Chương 11
Mẹ tôi nhắc nhở chúng tôi:
- Các con không được đụng đến cái hòm vì đó không phải là việc của các con vả lại trong đó chẳng có gì hay đâu.
Tất cả những gì mẹ tôi có trong cái hòm đó là một mớ giấy tờ, giấy khai sinh và giấy chứng nhận rửa tội, hộ chiếu của mẹ tôi, hộ chiếu đi Anh từ Belfast của bố tôi, hộ chiếu nước Mỹ cấp cho chúng tôi về Ailen và một chiếc váy màu đỏ tươi có trang kim và những diềm đăng ten diêm dúa mẹ tôi có từ hồi ở Mỹ. Mẹ tôi muốn giữ chiếc váy đó mãi mãi để nó nhắc nhở mẹ về thời thiếu nữ với những điệu nhảy đầy đam mê.
Tôi không quan tâm mẹ tôi có gì trong chiếc hòm đó cho tới khi tôi bắt đầu lập một đội bóng cùng với Malachy và Billy Campbell. Chúng tôi không có tiền mua đồng phục hay giày và Billy nói: “Làm sao thế giới biết chúng ta là ai chứ? Đến một cái tên chúng ta cũng không có”.
Tôi nhớ tới cái váy đỏ của mẹ tôi và thế là một cái tên nảy ra trong đầu tôi, Những Trái Tim Hồng Limerick. Mẹ tôi chẳng bao giờ mở cái hòm ra nên tôi có cắt một miếng vải từ chiếc váy để làm bảy trái tim gắn lên ngực áo các cầu thủ đội bóng thì cũng có sao đâu nhỉ? Chính mẹ tôi luôn nói “không biết chẳng phiền” đấy thôi.
Chiếc váy được cất dưới những tờ báo. Tôi nhìn ảnh tôi hồi bé trong tấm hộ chiếu và có thể hiểu được tại sao ở trường tôi hay bị trêu là người Nhật. Có một giấy chứng nhận kết hôn đề rằng Malachy McCourt và Angela Sheehan trở thành vợ chồng vào ngày hai tám tháng Ba năm 1930. Làm sao có thể thế được cơ chứ? Tôi sinh ngày mười chín tháng Tám và Billy Campell nói rằng hai người lấy nhau phải ít nhất chín tháng sau mới sinh con được. Đằng này tôi sinh ra chỉ sau nửa số thời gian đó. Thế có nghĩa là tôi là một điều kỳ diệu và lớn lên có thể tôi sẽ trở thành một vị thánh.
Tôi sẽ phải hỏi Mickey Molloy, chuyên gia về cái gọi là Cơ Thể Con Gái và Những Chuyện Dơ Bẩn mới được.
Billy nói rằng nếu chúng tôi muốn trở thành một đội bóng lớn thì chúng tôi phải luyện tập và phải gặp nhau thường xuyên ở công viên. Bọn trong đội chê những trái tim đỏ bằng lụa tôi đưa cho chúng và tôi bảo với chúng rằng nếu chúng không thích thì cứ việc về nhà cắt áo và váy của mẹ chúng.
Chúng tôi không có tiền để mua một quả bóng ra hồn vì thế cả đội kiếm một cái bong bóng cừu nhét giẻ rách vào làm bóng. Chúng tôi quần cái bong bóng cừu đó trên đồng cỏ suốt cho tới khi nó thủng mấy chỗ lòi cả giẻ ra và thế là chúng tôi đâm chán. Billy nói sáng mai thứ Bảy chúng tôi có thể gặp nhau để đến phố Ballinacurra rủ bọn con nhà giàu ở trường Crescent thi bảy đấu bảy để lấy một quả bóng thứ thiệt. Nó bảo chúng tôi phải cài những trái tim hồng lên ngực áo cho dù chúng chỉ là những mảnh vải cũ.
Malachy đi về nhà nhưng tôi không thể bởi tôi còn phải gập Mickey Molloy và tìm hiểu việc tại sao tôi lại sinh ra chỉ trong nửa thời gian. Mickey đang đi ra cửa cùng với bố cậu ta, ông Peter. Hôm đó là sinh nhật lần thứ mười sáu của cậu và bố cậu đưa cậu đến quán Bowles để cậu thưởng thức vại bia đen đầu tiên trong đời. Bà Nora Molloy ở trong nhà réo theo ông Peter bảo rằng họ muốn đi thì cứ đi, rằng bà ấy sẽ nướng bánh, rằng bà ấy sẽ không bao giờ đi nhà thương nữa, rằng nếu ông Peter mà đưa con trai đi uống thì bà ấy sẽ đi Scotland và sẽ biến khỏi cuộc đời này.
Ông Peter nói với Mickey:
- Đừng để ý đến mẹ mày. Những bà mẹ Ailen luôn là kẻ thù của vại bia đầu tiên. Chính bà nội mày cũng dùng cái chảo xuýt giết chết ông nội mày khi ông mày đưa bố đi uống lần đầu đấy.
Mickey hỏi bố cậu ta cho tôi đi uống nước chanh và bố cậu ta đổng ý.
Ông Peter nói với mọi người trong quán rằng Mickey đến đó uống lần đầu tiên và khi tất cả đàn ông trong quán muốn uống với Mikey để chúc mừng cậu, ông Peter gạt đi, ông bảo con trai ông không được uống nhiều.
Bố con ông Peter uống bia còn tôi uống nước chanh. Cánh đàn ông chúc Mickey mọi điều tốt đẹp trong cuộc sống và họ bảo sau lần cậu ta bị ngã ống máng mấy năm trước cậu không còn hay bị ngất nữa, đó quả là một món quà của Chúa và rằng thật tội nghiệp cho Quasimodo Dooley đã bị mắc lao phổi sau từng ấy năm học nói giọng Anh với hy vọng trở thành phát thanh viên của BBC một vị trí chẳng thích hợp chút nào với một người đàn ông Ailen.
Ồng Peter nói chuyện với những người đàn ông còn Mickey, thưởng thức vại bia đầu tiên của cậu ta, thì thầm với tôi: “Tớ không chắc là tớ thích cái của này, nhưng đừng nói với bố tớ”. Rồi cậu ta tiết lộ với tôi rằng cậu ta đang bí mật học nói giọng Anh để trở thành phát thanh viên của BBC, giấc mơ của Quasimodo. Cậu ấy bảo rằng tôi có thể nhận lại Cuchilain, rằng Cuchilain chẳng giúp gì cho bạn khi bạn đọc bản tin trên BBC. Bây giờ cậu ta đã mười sáu tuổi nên cậu ta muốn đi Anh và rằng tôi cứ mua một cái đài đi tôi sẽ thấy cậu ấy trên BBC Home Service.
Tôi nói với cậu ấy chuyện cái giấy chứng nhận kết hôn của bố mẹ tôi, nói với cậu ấy rằng Billy Campell bảo phải chín tháng sau khi kết hôn người ta mới có thể đẻ con nhưng tôi lại sinh ra chỉ với nửa thời gian đó thôi và tôi không biết liệu như vậy tôi có phải là một trường hợp kỳ diệu hay không.
Không, không. Cậu là một đứa con hoang. Cậu bị kết tội. Cậu không được nguyền rủa tớ, Mickey. Tớ không nguyền rủa cậu. Người ta vẫn gọi những đứa trẻ sinh trước chín tháng sau một đám cưới như vậy, đầy người thụ thai hoang trước khi kết hôn. Đó là gì vậy? Đó nào? Thụ thai ấy. Là tinh trùng gặp trứng và nó phát triển và chín tháng sau cậu được sinh ra, thế thôi. Mình chẳng hiểu cậu đang nói gì.Cậu ta thì thầm vào tai tôi:
Cái thứ ở giữa hai đùi cậu là cái thú vị đấy. Bố cậu cho cái ấy của bố cậu tiếp xúc với cái của mẹ cậu và tinh trùngtừ bố cậu sẽ gặp trứng của mẹ cậu và thứ kết hợp đó phát triển thành cậu.
Tớ đâu phải là một quả trứng. Cậu là một quả trứng. Mỗi người đều đã từng là một quả trứng. Tại sao tớ lại bị kết tội? Tớ là con hoang đâu phải lỗi ở tớ. Tất cả những đứa con hoang đều bị kết tội. Chúng giống như những đứa bé không được rửa tội. Chúng bị đày xuống địa ngục mãi mãi và không có cách nào thoát ra được cho dù chúng không có lỗi. Thế nào cậu cũng băn khoăn rằng Thượng Đế ở trên kia không có chút thương xót nào dành cho những đứa trẻ chưa được rửa tội. Chính vì thế mà tớ không đi nhà thờ nữa. Dù sao cậu cũng bị đầy đọa. Vậy tớ phải làm gì? Không làm được gì cả. Tớ không thể thắp một cây nến hay làm gì đó sao? Cậu có thể cầu xin Đức Mẹ Đồng Trinh. Nhưng tớ không có một xu nào để mua nến. Được rồi, được rồi, một xu đây. Một triệu năm nữa khi cậu kiếm được việc làm thì trả tớ. Tớ phải mất khối tiền mới trở thành chuyên gia về Cơ Thể Con Gái và Những Chuyện Dơ Bẩn đấy.Người chủ quán rượu đang chơi trò chơi đố chữ và ông ta quay sang hỏi ông Peter:
Từ trái nghĩa của từ xông lên là gì nhỉ? Rút lui -Ông Peter nói. Đúng rồi- Người chủ quán gật đầu. - Mọi thứ đều có cái trái ngược của nó. Đức Mẹ ơi - Ông Peter lẩm bẩm. Anh làm sao vậy, Peter?-Vừa nãy anh nói gì thế nhỉ, Tommy?
Tôi bảo mọi thứ đều có cái trái ngược của nó. Đức Mẹ ơi. Anh không sao chứ, Peter? Rượu ngon đấy chứ? Ngon, Tommy ạ, còn tôi là nhà vô địch uống rượu đúng không? Đúng, Peter. Không thể phủ nhận được điều đó. Thế có nghĩa là tôi có thể là nhà vô địch của cái trái ngược. Anh đang nói gì vậy? Tôi có thể trở thành nhà vô địch không uống rượu. Ô, Peter, tôi không nghĩ anh lại quá chén. Vợ anh ở nhà không sao đấy chứ? Tommy, cầm vại bia cất đi cho tôi. Tôi vô địch không uống bia rượu.Ông Peter quay sang, với vại bia của Mikey đặt ra chỗ khác.
Chúng ta về với mẹ con thôi, Mickey. Bố không gọi con là Cyclops. Con là Mickey. Con là Michael. Chúng ta sẽ đi Anh. Bố không uống rượu nữa, con cũng không uống, mẹ không nướng bánh nữa, đi nào.Chúng tôi rời quán và người chủ quán gọi với theo chúng tôi:
- Anh biết vì sao mà, Peter. Vì những cuốn sách chết tiệt anh đã đọc đấy. Chúng đã làm hỏng cái đầu của anh rồi.
Ông Peter và Mickey về nhà họ. Tôi phải đến nhà thờ thánh Joseph thắp nến để tôi khỏi bị đày xuống địa ngục nhưng khi tôi đi ngang qua cửa hàng Counihan nhìn vào tôi lại thấy những thỏi kẹo cứng Cleeves với tấm giấy đề “Một Xu Hai Chiếc”. Tôi biết tôi bị đầy đọa nhưng tôi đang thèm kẹo đến ứa nước miếng và khi tôi đưa đồng xu cho bà Counihan tôi thầm hứa với Đức Mẹ Đồng Trinh rằng ngay khi có một xu nữa tôi sẽ đi thắp nến và sẽ xin Đức Mẹ nói với con trai của Người để xóa bỏ tội cho tôi.
Một xu kẹo Cleeves không kéo dài mãi mãi được và khi ăn hết kẹo tôi phải nghĩ đến việc về nhà với người mẹ đã để cho bố tôi đưa cái vật thú vị ấy của bố vào mình để rồi tôi sinh ra trước nửa thời gian chứ không phải sinh ra sau chín tháng kể từ ngày kết hôn của họ và khiến tôi trở thành một đứa con hoang. Nếu mẹ tôi mà nói một lời về cái váy đỏ hay về bất cứ chuyện gì thì nhất định tôi sẽ nói cho mẹ tôi biết tất cả về cái kích thích kia và thế nào mẹ tôi cũng bị sốc cho mà xem.
Sáng thứ Bảy tôi gặp đội bóng Những Trái Tim Hồng Limerick và chúng tôi đi dọc đường tìm kiếm cơ hội thi đấu. Bọn trong đội vẫn càu nhàu về những trái tim đỏ mà chúng phải đeo trên ngực nhưng khi Billy bảo rằng nếu đứa nào không thích thì đi về chơi búp bê với em gái. Bọn nó không nói gì nữa.
Trên một sân bãi ở Ballinacurra có một lũ con trai đang chơi bóng đá và Billy đến gạ chúng thi đấu. Chúng có tám đứa trong khi chúng tôi chỉ có bảy nhưng chúng tôi không quan tâm bởi vì một đứa trong số chúng bị chột và Billy bảo chúng tôi cứ chạy ở bên phía mắt chột của nó là được. Billy còn nói rằng tôi, Frank McCourt, có hai mắt đều kém, như thế còn tệ hơn. Bọn kia đứa nào cũng mặc áo thể thao màu xanh pha trắng, quần soóc trắng và đi giày đá bóng thứ thiệt. Một đứa trong bọn đó bảo rằng trông chúng tôi như mèo hoang và Malachy phải cố nén mới không xông vào đánh thằng đó. Chúng tôi đồng ý thi đấu nửa tiếng bởi vì bọn kia nói chúng sẽ phải về ăn trưa. ăn trưa. Cả thế giới gọi bữa ăn giữa ngày là “dinner” còn bọn nó thì gọi bữa trưa là “lunch”. Nếu hết nửa giờ mà không bên nào ghi bàn thì trận đấu coi như hòa. Chúng tôi chạy lên chạy xuống săn bóng rồi Billy lấy được bóng và dẫn bóng rất nhanh ra sát biên khiến cho đối thủ của chúng tôi không đứa nào theo kịp, rồi Billy đưa bóng đến gần cầu môn và ghi bàn thắng. Gần hết nửa tiếng nhưng bọn kia lại muốn chơi thêm nửa tiếng nữa và trong nửa tiếng sau bọn chúng ghi được bàn gỡ hòa. Rồi bóng lăn ra biên và chúng tôi được ném biên. Billy đứng ném biên. Nó vờ nhìn Malachy nhưng lại ném bóng cho tôi. Tôi nhận được bóng như thể nó là thứ duy nhất tồn tại trên thế giới này. Nó đến thẳng chân tôi như đặt và tất cả những gì tôi phải làm là xoay người sang cánh trái và giơ chân sút bóng thẳng vào gôn. Tôi cảm thấy mình như đang ở trên thiên đường. Tôi chạy như bay quanh sân cho tới khi những Trái Tim Hồng Limerick túm lưng tôi hét lên với tôi rằng đó là một bàn thắng tuyệt vời. Frank, Billy, hai cái tên đó được đồng đội của tôi hô vang cả sân.
Chúng tôi đi bộ về đại lộ O’Connel và trong đầu tôi cứ xoay quanh hình ảnh quả bóng đến chân tôi và tôi chắc mẩm rằng nó được gửi đến bởi Chúa hoặc Đức Mẹ Đồng Trinh những đấng tối cao không bao giờ ban một điều tốt lành như thế cho một người bị đày đọa vì sinh trong nửa thời gian và tôi biết chừng nào tôi còn sống tôi sẽ không thể nào quên rằng đường bóng đó đến từ Billy Campell.
Mẹ tôi gặp cô Bridey Hannon và mẹ cô đang đi ra ngõ và họ kể với mẹ chuyện ông Hannon bị đau chân. Tội nghiệp ông John Hannon, tối nào ông ấy cũng phải đạp xe về nhà sau cả ngày đi giao than. Giờ làm của ông được tính từ tám giờ sáng tới năm rưỡi chiều nhưng ông phải chuẩn bị thắng ngựa trước tám giờ và phải đưa ngựa về chuồng sau khi đi giao than xong. Ông phải ngồi trên xe ngựa chạy khắp thành phố và phải nhấc lên nhấc xuống những bao than nặng, lại còn phải giữ cho những chỗ băng ở chân không tuột ra để bụi khỏi bám vào những vết thương đang há miệng. Những vết thương ở chân ông ấy lúc nào cũng bị băng nhưng băng cũng luôn bị rách và lúc ông ấy về nhà vợ ông phải lấy nước ấm và xà phòng rửa chúng rồi bôi thuốc mỡ và băng chúng lại bằng băng sạch. Họ không có tiền để ngày nào cũng mua băng mới nên bà ấy phải giặt những tấm băng cũ để dùng đi dùng lại cho đến khi chúng xỉn màu mới bỏ đi.
Mẹ tôi bảo ông Hannon nên đi khám bác sĩ và bà Hannon nói:
- Đúng thế, ông ấy đã đi khám cả chục lần rồi và bác sĩ nói ông ấy phải để đôi chân nghỉ ngơi. Thế thôi. Nghỉ ngơi. Làm sao ông ấy có thể để đôi chân ông ấy nghỉ ngơi được cơ chứ? Ông ấy phải làm việc. Nếu ông ấy không làm việc thì chúng tôi biết lấy gì mà sống đây?
Mẹ tôi nói có lẽ cô Bridey có thể kiếm một việc làm và cô Bridey lập tức phản đối:
Chị không biết là ngực tôi có vấn đề sao, Angela? Chị không biết tôi đã từng bị sốt thấp khớp sao? Tôi phải cẩn thận với sức khỏe của mình chứ.Mẹ tôi thường nói về cô Bridey, về bệnh sốt thấp khớp và cái ngực yếu của cô ấy. Mẹ tôi nói:
Con người đó có thể ngồi đây cả giờ phàn nàn về bệnh tật của mình nhưng có chịu bỏ thuốc đâu.Mẹ tôi bảo với cô Bridey rằng mẹ tôi rất ái ngại cho bệnh tật của cô ấy cũng như cho đôi chân đau của bố cô ấy. Bà Hannon kể với mẹ tôi rằng càng ngày chân của chồng bà ấy càng tệ, và bà đề nghị:
Chị McCourt này, chị có thể để Frank nhà chị đi giúp ông ấy vài giờ một tuần được không? Chúng tôi không thể thuê hẳn một người nhưng nếu Frank giúp ông ấy thì Frank có thể kiếm được một hoặc hai xu một tuần còn ông ấy thì có thể để đôi chân đau được nghỉ ngơi nhiều hơn.Mẹ tôi trả lời:
Tôi chẳng biết có được không, thằng bé mới mười một, nó lại mới bị thương hàn, vả lại bụi than sẽ hại cho mắt nó.Cô Bridey nói:
Làm cho bố tôi nó sẽ được ở ngoài trời nhiều hơn và không có gì tốt cho đôi mắt hơn là không khí thoáng đãng, đúng không hả, Frankie? Đúng, thưa cô Bridey.Tôi thèm được đi quanh thành phố trên xe chở than với ông Hannon như một người lao động thực thụ. Nếu tôi làm việc tốt thì có lẽ tôi sẽ không phải đến trường nữa nhưng mẹ tôi lại nói:
Thằng bé có thể đi làm với ông ấy miễn là công việc đó không ảnh hưởng đến việc học hành của nó và nếu thế nó có thể bắt đầu đi làm vào sáng thứ Bảy.Giờ tôi đã là một người đàn ông cho nên sáng thứ Bảy tôi dậy sớm nhóm bếp và tự pha trà và rán bánh cho mình. Tôi đứng đợi ông Hannon ở gần nhà ông ấy và ngửi thấy mùi giăm bông và mùi trứng tỏa ra qua cửa sổ. Mẹ tôi nói ông Hannon được ăn thức ăn ngon bởi vì bà Hannon rất yêu chồng. Họ giống như hai người yêu nhau trong một bộ phim của Mỹ. Đây rồi, ông Hannon đã dắt xe ra. Ông ấy bảo tôi ngồi lên khung xe và tôi bắt đầu lên đường đi làm như một người đàn ông. Đầu ông Hannon ở ngay trên đầu tôi và mùi thuốc lá của ông ấy thật là thơm. Nhưng, có mùi than từ quần áo ông Hannon và cái mùi đó làm tôi hắt hơi.
Có nhiều người đàn ông đạp xe hoặc đi bộ về phía bãi than, nhà máy bột Rank và xí nghiệp tàu thủy Limerick ở đường Dock. Ông Hannon bỏ tẩu thuốc ra khỏi miệng để nói với tôi rằng đây là buổi sáng tuyệt nhất, sáng thứ Bảy, chúng tôi chỉ phải làm việc nửa ngày. Chúng tôi sẽ bắt đầu từ tám giờ cho đến mười hai giờ.
Trước tiên chúng tôi chuẩn bị ngựa, chúng tôi chải lông cho nó, đổ đầy yến mạch trộn với nước vào máng cho nó ăn. Ông Hannon bảo tôi cách thắng dây cương và cách đưa ngựa vào càng xe. Ông ấy nói:
Ôi, Frankie, cậu có năng khiếu trong việc này đấy.Ông Hannon khen như vậy khiến tôi phấn khởi đến nỗi lúc đó tôi chỉ muốn ngồi trên chiếc xe ngựa dập dềnh ấy cả đời.
Có hai người đàn ông đóng than vào các bao và đưa những bao than lên cân, mỗi bao một tạ. Đưa than lên xe là việc của họ còn ông Hannon thì đi đến văn phòng để lấy giấy giao than. Những người xếp than làm việc rất khẩn trương và chúng tôi nhanh chóng có được chuyến than đầu tiên trong ngày. Ông Hannon ngồi lên phía bên trái và đập nhẹ cái roi ra hiệu cho tôi ngồi lên phía bên phải. Trèo lên cái xe ngựa cao chất đầy những bao than quả là không dễ và tôi chọn cách trèo lèn qua bánh xe. Ông Hannon bảo tôi không bao giờ được làm như thế nữa. Ông ấy bảo tôi không bao giờ được để tay hay chân gần bánh xe khi ngựa đã được lồng vào xe. Một con ngựa đột nhiên có thể muốn tự ý đi dạo và thế là tay hoặc chân bạn sẽ bị quấn trong bánh xe và cả người bạn cũng bị quấn theo. Ông Hannon nói với con ngựa:
Đi nào, đi.Con ngựa lắc lắc cái đầu khiến ông Hannon cười phá lên:
Con ngựa này thích làm việc lắm, chỉ lát nữa là nó không lắc đầu nữa đâu.Mưa bắt đầu rơi và chúng tôi phải lấy bao đựng than cũ để che mưa. Ông Hannon bảo mưa sẽ làm cho xe nặng thêm nhưng kêu ca thì ích gì đâu. Nếu bạn kêu ca thì bạn cũng có thể kêu ca về mặt trời ở châu Phi.
Chúng tôi đánh xe qua cầu Sarsfield để đến giao than ở khu Bắc Circula. Ông Hannon nói rằng đó là khu của những người giàu và những người giàu chẳng bao giờ nhanh trong việc đưa tay vào túi mình lấy vài xu lẻ bồi dưỡng cho người đưa than.
Chúng tôi có mười sáu bao than phải giao. Ông Hannon nói chúng tôi gặp may vì có một sô nhà lấy trên một bao vì thế ông ấy đỡ phải trèo lên trèo xuống hơn. Khi xe dừng trước một nhà lấy than ông Hannon xuống xe còn tôi thì đẩy bao than ra thành xe để ông ấy ghé vai vào vác. Vài nhà có chỗ để than ở ngay bên ngoài và chúng tôi chỉ việc kéo chiếc cửa sập lên và mở bao cho than chảy vào là xong. Có những nhà có sân sau dài và bạn có thể thấy ông Hannon với đôi chân đau phải vất vả thế nào mới mang được những bao than từ trên xe tới chỗ để than của khách hàng. Ông ấy chỉ khẽ rên và cùng lắm thì bảo tôi đưa tay ra kéo ông lên xe. Ông nói nếu ông có một cái xe ba gác thì ông ấy có thể kéo than từ xe vào chỗ để than của người ta và đó sẽ là một điều may mắn đối với ông nhưng một cái xe kéo như thế bét nhất cũng trị giá bằng lương của hai tuần làm việc và ai dám bỏ tiền ra mua chứ?
Các bao than đã được giao hết, trời lại nắng, xe nhẹ tênh, và con ngựa biết ngày làm việc của nó đã kết thúc. Được ngồi trên xe nhìn con ngựa từ đuôi cho đến đầu rung đều đều trên đường Ennis đến sông Shannon rồi lên đường Dock quả là thích. Ông Hannon nói một người đã giao xong mười sáu bao than mỗi bao nặng một tạ đáng được thưởng một cốc rượu còn cậu bé giúp việc thì đáng được uống nước chanh. Ông ấy bảo tôi nên đi học không nên giống ông ấy làm việc với hai cái chân đau. Ông ấy nói:
- Frankie ạ, phải học, phải học để thoát khỏi Limerick và thoát khỏi đất nước Ai len này. Cuộc chiến tranh này rồi sẽ kết thúc và cháu có thể đi Mỹ hoặc đi Úc hoặc đến bất cứ đất nước rộng lớn nào. Thế giới rộng lớn và cháu có thể đi khám phá nó. Nếu chân tôi không bị đau thì tôi đã đi Anh kiếm tiền như bao người đàn ông Ailen khác từ lâu rồi, như bố cháu ấy. A, mà không, không như bố cháu. Tôi không hiểu tại sao một người đàn ông còn cái đầu lại có thể đi như thế bỏ vợ và các con đói rét giữa Limerick lạnh giá này. Học, phải học, Frankie ạ. Phải đọc sách, đọc sách, đọc sách. Hãy đi khỏi Limerick trước khi chân cháu thối rữa và đầu óc cháu suy sụp hoàn toàn.
Chúng tôi đến bãi than cho ngựa ăn, uống nước và chải lông cho nó. Ông Hannon nói chuyện với con ngựa suốt và gọi nó là “Segosha của tao”, và con ngựa cọ mõm nó vào ngực ông. Tôi muốn mang con ngựa về nhà và để nó ở nhà dưới còn chúng tôi ở trên gác nhưng cho dù tôi có dắt được nó vào cửa đi nữa thì mẹ tôi cũng sẽ mắng rằng nhà chúng tôi không cần gì nữa thì mới cần đến một con ngựa.
Từ Dock lên các phố khác đều là dốc cao nên ông Hannon không thể để tôi ngồi trên xe đạp mà đạp được, vì thế chúng tôi đi bộ. Chân ông đau nên phải mất khá lâu chúng tôi mói lên được đến phố Henry. Thỉnh thoảng ông Hannon đứng dựa vào chiếc xe hoặc ngồi xuống các bậc tam cấp của những nhà bên đường để nghỉ chân.
Tôi đang nghĩ không biết khi nào thì tôi nhận được tiền công từ ông Hannon bởi có lẽ khi tôi nhận được tiền mẹ tôi sẽ cho phép tôi đi xem phim ở rạp Lyric. Bây giờ chúng tôi đang đứng bên ngoài quán South và ông Hannon bảo tôi vào quán với ông ấy, chẳng phải ông đã hứa mua nước chanh cho tôi là gì?
Bác Pa đang ngồi trong quán. Bác ấy vẫn đen nhẻm như mọi khi và bên cạnh bác ấy là Bill Galvin, vẫn trắng như mọi khi, đang vừa khịt mũi vừa nốc những ngụm rượu từ ly rượu to của ông. Ông Hannon nói to:
- Các anh khỏe cả chứ?
Ông ngồi xuống cạnh Bill và mọi người trong quán cùng cười.
Chủ quán rượu nói:
Lạy Chúa, nhìn xem này, hai cục than, và một cục tuyết. Những người đàn ông khác ngồi trong quán đều quay ra nhìn hai người đàn ông đen như than ngồi hai bên và một người đàn ông trắng như vôi ngồi ở giữa và họ muốn gọi ngay một phóng viên ảnh của tờ Limerick Leader tới chụp một kiểu ảnh đãng báo.Bác Pa nói:
Cháu làm quái gì mà cũng đen thui thế hả, Frankie? Cháu ngã xuống mỏ than à? Cháu giúp ông Hannon đi giao than. Trông cháu tệ quá, Frankie ạ. Bụi than đấy mà, có gì đâu bác Pa. Về nhà nhớ kỳ cho sạch vào đấy. Vâng.Ông Hannon mua cho tôi một chai nước chanh, đưa cho tôi một shilling tiền công và bảo tôi đi về, và bảo rằng tôi là một công nhân cừ nên tuần sau hết giờ học lại đến giúp ông ấy.
Trên đường về nhà tôi nhìn mình qua cửa kính của một cửa hàng và thấy toàn thân tôi đen như than, và tôi cảm thấy mình là một người đàn ông, một người đàn ông với một shilling trong túi áo, một người đàn ông uống một chai nước chanh trong quán rượu với hai người đàn ông đen như than và một người đàn ông trắng như vôi. Tôi không còn là trẻ con nữa và tôi có thể dễ dàng rời khỏi cái trường Leamy ấy mãi mãi. Tôi có thể làm việc với ông Hannon cả ngày và khi chân ông ấy quá tệ không thể làm việc được nữa tôi sẽ thay thế ông ấy làm người giao than cho những người giàu cả đời và mẹ tôi sẽ không phải đi xin ăn ở nhà thờ Công giáo nữa.
Những người tôi gặp trên phố và trong ngõ đều nhìn tôi bằng con mắt tò mò. Những đứa con trai con gái cười và gọi to: “Này, thợ dọn ống khói. Bao nhiêu tiền một lần dọn ống khói thế? Mày ngã xuống hố than hay sao thế? Mày bị nhuộm đen đấy à?”.
Bọn đó là lũ ngu. Chúng đâu có biết tôi đã đi giao hàng tạ than cơ chứ. Chúng đâu biết tôi là một người đàn ông thực thụ.
Mẹ tôi đang cho Alphie ngủ ở trên gác và có một chiếc áo khoác được vắt trên cửa sổ để che ánh sáng. Tôi nói với mẹ rằng tôi đã kiếm được một shilling và mẹ tôi bảo tôi có thể đi xem phim ở rạp Lyric bởi vì tôi xứng đáng được như vậy. Mẹ tôi bảo tôi cầm đi hai xu còn lại thì cất ở bệ lò sưởi để mẹ mua bánh mì và trà. Chiếc áo bất ngờ rơi từ cửa sổ xuống và căn phòng trở nên sáng. Mẹ tôi nhìn tôi và rên lên:
Lạy Chúa, nhìn mắt con kìa. Đi xuống nhà mẹ rửa cho, mau.Mẹ tôi đun nước nóng và rửa mắt cho tôi rồi và bảo tôi không được đi xem phim cho tới khi nào mắt tôi sạch và chỉ có Chúa mới biết bao giờ mắt tôi mới sạch được. Mẹ tôi nói:
Mắt con như thế này con không thể đi giao than được. Bụi than sẽ làm hỏng mắt con mất.Tôi muốn có công việc đó. Tôi muốn mang tiền về nhà. Tôi muốn là một người đàn ông.
Bạn không thể là một người đàn ông khi mà bạn không mang được một shilling về nhà. Nhưng mẹ tôi quát:
Lên gác ngay, và nằm ở trên ấy cho mắt nghỉ ngơi nếu không con sẽ trở thành một người đàn ông mù đấy.Tôi muốn công việc đó. Tôi sẽ chịu khó rửa mắt ba lần một ngày. Tôi nhớ tới Seamus và lời khuyên tập chớp mắt của ông ấy và tôi quyết định sẽ dành ra mỗi ngày một tiếng để tập chớp mắt. Tôi chớp và chớp cho đến khi Malachy chạy ra ngõ tìm mẹ tôi trong khi mẹ tôi đang nói chuyện với bà Hannon về chuyện đi làm của tôi. Nó nói:
Mẹ ơi, anh Frankie làm sao ấy, anh ấy ở trên gác chớp mắt lia lịa.Mẹ tôi vội chạy về:
Con sao thế? Con tập để mắt khỏe hơn. Tập kiểu gì vậy? Tập chớp mắt ạ. Chớp mắt đâu phải là tập hả? Ông Seamus ở bệnh viện bảo cứ tập chớp mắt là có mắt khỏe mà. Chú ông ấy nhờ chớp mắt mà chữa được đôi mắt kém đấy.Mẹ tôi bảo tôi kỳ cục và lại đi ra nói chuyện tiếp với bà Hannon còn tôi thì tiếp tục ngồi chớp mắt và rửa mắt. Tôi nghe rõ tiếng bà Hannon nói:
Thằng Frank nhà chị là món quà Chúa gửi cho ông John nhà tôi đấy.Mẹ tôi không nói gì và thế có nghĩa là mẹ tôi cảm thấy thương bà Hannon và sẽ để tôi tiếp tục giúp ông Hannon đi giao than vào ngày thứ Năm bận rộn của ông ấy. Tôi rửa mắt ba lần mỗi ngày cho đến khi lông mi tôi đau mới thôi, ở trường khi thầy giáo không nhìn xuống tôi tranh thủ chớp mắt và tất cả bọn con trai trong lớp tôi gọi tôi là Chớp Mắt.
Chúng gọi tôi là gì tôi cũng chẳng quan tâm miễn là mắt tôi nhìn tốt và tôi có được công việc giao than trên một chiếc xe kéo. Tôi muốn bọn trêu chọc tôi nhìn thấy tôi trên xe than và muốn để chúng nhìn thấy tận mắt ông Hannon đưa dây cương cho tôi đánh xe để ông ấy hút thuốc được thoải mái. Tôi muốn bọn nó nghe thấy ông ấy nói với tôi; “Cầm cương này, Frankie, nhẹ nhàng thôi, không cần phải giật mạnh đâu”.
Ông ấy cũng đưa cho tôi cả roi nữa nhưng với con ngựa đó bạn chẳng bao giờ cần dùng đến roi. Tôi chỉ cầm cho oai thế thôi và thỉnh thoảng tôi vung roi lên không khí giống như ông Hannon hoặc dùng roi xua những con ruồi đậu trên mông con ngựa.
Chắc chắn những lúc như thế cả thế giới đều nhìn tôi và tôi rất khoái cảm giác được lắc theo chiếc xe, cảm giác được cầm roi và dây cương trong tay. Tôi ước gì tôi có một cái tẩu thuốc như cái tẩu của ông Hannon và một cái mũ lưỡi chai bằng vải tuýt như của ông ấy. Tôi ước trở thành một người làm than thực thụ với màu da đen như da ông Hannon và bác Pa Keating để người ta có thể nói: “Đó Frank McCourt đã giao tất cả than của Limerick này và uống rượu ở quán South”. Tôi sẽ không bao giờ rửa mặt. Ngày nào tôi cũng sẽ đen như than thậm chí cả vào ngày Giáng sinh khi người ta phải tắm rửa sạch sẽ để mừng Chúa ra đời cũng vậy.
Con ngựa cong đuôi lên và tuôn ra một bãi phân. Tôi giật nhẹ dây cương để nó có thể dừng lại nghỉ một chút nhưng ông Hannon nói:
- Không, Frankie, cứ để nó chạy. Giống ngựa là luôn bậy trong lúc đang phi mà. Đó là một trong những may mắn mà chúng được hưởng, chúng bậy trong lúc đang phi, và chúng không phải ngửi và không bị bẩn như con người, Frankie ạ. Không gì trên đời tệ bằng việc phải đi vào nhà vệ sinh sau một người đã ăn chân giò lợn và nốc rượu cả đêm. Mùi thối ở đó có thể làm vẹo lỗ mũi của một người khỏe mạnh. Ngựa thì khác. Chúng chỉ ăn cỏ và yến mạch thôi nên phân của chúng không khó ngửi.
Các ngày thứ Ba và thứ Năm sau khi tan học và sáng thứ Bảy tôi đi làm với ông Hannon và thế có nghĩa là tôi mang về được ba shilling cho mẹ tôi mặc dù mẹ tôi luôn lo lắng cho mắt của tôi. Hễ tôi đi làm về một cái là mẹ tôi lôi tôi đi rửa mắt ngay và bắt tôi phải nhắm mắt cho mắt nghỉ nửa giờ.
Ông Hannon bảo sau khi ông ấy đi giao than ở phố Barrington ông ấy sẽ đợi tôi ở gần trường Leamy. Giờ thì bọn học cùng tôi sẽ được mở mắt. Giờ thì chúng sẽ biết tôi là một người lao động thực thụ chứ không phải mắt lấm lét miệng rộng hoác nhảy điệu Jap nữa. Ông Hannon bảo: “Lên đi” và thế là tôi trèo lên xe như bất cứ người lao động nào. Tôi nhìn bọn con trai đang trố mắt nhìn tôi. Trố mắt ra nhìn. Tôi bảo với ông Hannon cứ việc hút thuốc để tôi cầm cương cho và tôi chắc rằng khi ông ấy đưa dây cương cho tôi bọn con trai đang nhìn tôi kia đứa nào đứa nấy há hốc miệng ra vì kinh ngạc. Tôi bảo con ngựa: “Đi nào”. Và tôi nói to để chắc rằng tất cả bọn đứng bên dưới đều nghe thấy, để chúng biết rằng chính tôi đang điều khiển một cái xe ngựa chứ không phải ai khác, để chúng không bao giờ quên rằng chính chúng đã nhìn thấy tôi ngồi trên một chiếc xe ngựa và chính tôi cầm cả dây cương và roi. Đó là ngày vui nhất trong đời tôi, vui hơn cả ngày lề Ban thánh thể đầu tiên của tôi và bị bà tôi làm hỏng, vui hơn cả ngày tôi nhận lễ Kiên tín bị thương hàn.
Bọn con trai ở trường không gọi tôi bằng những cái tên chúng vẫn gọi nữa. Chúng không trêu tôi nữa. Chúng muốn biết tôi được trả công thế nào và liệu tôi có định làm việc đó mãi mãi không. Chúng muốn biết liệu ở bãi than còn việc gì tốt không và nếu có thì chúng nhờ tôi mách cho chúng biết.
Rồi có những thằng con trai mười ba tuổi to lớn ghé sát mặt vào tôi và nghiến răng nói rằng đáng lẽ công việc tôi đang có phải là của chúng bởi vì chúng lớn hơn tôi còn tôi thì gầy nhẳng chẳng có ngực có vai gì hết. Chúng muốn nói bao nhiêu thì tùy. Tôi có công việc đó và ông Hannon thì luôn khen tôi được việc.
Có những hôm chân ông Hannon đau đến nỗi ông ấy gần như không đi được và những hôm đó bà Hannon rất lo. Bà ấy đưa cho tôi tách trà và tôi nhìn bà ấy vén ống quần ông ấy lên gỡ những mảnh gạc ra. Những vết thương ở chân ông ấy đỏ loét, màng mủ và dính bụi than. Bà ấy rửa những vết thương đó bằng xà phòng pha trong nước ấm và bôi thuốc mỡ lên. Bà ấy để chân ông ấy lên một cái ghế và ông ấy cứ ngồi như thế cả đêm đọc báo và đọc sách.
Chân ông ấy tệ đến nỗi buổi sáng ông ấy phải thức dậy sớm hơn một tiếng để cho chân khỏi cứng. Một sáng thứ Bảy trời vẫn còn tối ông Hannon đã gõ cửa nhà tôi và nhờ tôi sang hàng xóm mượn hộ ông ấy cái xe kéo để đi giao than bởi vì chân ông ấy tệ quá nên ông ấy không thể vác than được. Ông ấy cũng không thể chở tôi bằng xe đạp được vì vậy tôi phải kéo xe kéo đến bãi than gặp ông ấy ở đó.
Người hàng xóm nói:
Ông Hannon thì tôi sẵn sàng cho mượn, xin Chúa che chở cho ông ấy.Tôi đợi ở cổng bãi than và nhìn ông ấy đạp xe về phía tôi, chậm hơn mọi ngày rất nhiều. Chân ông ấy khó cử động đến nỗi ông ấy gần như không thể tự xuống xe được. Ông ấy khen tôi:
Frankie, cháu là một người đàn ông cừ đấy. Ông ấy để tôi thắng ngựa. Ông ấy để tôi đánh xe ra khỏi bãi than, để tôi đánh xe qua các phố mù sương và tôi ước gì tôi có thể đánh xe đi mãi mãi không bao giờ về nhà nữa. Ông Hannon chỉ cho tôi cách kéo các bao than ra thành xe và thả chúng xuống đất để lôi chúng lên xe kéo và kéo vào nhà người lấy than. Ông ấy bảo tôi cách nâng và đẩy các bao than mà không cần phải cố quá sức và với những chỉ dẫn của ông ấy đến trưa chúng tôi cũng đã giao xong mười sáu bao than.Tôi ước gì bọn con trai học cùng có thể nhìn thấy tôi, ước gì chúng có thể thấy tôi đánh xe và chuyển các bao than, ước gì chúng có thể thấy tôi làm mọi việc để chân ông Hannon nghỉ ngơi. Tôi ước gì chúng có thể thấy tôi đẩy chiếc xe tới quán South và uống nước chanh, ước gì chúng thấy tôi đen như than, ông Hannon đen như than, chú Pa đen như than, ngồi với Bill Galvil trắng như vôi.
Tôi muốn khoe với cả thế giới chỗ tiền khách hàng thưởng cho chúng tôi mà ông Hannon để tôi giữ, bốn shilling, và một shilling ông Hannon trả cho buổi làm việc của tôi, tất cả năm shiỉỉing.
Mẹ tôi đang ngồi bên bếp và khi tôi đưa tiền cho bà, bà nhìn tôi, buông rơi đồng tiền và bật khóc. Tôi không hiểu tại sao mẹ tôi lại như vậy bởi tôi cứ nghĩ tiền phải làm người ta vui chứ sao lại làm người ta khóc. Mẹ tôi nói:
- Nhìn mắt con đi. Đến soi gương và nhìn mắt con đi.
Mặt tôi đen như than còn mắt tôi thì trông tệ hơn bao giờ hết. Mắt tôi rất đỏ và còn có rỉ nữa.
Mẹ tôi bảo tôi không được đi làm nữa. Không theo ông Hannon nữa. Tôi cố giải thích rằng ông Hannon đang rất cần tôi. Ông ấy gần như không đi được nữa. Sáng nay tôi đã phải tự làm mọi việc thay ông ấy, từ thắng ngựa đến chuyển than vào các nhà.
Mẹ tôi bảo mẹ tôi rất ái ngại cho những khó khăn của ông ấy nhưng chúng tôi cũng có những khó khăn của mình và điều mà mẹ tôi muốn tránh nhất bây giờ là có một đứa con bị mù phải mò mẫm trên đường phố Limerick. Mẹ tôi bảo tôi bị thương hàn đã suýt chết rồi bây giờ chẳng lẽ tôi lại muốn bị mù.
Và tôi không thể không khóc bởi vì đây là cơ hội của chính tôi, cơ hội trở thành người đàn ông mang về nhà những đồng tiền mà chúng tôi không nhận được từ bố tôi. Tôi không thể không khóc bởi tôi tự hỏi sáng thứ Hai ông Hannon sẽ xoay xở thế nào khi chẳng có ai giúp ông ấy đẩy các bao than ra thành xe và chuyển vào các nhà. Tôi không thể không khóc bởi vì tôi nhớ cái cách ông ấy gọi con ngựa thật hiền hòa và con ngựa của ông ấy cũng thật hiền hòa và con ngựa ấy sẽ thê nào nếu ông Hannon không đến dắt nó ra, nếu tôi không đến dắt nó ra? Con ngựa đó liệu có chết đói vì đợi yến mạch, cỏ khô, và táo chúng tôi vẫn mang đến cho nó không?
Mẹ tôi bảo tôi không nên khóc, như thế không tốt cho mắt của tôi. Mẹ tôi nói:
- Rồi con sẽ thấy. Mẹ nói không sai đâu. Rồi con sẽ thấy.
Mẹ tôi rửa mắt cho tôi và đưa cho tôi sáu xu để đưa Malachy và Michael đi xem Boris Karloff trong bộ phim Người đàn ông không thể bị treo cổ và để mua kẹo Cleeves. Mắt tôi đổ rỉ nên tôi nhìn lên màn ảnh rất khó và Malachy phải thuật lại cho tôi nghe những diễn biến của bộ phim. Những người ngồi quanh chúng tôi bảo Malachy câm miệng để họ nghe những gì Boris Karloff nói, và khi Malachy cãi lại rằng nó chỉ đang giúp người anh trai mù của nó thì họ gọi người dẹp trật tự, ông Frank Goggin đến, và ông ta bảo chúng tôi rằng nếu ông ấy còn nghe thấy chúng tôi nói một lời nào nữa là ông ấy sẽ ném chúng tôi ra khỏi rạp.
Tôi cóc quan tâm. Tôi quệt thuốc mắt và rỉ mắt ở một bên mắt đi để có thể nhìn màn ảnh rõ hơn trong khi mắt kia của tôi rỉ lại ra đầy và tôi cứ rụi, quệt, nhìn màn ảnh, rồi lại rụi và quệt, và tất cả những gì tôi nhìn thấy chỉ là một màu vàng lờ mờ.
Sáng thứ Hai bà Hannon gõ cửa nhà chúng tôi. Bà ấy xin phép mẹ tôi cho tôi đến bãi than báo với người trực ở đó rằng ông Hannon không thể đi giao than được, rằng ông ấy phải đi khám bệnh, rằng ngày mai nhất định ông ấy sẽ đi làm và số than hôm nay ông ấy không giao được sẽ được giao bù vào ngày mai. Bây giờ bà Hannon luôn gọi tôi là Frank. Bất cứ ai đi giao được hàng tạ than cũng không thể bị gọi theo kiểu trẻ con là Frankie được.
Người trực bãi than nói:
Hừm, chúng tôi đã rất kiên nhẫn với cái ông Hannon đó rồi. Cậu, tên cậu là gì? McCourt, thưa ông. Bảo với ông Hannon là chúng tôi cần giấy xác nhận của bác sĩ. Cậu hiểu chứ? Vâng, thưa ông.Bác sỹ nói ông Hannon phải vào viện ngay nếu không bệnh của ông ấy sẽ biến chứng thành bệnh hoại thư và nếu thế bác sĩ sẽ không chịu trách nhiệm. Xe cứu thương chở ông Hannon đi và thế là việc làm tốt của tôi cũng ra đi luôn. Giờ tôi sẽ trắng như bất cứ ai ở trường, không xe ngựa, không ngựa, không shilling để mang về nhà cho mẹ tôi nữa.
Vài ngày sau cô Bridey sang nhà chúng tôi. Cô ấy nói mẹ cô ấy muốn gặp tôi, muốn tôi đến uống trà với bà ấy. Bà Hannon ngồi bên bếp để tay lên chiếc ghế ông Hannon vẫn ngồi.
Ngồi xuống đi, Frank, - bà ấy nói.Khi tôi ngồi xuống một chiếc ghế nhỏ trong bếp bà nói:
Không, cháu ngồi đây. Ngồi vào ghế của ông ấy. Cháu có biết ông nhà tôi bao nhiêu tuổi không? Ô, chắc là nhiều tuổi lắm. Ông ấy phải đến ba mươi lăm tuổi.Bà Hannon mỉm cười. Bà ấy có hàm răng rất đẹp:
Ông ấy bốn mươi chín tuổi, Frank ạ, và một người đàn ông ở cái tuổi đó đáng lẽ không phải chịu đựng một đôi chân tệ như thế. Vâng, thưa bà Hannon. Cháu có biết có cháu đi làm cùng trên chiếc xe ngựa ấy là một niềm vui đối với ông ấy nhà tôi không? Không ạ. Đúng như vậy đấy, Frank ạ. Chúng tôi chỉ có hai đứa con gái, Bridey mà cháu biết, và Kathleen, y tá ở Dublin. Chúng tôi không có con trai và ông ấy nói cháu khiến ông ấy cảm thấy cháu như con trai ông ấy vậy.Tôi thấy mắt mình cay cay và tôi không muốn để bà ấy nhìn thấy tôi khóc đặc biệt là khi tôi không biết vì sao tôi lại khóc. Vì việc làm của tôi ư? Vì ông Hannon ư?
Tôi nghĩ tôi khóc là vì cái cách bà Hannon nói về ông ấy nghe buồn quá và bà ấy như vậy là vì ông Hannon.
Bà ấy nói:
Giống như một đứa con trai vậy, và tôi mừng vì ông ấy có cái cảm giác đó. Cháu biết rồi đấy, ông ấy không thể làm việc được nữa. Từ giờ trở đi ông ấy sẽ phải ở nhà. Cũng có cách chữa trị và nếu may mắn ông ấy có thể kiếm công việc nhẹ nhàng như làm bảo vệ. Cháu sẽ không có việc nữa, bà Hannon ạ. Cháu có việc chứ, Frank. Học. Đó là việc của cháu đấy. Đó đâu phải là một công việc, bà Hannon. Cháu sẽ không bao giờ có được một việc nào khác giống như việc đó đâu. Ông ấy nhà tôi rất đau lòng khi nhìn cháu mang những bao than xuống xe và cả mẹ cháu cũng vậy. Làm việc đó mãi thì cháu sẽ hỏng mắt mất. Thề có Chúa tôi rất lấy làm tiếc vì đã lòi cháu vào chuyện này. Cháu có thể đến bệnh viện thăm ông Hannon được không ạ? Có lẽ họ không cho cháu vào đâu nhưng khi nào ông ấy về thì cháu sang đây thãm óng ấy bất cứ lúc nào cháu muốn. Giờ ông chẳng thể làm gì ngoài việc đọc sách và nhìn ra cửa sổ.Khi tôi về nhà mẹ tôi bảo:
Con không nên khóc.Nhưng rồi mẹ tôi lại bảo:
Nước mắt có muối và nước mắt sẽ làm bụi bẩn trong mắt con trôi ra.