngoài gần như đóng băng rồi, chúng tôi không thể chết tất được, nhưng tôi biết nếu tôi mà mở miệng thì có lẽ tôi sẽ chết ngay trong bếp này mất.

Chúng tôi ở sân sau trần như nhộng dưới vòi nước lạnh buốt. Bác tôi mở cửa bếp và ném ra cho chúng tôi một cái bàn chải và một bánh xà phòng màu nâu giống như bánh xà phòng người coi ngựa dùng để tắm cho con Finn. Bác ấy quát chúng tôi phải kỳ lưng cho nhau và không được dừng lại cho đến chừng nào bác ấy bảo thôi. Michael bảo chân tay nó sắp rụng đến nơi rồi nhưng bác Aggie không quan tâm. Bác ấy cứ luôn miệng nói rằng chúng tôi vẫn chưa sạch và nếu chúng tôi để bác ấy phải đích thân ra kỳ cho chúng tôi thì chúng tôi sẽ hối hận cả ngày. Lại hối hận. Tôi kỳ mạnh tay hơn. Tất cả chúng tôi cùng kỳ cọ cho tới khi người đứa nào đứa nấy đỏ cả lên còn hai hàm răng thì gõ vào nhau cầm cập. Như thế vẫn chưa đủ đối với bác Aggie. Bác ấy đi ra cùng với một cái xô trên tay và bác ấy xả nước vào xô dội ào ào lên người chúng tôi. Rồi bác quát chúng tôi lau khô người. Chúng tôi đứng trong cái lán nhỏ cạnh bếp lau khô người bằng một cái khăn tắm. Chúng tôi đứng trong đó run bần bật và chờ đợi bởi bạn không thể đi như diễu hành vào bếp nhà bác tôi được khi không có lệnh của bác ấy. Chúng tôi nghe thấy tiếng bác ấy nhóm lửa trong bếp rồi nghe tiếng bác ấy gọi: “Chúng mày còn định đứng ngoài ấy cả ngày phỏng? Vào mặc quần áo ngay”.

Bác ấy đưa cho chúng tôi mỗi đứa một tách trà và một miếng bánh mì và chúng tôi ngồi ở bàn lặng lẽ ăn bởi chúng tôi không được nói cho tới khi bác tôi bảo nói. Michael hỏi xin một miếng bánh nữa và chúng tôi tưởng nó sắp bị bác ấy quật ngã khỏi ghế nhưng bác ấy chỉ càu nhàu: “Cho mỗi đứa một miếng nữa, ăn đi”. Bác ấy cố cho Alphie ăn bánh mì nhúng trà nhưng nó không ăn cho đến khi bác ấy rắc đường lên miếng bánh nó mới ăn và khi ăn xong nó cười và tè ra bác ấy khiến chúng tôi rất khoái. Bác tôi chạy ra lán lấy khăn đập đập lên chỗ ướt trên quần áo mình còn chúng tôi thì ngồi ở bàn đưa mất nhìn nhau cười và thầm nói với Alphie rằng nó là nhà vô địch nhỏ tuổi của thế giới. Bác Pa Keating đi làm về, toàn thân đen nhẻm. Thấy chúng tôi ở đó bác ấy reo lên:

Ôi, Chúa ơi, gì thế này?

Michael nhanh nhảu:

Mẹ cháu phải đi viện, bác Pa ạ. Vậy sao? Mẹ các cháu làm sao? BỊ viêm phổi ạ - Malachy trả lời. Ô, bị thế còn hơn là bị Oldmonia.

Chúng tôi không biết bác ấy cười vì cái gì và bác Aggie đi vào nói cho bác Pa biết rằng mẹ tôi phải nằm viện vì thế chúng tôi phải ở lại nhà họ cho tới khi mẹ tôi được về nhà. Bác Pa gật gù: “Được thôi, được thôi” rồi bác ấy đi ra lán để rửa ráy và chúng tôi chẳng biết bác ấy đã động đến nước chưa mà khi trở lại người bác ấy vẫn đen như cũ.

Bác Pa ngồi xuống bàn và bác Aggie sắp bữa tối cho chồng với món bánh mì rán, giâm bông, và cà chua thái miếng. Bác Aggie bảo chúng tôi đứng ra khỏi bàn và đừng có nhìn bác Pa uống trà và bảo bác Pa không việc gì phải cho chúng tôi giãm bông và cà chua của bác ấy nữa. Bác Pa nói: “Vì Chúa Aggie, bọn trẻ đang đói” và bác Aggie gắt: “Không việc gì đến anh. Chúng có phải là con anh đâu”. Bác Aggie bảo chúng tôi đi chơi và đúng tám rưỡi phải về ngủ. Chúng tôi biết bên ngoài trời lạnh lắm chúng tôi muốn ở trong căn bếp ấm áp của bác ấy nhưng ra ngoài chơi trên đường phố lạnh giá còn dễ chịu hơn ở trong đó với bác Aggie nóng tính.

Chúng tôi chơi được một lúc thì bác Aggie gọi tôi về bảo tôi lên tầng trên mượn tấm khăn trải giường bằng cao su của một phụ nữ có đứa con đã bị chết. Người phụ nữ đó bảo tôi:

Nói với bác của cháu là khi nào tôi sinh em bé nữa thì phải nhớ trả tôi đấy.

Bác Aggie nghe tôi nói lại liền bĩu môi:

Con bà ta chết cách đây mười hai năm rồi mà bà ta vẫn giữ khư khư cái khăn trải giường đó. Giờ bà ta đã bốn mươi lăm tuổi rồi, nếu bà ta lại có con nữa thì chắc dưới đất có sao mất.

Malachy hỏi:

Thế là thế nào ạ?

Bác Aggie bảo nó còn bé đừng có tò mò những chuyện của người lớn.

Bác Aggie trải tấm khăn bằng cao su lên giường ngủ của bác ấy và đặt Alphie nằm giữa bác ấy và bác Pa. Bác ấy nằm ở phía trong tường còn bác Pa nằm ở phía ngoài bởi sáng bác Pa phải dậy sớm đi làm. Chúng tôi ngủ ở dưới sàn phía bức tường đối diện với một cái áo khoác cũ trải ở dưới và hai chiếc để đắp. Bác Aggie nói nếu bác ấy mà nghe thấy chúng tôi nói một tiếng thì bác ấy sẽ đánh đít chúng tôi và bác ấy còn bảo rằng sáng hôm sau chúng tôi phải dậy sớm vì hôm sau là ngày thứ Ba có lễ nhận tro và chúng tôi phải đi lễ Mixa để cầu nguyện cho mẹ tôi mau khỏi bệnh.

Tiếng chuông báo thức làm chúng tôi choàng tỉnh. Bác Aggie ở trên giường gọi xuống:

- Ba đứa chúng mày mau dậy đi lễ Mixa đi. Chúng mày nghe chưa hả? Dậy. Rửa mặt đi rồi đi đến nhà thờ dòng Tên đi.

Sân sau nhà bác Aggie đầy sương đóng thành những cục băng nhỏ và chúng tôi muốn rụt tay lại trước làn nước lạnh buốt. Chúng tôi vục một ít nước lên mặt rồi vội lau khô mặt ngay bằng chiếc khăn tắm vẫn còn ẩm. Malachy nói thầm rằng nếu mẹ tôi mà có mặt ở đó thế nào mẹ tôi cũng bảo chúng tôi rửa mặt như mèo.

Đường phố đầy sương và băng nhưng nhà thờ dòng Tên khá ấm áp. Thật sướng khi được làm một thầy tu dòng Tên, được ngủ trên giường có khăn trải, có chăn gối dày và thức dậy trong một ngôi nhà ấm áp và một nhà thờ ấm áp chẳng phải làm gì ngoài việc chủ trì lễ Mixa, nghe xưng tội và nhắc nhở mọi người làm tốt bổn phận con chiên. Tôi muốn một ngày nào đó tôi sẽ trở thành một thầy tu dòng Tên nhưng khi bạn lớn lên trong một cái ngõ như ngõ nhà tôi thì bạn chẳng có hy vọng đạt được ý muốn đó. Những thầy tu dòng Tên rất đặc biệt. Họ không thích những người nghèo. Họ thích những người đi xe ô tô, những người cong ngón tay út lên khi cầm tách trà.

Lúc bảy giờ nhà thờ chật ních những người đến nhận tro rắc trán. Malachy thì thầm với tôi rằng Michael sẽ không được nhận tro bởi nó chưa chịu lễ ban thánh thể đầu tiên và đó là một tội lỗi. Michael bắt đầu khóc:

Em muốn tro cơ, em muốn tro.

Một bà già đứng sau chúng tôi nói:

Các cậu làm gì đứa bé dễ thương này vậy?

Malachy giải thích rằng đứa bé dễ thương mà bà ấy bênh chưa bao giờ nhận thánh thể và nó không được hưởng Ân thánh hóa. Malachy chuẩn bị nhận lễ Ban thánh thể đầu tiên nên nó luôn khoe khoang những gì nó học được từ cuốn giáo lý vấn đáp. Nó không công nhận là tôi biết tất cả những cái đó vì nó bảo tôi học từ năm ngoái nên chắc chắn là đã quên nhiều. Bà già đứng sau chúng tôi nói rằng không cần phải biết những cái đó chúng tôi cũng có thể nhận tro và bảo Malachy đừng có trêu trọc đứa em tội nghiệp nữa. Bà ấy xoa đầu Michael và bảo với nó rằng nó là một đứa bé dễ thương và bảo nó cứ việc lên nhận tro. Nó chạy ngay đến bệ thờ và khi nó trở lại bà già đó cho nó một xu.

Bác Aggie vẫn còn nằm trên giường với Alphie. Bác bảo Malachy đổ sữa vào chai mang tới cho Alphie. Bác sai tôi nhóm bếp, bảo tôi chỗ lấy củi, giấy và than. Nếu lửa không bén thì tôi có thể dùng một ít dầu để nhóm. Tôi làm theo lời bác và làm cho khói bốc lên mù mịt khiến bác ấy nhảy khỏi giường chạy bổ vào bếp. Bác đẩy tôi ra và rít lên:

Mày không làm nổi việc gì sao? Mày phải mở nắp bếp ra chứ, cái thằng đần này.

Tôi không biết gì về những cái nắp bếp hết. Ở nhà chúng tôi có một cái bếp ở nhà dưới và một cái bếp ở trên gác và tôi chẳng thấy có cái nắp bếp nào cả. Khi bạn đến nhà bác Aggie bạn phải biết rõ những cái nắp bếp. Có nói với bác ấy rằng đây là lần đầu tiên bạn nhóm lửa từ một cái bếp có lò nướng cũng chẳng ích gì. Bác ấy sẽ lại cho bạn một cú đấm vào đầu nữa mà thôi. Thật khó mà hiểu được tại sao người lớn lại tức giận như thế chỉ vì những thứ nhỏ nhặt như cái nắp bếp. Khi nào tôi trở thành người lớn nhất định tôi sẽ không đánh vào đầu một đứa trẻ vì một cái nắp bếp hay vì bất cứ điều gì đi nữa. Giờ thì tôi vẫn phải nghe bác tôi la mắng tôi: “Mày nhìn xem mày đã làm chỗ này dơ bẩn như thế nào. Mày không biết nghĩ đến một việc con con như việc mở cái cửa sổ cho khói bay ra hay sao? Tất nhiên là mày chẳng nghĩ được. Bây giờ mày có nghĩ là mày có thể đun nước pha trà mà không thiêu cháy cả cái nhà này không, hả?”.

Bác Aggie cắt chiếc bánh mì ra làm ba, phết mứt cam vào từng miếng bánh, đưa cho chúng tôi mỗi đứa một miếng còn mình thì lại quay về giường nằm. Chúng tôi uống trà, ăn bánh, và lần đầu tiên trong đời chúng tôi thấy thích được đến trường, đến một nơi ấm áp không có bà bác nóng tính nào.

Khi tôi ở trường về bác Aggie bảo tôi ngồi vào bàn và viết một bức thư cho bố tôi kể cho bố tôi biết chuyện mẹ tôi bị ốm phải nằm viện và chuyện tất cả chúng tôi đang ở nhà bác Aggie. Bác Aggie bảo tôi phải viết rằng tất cả chúng tôi đều khỏe mạnh, vui vẻ, rằng bố tôi phải gửi tiền về vì thức ăn rất đắt đỏ, vì chúng tôi đang tuổi lớn ăn rất khỏe, rằng Alphie cần quần áo ấm và tã lót.

Tôi không biết tại sao bác tôi luôn tức giận như vậy. Căn hộ của bác ấy ấm áp và khô ráo. Bác ấy có điện dùng và có nhà vệ sinh riêng. Bác Pa có một công việc ổn định và thứ Sáu nào bác ấy cũng mang tiền lương về đưa cho bác Aggie. Bác Pa có uống rượu nhưng bác ấy không bao giờ say đến nỗi về nhà hát ngêu ngao những bài hát về lịch sử đau thương của Ailen.

Mỗi khi bác Aggie đi chơi bài ở khu công nhân chúng tôi lại được vui vẻ với bác Pa. Bác ấy mua hai chai rượu từ quán South, sáu cái bánh sữa và nửa cân giăm bòng từ một cửa hàng gần nhà. Bác ấy pha trà và chúng tôi ngồi bên bếp vừa uống trà vừa ăn giăm bông và bánh sữa vừa cười khoái trá trước cái cách bác ấy nói về thế giới. Bác ấy nói: “Bác đã nuốt khí gas, uống rượu, bác cóc thèm quan tâm đến thế giới cùng những thằng anh em họ của nó”. Nếu Alphie chán chỗ, làu bàu hoặc khóc bác ấy kéo áo lên đến ngực và nói với nó: “Đây, bú đi, bú đi”. Nhìn bộ ngực phẳng lì với hai cái ti màu nâu nâu của bác ấy Alphie có vẻ rất ngạc nhiên và thế là nó lại ngoan.

Trước khi bác Aggie về nhà chúng tôi phải rửa sạch chén bát và lau sạch sàn để bác ấy không biết là chúng tôi đã ăn bánh trong khi bác ấy vắng nhà. Bác ấy sẽ đay nghiến bác Pa cả tháng nếu bác ấy phát hiện ra điều đó và tôi thật không hiểu tại sao lại như vậy. Tại sao bác Pa để cho bác Aggie rầy la mình như vậy? Bác Pa đã từng tham gia Đại chiến, bác ấy bị nhiễm khí gas, bác ấy là người lớn, bác ấy có việc làm, bác ấy biết làm cho cả thế giới buồn cười. Đó là một điều bí mật. Các linh mục và các thầy giáo nói rằng tất cả là một bí mật và bạn phải tin lời họ nói chứ biết làm sao.

Tôi dễ dàng coi bác Pa như một người cha. Chúng tôi có những lúc vui vẻ bên bếp lửa uống trà và phá lên cười trước cái cách bác Pa vừa đánh rắm vừa nói: “Bật diêm lên. Đó là một món quà của người Đức”.

Bác Aggie lúc nào cũng hành hạ tôi. Bác ấy bảo tôi có đôi mắt của một kẻ đê tiện. Bác ấy nói rằng tôi là bản sao của bố tôi, tôi có tính khí kỳ quặc, rằng thể nào khi lớn lên tôi cũng tôn thờ Oliver Cromwell và sẽ bỏ gia đình mà chạy theo một con điếm người Anh và treo đầy những bức ảnh của hoàng gia lên tường nhà mình.

Tôi muốn tránh xa bác Aggie và tôi chỉ có thể nghĩ ra mỗi một cách để thực hiện điều đó. Đó là làm cho mình bị ốm để vào viện. Nửa đêm tôi thức dậy mò ra sân sau nhà bác tôi. Tôi có thể giả vờ đi vệ sinh. Tôi đứng ngoài trời dưới trời rét buốt và hy vọng rằng mình sẽ mắc viêm phổi hoặc lao phổi để tôi có thể vào nằm viện, được ngủ trên giường trải khăn sạch sẽ, được ăn tại giường và được đọc những cuốn sách do cô gái mặc váy xanh mang tới. Tôi có thể sẽ gặp một Patricia khác và sẽ biết thêm những bài thơ tuyệt vời. Tôi đứng trong sân với độc một bộ quần áo mỏng trên người và đôi chân trần nhìn lên vầng trăng như con thuyền bị lật giữa biển mây và đến khi người tôi run lên bần bật tôi mới quay lại giường thầm mong sáng ra tôi sẽ ho không ngớt và sốt hầm hập. Nhưng tôi không sao cả. Tôi cảm thấy mình hoàn toàn khỏe mạnh và hoạt bát.

Có những hôm bác Aggie bảo rằng bác ấy không muốn nhìn thấy chúng tôi thêm một phút nào nữa và bác ấy quát: “Đi ngay, biến ngay cho khuất mắt tao. Thằng kia, đưa ngay Alphie vào xe, đưa tất cả các em mày đi đi, biến ra công viên mà chơi, làm gì tùy thích và khi nào chuông nhà thờ báo sáu giờ hãy về, không được muộn một phút, nghe rõ chưa, không được muộn một phút”.

Chúng tôi đẩy xe nôi dọc đại lộ O’Connell ra phố Ballinacurra hoặc đường Rosbrien. Chúng tôi để Alphie bò trên cánh đồng nhìn những đàn bò, đàn cừu và chúng tôi lăn ra cười khi lũ bò đến bên nó ngửi ngửi. Tôi chui xuống dưới bụng những con bò sữa vắt sữa vào miệng Alphie cho tới khi nó no quá trớ cả sữa ra mới thôi. Những người nông dân đuổi bắt chúng tôi nhưng rồi họ nhìn thấy Michael và Alphie bé quá họ lại thôi. Malachy cười giễu họ. Nó thách họ:

Đánh đi, đánh cháu đi, cháu đang bế em bé đấy, đánh đi.

Rồi Malachy nảy ra một sáng kiến, nó bảo tôi:

Sao chúng ta không về nhà mình chơi một lúc nhỉ? Chúng tôi kiếm một ít củi trên cánh đồng rồi kéo nhau về ngõ Roden. Trên gác vẫn còn diêm và thế là chúng tôi nhóm lửa lên. Alphie lăn ra ngủ và chẳng bao lâu tất cả chúng tôi đều lơ mơ ngủ. Đang lơ mơ chúng tôi chợt nghe thấy tiếng chuông nhà thờ đổ sáu tiếng và chúng tôi biết thế nào chúng tôi cũng gặp rắc rối với bác Aggie vì về muộn.

Tôi không quan tâm. Bác ấy muốn la mắng tôi thế nào thì tùy bởi dù gì chúng tôi cũng đã có khoảng thời gian tuyệt vời ngoài cánh đồng ở ngoại ô với những con bò và cừu rồi lại còn được về ngôi nhà của chúng tôi một lúc nữa.

Bạn có thể nói là bác tôi chẳng bao giờ có được những lúc vui vẻ như thế. Bác ấy có đèn điện và một cái nhà vệ sinh riêng không phải chung đụng với ai nhưng không có những giờ phút vui vẻ.

Cứ thứ Năm và Chủ nhật bà tôi lại đến để cùng bác Aggie đi thăm mẹ tôi. Chúng tôi không thể đi cùng bởi bệnh viện người ta cấm trẻ con và nếu tôi hỏi: “Mẹ cháu thế nào?” là y rằng họ quằu quặu nhìn tôi và bảo: “Vẫn còn sống”. Chúng tôi muốn biết khi nào mẹ tôi ra viện để chúng tôi có thể về nhà nhưng tôi không dám mở miệng hỏi.

Một hôm Malachy kêu đói với bác Aggie và hỏi xin bác ấy một miếng bánh mì. Bác ấy cầm cuốn Người đưa tin của Trái tim Chúa cuộn lại đập vào đầu nó khiến nó rưng rưng nước mắt. Ngày hôm sau tan học nó không về nhà, đến giờ đi ngủ vẫn không thấy nó đâu cả. Bác Aggie nói:

Tao nghĩ nó bỏ đi rồi. Thật nhẹ nợ. Nếu nó đói nó sẽ phải mò về. Cứ để nó tìm sự thoải mái trong một cái rãnh cũng được.

Hôm sau Michael từ ngoài phố chạy về nhà bác tôi kêu to: “Bố, bố về, bố về rồi”. Nói rồi nó lại chạy ra và tôi nhìn thấy bố tôi đứng dưới hiên ôm lấy Michael và khóc:

Tội nghiệp mẹ các con, tội nghiệp.

Tôi ngửi thấy mùi rượu từ người bố tôi. Bác Aggie mỉm cười:

Ồ, chú về rồi, - và bác đi pha trà, dọn trứng và pho mát ra bàn. Bác sai tôi đi mua cho bố tôi một chai rượu và tôi cứ tự hỏi không biết tại sao bác Aggie đột nhiên lại vui vẻ dễ chịu như thế. Michael hỏi bố tôi: Chúng ta về nhà chứ bố? Ừ, về con trai ạ.

Alphie được đặt vào trong xe nôi với ba cái áo khoác cũ cùng than và củi nhóm bếp. Bác Aggie đứng ở cửa nói với theo rằng chúng tôi là những đứa trẻ ngoan ngoãn, và rằng chúng tôi có thể đến uống trà bất cứ lúc nào, và khi nghe thấy thế trong đầu tôi nảy ra một từ rất tục “đồ chó cái”. Nó nảy ra trong đầu tôi và tôi không thể ngăn nó được và rồi đến buổi xưng tội tôi lại có thêm một tội nữa phải xưng với Cha xứ.

Malachy không ở trong cái rãnh nào cả, nó về nhà chúng tôi ăn chỗ cá tẩm bột chiên nó nhật được của một người say ở trước cổng Sarsíield Barracks.

Hai ngày sau mẹ tôi ra viện. Mẹ tôi trông rất xanh và yếu. Mẹ tôi bảo bác sĩ dặn mẹ tôi phải giữ ấm, phải nghỉ ngơi và ăn các thức ăn bổ dưỡng như trứng và thịt ít nhất là ba lần một tuần. Cầu Chúa giúp chúng tôi, những ông bác sĩ tội nghiệp đó đâu biết đến cái ý niệm không có. Bố tôi pha trà và cắt bánh mì nướng cho mẹ tôi ăn. Bố tôi rán bánh cho chúng tôi và chúng tôi có một buổi tối vui vẻ trên căn gác ấm. Bố tôi bảo bố tôi không thể ở nhà mãi được, bố phải trở lại Coventry làm việc. Mẹ tôi lo không biết bố tôi làm thế nào mà trở lại Coventry được khi không có lấy một xu dính túi. Sáng thứ Bảy bố tôi dậy sớm và hai bố con tôi uống trà với nhau bên bếp. Bố tôi rán bốn miếng bánh và gói chúng vào một mảnh của tờ Limerick Chronicle. Mẹ tôi vẫn nằm và bố tôi đứng dưới chân cầu thang gọi với lên chào mẹ tôi. Mẹ tôi thều thào: “Ừ, anh đi đi. Đến nơi nhớ viết thư về”. Bố tôi sắp lên đường đi Anh còn mẹ tôi thì vẫn chưa ra khỏi giường được. Tôi xin bố cho tôi ra ga tiễn bố. Bố tôi nói không, rằng bố không ra ga. Bố tôi đi đến Dublin để tìm cách đi nhờ. Bố tôi xoa đầu tôi, bảo tôi ở nhà chăm sóc mẹ và các em rồi bố tôi bước ra cửa. Tôi chạy ra ngõ nhìn theo bố tôi đi xuôi xuống Đồi Barrack và phố thánh Joseph. Tôi chạy theo bố mãi cho tới khi tôi không theo nổi nữa. Bố tôi hẳn là biết tôi đi theo bố vì có lúc bố ngoái lại gọi: “Về nhà đi, Francis, về nhà với mẹ và các em đi”.

Bố tôi đi được đúng một tuần thì chúng tôi nhận được một bức thư của bố, trong đó bố tôi thông báo rằng bố đã đến nơi an toàn và bố tôi còn dặn chúng tôi phải ngoan, phải thực hiện bổn phận con chiên và trên hết phải nghe lời mẹ. Tuần kế tiếp chúng tôi nhận được một giấy lĩnh tiền với số tiền ba bảng và chúng tôi sung sướng không tả nổi. Chúng tôi sẽ giàu có, sẽ được ăn cá tẩm bột chiên, sẽ được ăn thịt đông và bánh sữa, sẽ được đi xem phim vào tối thứ Bảy ở rạp Lyric, rạp Coliseum, rạp Carỉton, rạp Atheneum và trên hết rạp Savoy. Chúng tôi sẽ được ăn bánh ở nhà hàng Savoy. Chúng tôi có thể cầm những tách trà và cong ngón tay út lên.

Thứ Bảy sau đó chúng tôi không nhận được giấy lĩnh tiền, thứ Bảy tiếp theo cũng không và không bao giờ nữa cả. Mẹ tôi lại đến xin cứu tế ở hội thánh Vincent de Paul và lại phải nặn ra những nụ cười trước mặt các ông Coffey và Kane ở Bệnh xá miễn phí cho dù các ông ấy hành hạ mẹ tôi bằng chuyện bố tôi đi theo một gái điếm Piccadilly mà các ông ấy bịa ra để mua vui. Michael muốn biết điếm là gì và mẹ tôi bảo nó rằng đó là một thứ người ta dùng để uống với trà. Hầu như ngày nào mẹ tôi cũng chỉ ngồi bên bếp hút thuốc với cô Bridey. Chúng tôi đi học về trên bàn vẫn còn nguyên những vụn bánh rơi. Mẹ tôi không rửa bát, chén và để mặc ruồi nhặng bâu vào những chỗ còn dính đường.

Mẹ tôi nói rằng tôi và Malachy phải thay nhau trông Alphie, phải đưa nó đi ra ngoài hít thở không khí trong lành. Mẹ tôi bảo không được giữ em tôi ở trên gác suốt từ tháng Mười đến tháng Tư được. Nếu chúng tôi nói chúng tôi muốn đi chơi với các bạn của chúng tôi thì lập tức mẹ tôi nổi cơn tam bành khiến chúng tôi váng cả óc.

Chúng tôi chơi với Alphie và chiếc xe nôi. Tôi đứng trên đỉnh đồi Barrack còn Malachy đứng ở chân đồi. Khi tôi đẩy chiếc xe xuống dưới một cái Malachy ở dưới dừng nó lại nhưng Malachy lại mải nhìn một đứa bạn đang trượt patanh nên nó để chiếc xe nôi chạy qua chỗ mình, lao sang ngang đường qua cửa quán rượu Leniston nơi những người đàn ông đang cần được thưởng thức những cốc rượu của họ trong yên tĩnh và không mong nhìn thấy một chiếc xe nôi với một đứa trẻ bẩn thỉu nói Goo goo goo. Người chủ quán la lên rằng đó là một sự nhục nhã, rằng luật pháp không cho phép kiểu hành động đó, không cho phép một chiếc xe nôi bẩn thỉu với một đứa bé hét ầm ĩ lao qua cửa nhà người khác, rằng ông ta sẽ gọi bảo vệ tới bắt chúng tôi, nhưng Alphie vừa vẫy ông ta vừa cười với ông ta, rồi ông ta nói:

- Thôi được, thôi được rồi, cho thằng bé này kẹo và nước chanh, cho cả các anh nó nữa, bọn mày trông rách rưới quá, ôi lạy Chúa, cuộc sống quả là khó khăn, hãy đưa em về nhà đi, hãy đưa nó về với mẹ chúng mày đi.

Malachy có một ý tưởng táo bạo khác, rằng chúng tôi có thể để Alphie ngồi trong xe nôi đẩy đi vòng quanh Limerick như những người sống lang thang để kiếm kẹo và nước chanh, nhưng tôi không muốn mẹ tôi phát hiện ra vì nếu mẹ tôi mà biết chúng tôi làm chuyện đó thì mẹ sẽ đánh chúng tôi là cái chắc. Malachy nói tôi không phải là một công tử và nói xong nó chạy biến đi. Tôi đẩy chiếc xe qua phố Henry và tới nhà thờ Công giáo. Hôm đó là một ngày u ám, nhà thờ đầy vẻ u ám và đám người đứng ngoài cửa nhà của linh mục trông cũng vậy. Họ đứng đợi xin thức ăn thừa của các linh mục.

Trong đám người đó có mẹ của chúng tôi. Chuyện này tệ hơn cả việc đi xin tiền trợ cấp, tệ hơn cả đi xin giúp đỡ ở hội thánh Vincent de Paul, tệ hơn cả việc đi xin cứu tế ở Bệnh xá miễn phí. Đó là một việc khiến người ta xấu hổ nhất, gần như việc vác bát, tha những đứa trẻ nhếch nhác đi trên phố luôn miệng cầu xin: “lạy ông đi qua, lạy bà đi lại, xin cho đứa trẻ khốn khổ này một xu, nó đói quá”.

Giờ mẹ tôi đã trở thành một kẻ ăn mày rồi và nếu ai ở ngõ Roden hoặc ở trường của chúng tôi trông thấy mẹ tôi thì cả nhà tôi sẽ nhục nhã không biết đến bao giờ mới thôi. Các bạn tôi sẽ bịa ra những cái tên mới và sẽ trêu chọc tôi suốt.

Nhà dành cho linh mục mở cửa và đám người xô nhau chạy vào chìa tay ra xin bố thí. Tôi có thể nghe thấy ho nói: “Xin làm ơn, xin làm ơn đi, vì Chúa, xin làm ơn đi. Ởnhà còn năm đứa trẻ nữa, làm ơn đi”. Tôi có thể nhìn thấy mẹ tôi chen trong đám người đó. Tôi thấy rõ miệng bà mím chặt khi bà chộp lấy một túi đồ bố thí và quay ra cửa và tôi vội đẩy xe nôi thật nhanh ra khỏi nhà thờ để mẹ tôi khỏi nhìn thấy tôi.

Tôi không muốn về nhà nữa. Tôi đẩy xe xuống đường Dock, ra đường Corkanree nơi có từng đống rác của cả Limerick đang chờ đốt. Tôi đứng lại một lát xem bọn con trai đuổi chuột. Tôi không biết tại sao bọn chúng phải hành hạ những con chuột không quấy rầy nhà chúng như vậy. Nếu Alphie không làu bàu, không đạp chân, không cáu với cái bình đã hết nhẵn nước đường của nó thì chắc tôi sẽ tiếp tục đi mãi đi mãi trong vùng ngoại ô.

Mẹ tôi đã nhóm bếp và trên bếp có gì đó đang sôi. Malachy cười nói rằng mẹ tôi mua được thịt bò muối và một ít khoai tây từ cửa hàng nhà bà Kathleen. Nó sẽ không vui như thế nếu nó biết nó là con của một kẻ ăn mày. Mẹ tôi gọi chúng tôi ở ngoài ngõ về và khi ngồi vào bàn ăn tôi không dám nhìn người mẹ ăn mày của mình. Mẹ tôi nhấc cái nồi trên bếp ra bàn và múc khoai tây cho từng đứa chúng tôi rồi lấy dĩa vớt thịt bò muối ra.

Thứ đó không giống thịt bò muối chút nào. Đó là cục thịt mỡ bầy nhầy màu xám chỉ có mỗi một chỗ là thịt nạc. Chúng tôi nhìn miếng thịt đó và tự hỏi không biết ai sẽ ăn nó. Mẹ tôi nói:

- Miếng đó cho Alphie. Em nó bé, em nó đang lớn, nó cần ăn thịt nạc.

Mẹ tôi để miếng thịt vào một cái tô trước mặt Alphie. Nó lấy ngón tay nghịch miếng thịt. Nó đưa miếng thịt lên miệng, đưa mắt nhìn quanh bếp, tìm con chó Lucky và ném miếng thịt ra cho con chó.

Còn nói gì được nữa. Miếng thịt đã bị con chó xơi hết rồi. Chúng tôi ăn khoai tây với muối và tôi ăn chỗ thịt mỡ mẹ tôi chia cho và giả vờ là mình đang ăn chỗ thịt nạc Alphie đã vứt đi.