Chương 3
Bronwyn
Thứ Ba ngày 25 tháng Chín, 8:50 sáng
Tôi không thể thôi nhẩm đi nhẩm lại trong đầu. Giờ là tám giờ năm mươi phút sáng thứ Ba, hai mươi bốn giờ trước Simon đang trên đường tới phòng chủ nhiệm lần cuối cùng trong đời. Và sáu giờ năm phút sau đó chúng tôi cùng nhau đến phòng chịu phạt. Một giờ sau, nó chết.
Mười bảy năm, kết thúc như thế đó.
Tôi lách mình vào chiếc ghế quen thuộc nơi góc phòng học, cảm giác hai mươi lăm cái đầu xoay về phía mình khi tôi ngồi xuống. Dù không còn Nghe Đồn cập nhật thông tin, thì cái chết của Simon đến giờ ăn tối hôm qua đã lan khắp chốn. Tôi nhận được hàng lô hàng lốc tin nhắn từ tất cả những người tôi từng cho số điện thoại.
“Cậu không sao chứ?” cô bạn Yumiko rướn người qua siết tay tôi. Tôi gật, nhưng làm thế khiến cơn váng vất trong đầu thêm trầm trọng. Hóa ra nửa bình rượu bourbon đổ vào một cái dạ dày rỗng là một ý tưởng tồi tệ. May mà lúc Nate thả tôi xuống bố mẹ tôi đều vẫn còn đang ở chỗ làm, và em tôi, Maeve, đã trút xuống họng tôi vừa đủ lượng cà phê đen để tôi tỉnh táo được một chút khi họ về đến nhà. Những ảnh hưởng còn sót lại của chỗ rượu, bố mẹ tôi đều quy cho sang chấn tâm lý.
Chuông đầu giờ vang lên, nhưng không có tiếng loa lè rè quen thuộc mở đầu cho những thông báo buổi sáng. Thay vào đó, cô chủ nhiệm Park hắng giọng và đứng lên từ sau bàn giáo viên. Tờ giấy cô đang nắm trong tay run bần bật khi cô cất giọng đọc. “Sau đây là thông báo chính thức từ ban giám hiệu trường trung học Bayview. Tôi rất lấy làm tiếc khi phải báo tin buồn này đến cho các em. Chiều hôm qua, một bạn học của các em, Simon Kelleher, đã bị phát dị ứng nghiêm trọng. Tuy Simon nhanh chóng được đưa đi cấp cứu, nhưng không may là đã quá muộn. Simon mất trong bệnh viện không lâu sau đó.”
Có ai đó nấc lên một tiếng, theo ngay sau là một loạt những âm thanh thì thầm lao xao khẽ lan khắp phòng. Phân nửa phòng đã lôi điện thoại ra. Coi như hôm nay quy định đem quẳng sọt rác hết. Trước khi kịp ngăn mình lại, tôi cũng đã lôi điện thoại từ trong ba lô ra và bật Nghe Đồn lên. Tôi phần nào ngỡ rằng sẽ nhìn thấy thông báo về cái tin nóng sốt mới mà Simon khoe chiều hôm qua trước khi vào phòng phạt, nhưng dĩ nhiên là chẳng có gì ngoài tin tuần trước.
Tay trống phê pha rất được yêu mến của chúng ta đang tính thử bước vào lĩnh vực điện ảnh. RC đã gắn một cái máy quay trong hộp đèn trên trần phòng ngủ, và đã tổ chức mấy buổi công chiếu cho nhóm bạn của cậu ta. Các cô gái, hãy cẩn thận. (Tuy là, với KL thì muộn rồi.)
Ai cũng thấy cái sự đong đưa giữa nàng thơ mộng mơ TC và chàng đại gia mới về trường GR, nhưng liệu có gì hơn thế nữa không thì ai mà biết được? Mà dù có ai biết chăng nữa thì hẳn đó không phải là bạn trai của nàng rồi, vì trong khi chàng ngồi trên khán đài ngoài trời xem trận đấu hôm thứ Bảy thì T và G đang say sưa mây mưa với nhau ngay bên dưới chân chàng. Thương JD. Cái số luôn là người biết sau cùng.
Điều đặc biệt nhất về Nghe Đồn chính là... bạn gần như hoàn toàn có thể tin chắc từng từ một trong đó đều đúng sự thật. Simon lập cái ứng dụng từ năm lớp mười, sau khi dành kỳ nghỉ xuân trong một trại hè lập trình đắt tiền nào đó ở Thung lũng Silicon, và không ai ngoài nó được quyền đăng bài lên đó. Nguồn tin của nó ở khắp trong trường, và những thứ nó đăng đều được chọn lọc và kiểm tra kỹ. Mọi người thường là chối hoặc lờ đi, nhưng nó chưa bao giờ sai.
Tôi chưa từng được nhắc đến trên đó; tôi sạch sẽ quá mà. Chỉ có duy nhất một điều Simon đã có thể viết về tôi, nhưng nó hầu như không thể nào phát hiện ra đó là gì.
Giờ thì nó sẽ chẳng bao giờ biết được nữa.
Cô Park vẫn đang nói. “Cả ngày hôm nay ở hội trường sẽ có buổi tham vấn tâm lý. Các em được phép rời lớp bất cứ lúc nào cảm thấy cần chia sẻ với ai đó về thảm kịch vừa qua. Nhà trường dự định sẽ tổ chức một buổi lễ tưởng niệm cho Simon sau trận bóng ngày thứ Bảy, và ngay khi có thông tin cụ thể thầy cô sẽ báo cho các em. Còn về chuyện hậu sự của gia đình Simon thì khi biết thầy cô cũng sẽ cập nhật cho các em.”
Chuông vang lên và cả phòng lục đục đứng lên để về lớp, nhưng cô Park gọi tên tôi trước cả khi tôi kịp cầm ba lô lên. “Bronwyn, em ở lại một lát được không?”
Yumiko ném cho tôi một cái nhìn đầy cảm thông lúc nhỏ đứng lên, vén một lọn trên mái tóc đen cắt ngắn ra sau tai. “Mình với Kate chờ cậu ngoài hành lang nhé?”
Tôi gật đầu và cầm lấy ba lô. Cô Park vẫn đang cầm hờ tờ thông báo khi tôi tiến lại bàn cô. “Bronwyn, hiệu trưởng Gupta muốn cả bốn học sinh có mặt trong phòng cùng Simon từng em một có buổi tham vấn riêng ngày hôm nay. Cô ấy có nhờ cô báo lại với em là buổi gặp của em sẽ diễn ra lúc mười một giờ tại văn phòng thầy O’Farrell.”
Thầy O’Farrell là cố vấn học tập của tôi, và tôi quá quen với văn phòng của thầy. Suốt sáu tháng qua tôi đã đến đó rất nhiều lần, lên kế hoạch cho việc vào đại học. “Thầy O’Farrell là người tham vấn ạ?” tôi hỏi. Thế có lẽ cũng không tệ lắm.
Trán cô Park nhăn lại. “Ồ, không. Trường mời chuyên gia về.”
Tuyệt. Tôi đã dành cả nửa buổi tối hôm qua để ra sức thuyết phục bố mẹ là mình không cần gặp bác sĩ nào hết. Họ ắt sẽ mừng lắm khi tôi rốt cuộc cũng bị buộc phải đi. “Vâng,” tôi nói, và nán lại chờ xem liệu cô còn gì để nói với tôi nữa không, nhưng cô chỉ gượng gạo vỗ vỗ cánh tay tôi.
Như đã hứa, Kate và Yumiko vẫn đang lởn vởn trước cửa. Cả hai mỗi người một bên hộ tống tôi đến lớp Đại số là tiết đầu tiên, như thể che chắn bảo vệ tôi khỏi những tay paparazzi trơ trẽn. Dù vậy, Yumiko né sang bên ngay khi nhỏ thấy Evan Neiman đứng chờ trước cửa lớp chúng tôi.
“Chào cậu, Bronwyn.” Evan đang mặc một trong mấy chiếc áo polo có chữ lồng nhau quen thuộc của cậu, dòng chữ EWN kiểu viết tay được thêu vào ngực trái bên trên tim cậu. Tôi cứ thắc mắc mãi không biết W là viết tắt của cái gì. Walter? Wendell? William? Tôi mong là William, không thì thật khổ thân cậu. “Cậu có nhận được tin nhắn của mình tối qua không?”
Có. Cậu cần gì không? Muốn có người bầu bạn không? Vì đó là lần duy nhất Evan Neiman chủ động nhắn tin, nên cái phần tiêu cực trong tôi quyết định hẳn là cậu đang mong câu được một ghế ngồi ở hàng đầu cho sự kiện chấn động nhất từng xảy ra ở Bayview này. “Mình có thấy, cảm ơn cậu. Nhưng tối qua mình mệt quá.”
“À, vậy nếu khi nào cậu muốn tâm sự, cứ bảo mình nhé.”
Evan liếc nhìn hành lang đang thưa thớt dần. Cậu là người vô cùng đúng giờ giấc. “Bọn mình vào lớp là vừa rồi, nhỉ?”
Yumiko toe toét cười với tôi trong lúc cả hai ngồi xuống ghế và thì thầm, “Evan cứ hỏi cậu ở đâu suốt buổi ôn tập Đội tuyển Toán hôm qua đó.”
Tôi ước gì mình cũng hào hứng được như nhỏ, nhưng từ lúc ở trong phòng phạt cho đến tiết Đại số, ở một thời điểm nào đó tôi tự dưng chẳng còn thấy hứng thú gì với Evan Neiman nữa. Có thể đó là do căng thẳng hậu sang chấn từ vụ việc của Simon, nhưng ngay lúc này đây tôi chẳng thể nhớ nổi lúc trước tôi thấy cậu hấp dẫn ở điểm nào. Cũng chẳng phải tôi yêu cậu điên cuồng say đắm gì. Chủ yếu là tôi đã nghĩ, Evan và tôi có khả năng trở thành một cặp ra trò đến lúc tốt nghiệp, rồi sau đó cả hai sẽ vui vẻ chia tay nhau, mỗi người một ngả hướng về ngôi trường đại học mình đã chọn. Tôi nhận ra nghe qua thì không được thú vị cho lắm, nhưng hẹn hò trung học cũng chỉ đến thế mà thôi. Ít ra thì là đối với tôi.
Tôi ngồi suốt tiết Đại số, đầu óc ở tận đâu, cách xa những phương trình muôn dặm, thế rồi đột nhiên tiết học kết thúc và tôi lại rảo bước tới lớp Ngữ văn nâng cao cùng Kate và Yumiko. Đầu tôi vẫn còn nghĩ ngợi mãi về những gì đã xảy ra hôm qua, đến độ khi chúng tôi đi ngang qua Nate ngoài hành lang, tôi liền buột miệng gọi, “Chào Nate,” như thể đó là việc bình thường nhất trên đời. Tôi dừng lại, khiến cả hai ngạc nhiên, và cậu ta cũng dừng bước.
“Chào,” cậu ta đáp. Mái tóc đen của cậu ta rối bù hơn bao giờ hết, và tôi khá chắc cậu ta vẫn đang mặc cái áo thun từ hôm qua. Dù vậy, không hiểu sao vẻ ngoài này hợp với cậu ta. Rất hợp là đằng khác. Mọi thứ nơi cậu ta, từ dáng người cao lêu khêu tới gò má góc cạnh và đôi mắt hơi xa nhau với lông mi đen dài, đều đang khiến dòng suy nghĩ của tôi rối loạn.
Kate và Yumiko cũng đang nhìn cậu ta chằm chằm, nhưng theo một kiểu khác. Như thể cậu ta là một con thú dữ khó lường trong một cái chuồng lỏng lẻo sơ sài ở vườn thú vậy. Trò chuyện với Nate Macauley trên hành lang không nằm trong lịch trình hằng ngày của chúng tôi. “Cậu dự buổi tham vấn chưa?” tôi hỏi.
Mặt cậu ta không có chút phản ứng. “Buổi gì cơ?”
“Tham vấn tâm lý. Sau chuyện Simon ấy. Chủ nhiệm của cậu không nói cậu biết à?”
“Tôi mới tới thôi,” cậu ta nói, làm tôi trố mắt. Tôi chẳng trông chờ Nate được vinh danh học sinh gương mẫu đi học đúng giờ, nhưng cũng gần mười giờ sáng rồi còn gì.
“Ồ. À thì, cả đám bọn mình có mặt ở đó hôm qua sẽ được một buổi tham vấn riêng từng người. Buổi của tôi lúc mười một giờ.”
“Chúa ơi,” Nate lầm bầm, lấy tay lùa tóc.
Hành động đó khiến mắt tôi chuyển sang cánh tay cậu ta, và nó cứ nán lại ở đó cho tới khi Kate hắng giọng. Mặt tôi đỏ bừng lên khi tôi hoàn hồn, hơi quá muộn nên không kịp hiểu cậu ấy vừa mới nói gì. “Thôi thì, gặp cậu sau vậy,” tôi lí nhí.
Yumiko nghiêng đầu sát lại tôi ngay khi chúng tôi vừa ra ngoài tầm nghe. Trông cậu ta như thể mới ngủ dậy vậy, cậu ấy thì thầm. “Và không phải một mình.”
“Mình mong là cậu đã tắm thuốc tẩy sau khi xuống khỏi mô tô của cậu ta,” Kate đế thêm. “Cậu ta đúng là đồ điếm đực.”
Tôi lườm cậu ấy. “Cậu biết gọi điếm đực là rất phân biệt giới tính không hử? Nếu phải gọi vậy thì chí ít cũng tìm cái gì cho trung lập một chút chứ.”
“Sao cũng được,” Kate gạt đi. “Tóm lại, cậu ta là bệnh lậu biết đi.”
Tôi không đáp. Đúng là Nate mang tiếng như vậy, nhưng chúng tôi không thật sự biết gì nhiều về cậu ta. Tôi suýt nữa kể với Kate là hôm qua Nate đã lái xe chở tôi về cẩn thận như thế nào, nhưng rồi tôi không chắc mình nói vậy để làm gì.
Sau tiết Ngữ văn tôi đến văn phòng thầy O’Farrell, thầy ngoắc tay ra hiệu tôi vào khi tôi gõ lên cánh cửa để ngỏ. “Ngồi đi, Bronwyn. Bác sĩ Resnick hơi muộn một chút, nhưng cô ấy sẽ đến ngay thôi.” Tôi ngồi xuống đối diện thầy và lén nhìn tên mình nguệch ngoạc trên bìa tập hồ sơ được đặt ngay ngắn giữa bàn của thầy. Tôi định cầm nó lên, rồi lại do dự, không biết có phải bí mật gì không, nhưng thầy đẩy nó về phía tôi. “Thư giới thiệu cho em từ bên tổ chức MUN(1). Còn cả khối thời gian trước hạn nộp đơn sớm của Yale.”
Tôi khẽ thở phào nhẹ nhõm. “Ôi, em cảm ơn!” tôi nói, và cầm tập hồ sơ lên. Đây là cái thư cuối cùng mà tôi đang trông ngóng. Yale là truyền thống của gia đình - ông nội tôi đi nghiên cứu trao đổi ở đó và ông đã đưa cả gia đình từ Colombia đến New Haven sống sau khi vào biên chế. Các con của ông, kể cả bố tôi, đều học đại học ở đó, và đó cũng là nơi bố mẹ tôi gặp nhau. Bố mẹ luôn bảo không nhờ Yale thì làm gì có cả nhà chúng tôi.
“Có gì đâu em.” Thầy O’Farrell ngả người trên ghế và chỉnh lại cặp kính. “Ban nãy em có hắt hơi không? Thầy Camino ghé qua hỏi thăm xem em có hứng thú dạy kèm môn Hóa kỳ này không. Có mấy đứa lớp mười cũng đang khổ sở hệt như em năm ngoái ấy. Chúng muốn biết em có phương pháp học tập nào để đứng nhất lớp như vậy.”
Tôi phải nuốt khan vài lần rồi mới có thể trả lời. “Em cũng muốn lắm,” tôi nói, cố tỏ ra hào hứng hết mức có thể, “nhưng hiện giờ em hơi ôm đồm rồi ạ.” Nụ cười của tôi kéo ra tới tận mang tai.
“Không sao. Em có nhiều thứ phải lo mà.”
Hóa là môn duy nhất tôi từng phải khổ sở, đến mức điểm trung bình học kỳ I của tôi là một con D to tướng. Cứ sau mỗi bài kiểm tra tơi tả là tôi cảm thấy Ivy League(2) lại vuột khỏi tầm tay thêm một chút. Ngay cả thầy O’Farrell cũng đã bắt đầu nhẹ nhàng gợi ý tôi rằng chọn đại một trường hàng đầu nào khác cũng được.
Thế là tôi cải thiện điểm số của mình, và cuối năm được A. Nhưng tôi khá chắc không có người nào muốn tôi chia sẻ phương pháp của mình với những học sinh khác đâu.
Cooper
Thứ Năm ngày 27 tháng Chín, 12:45 trưa
“Tối nay mình có gặp nhau không?”
Keely cầm tay tôi lúc hai đứa đang sóng bước tới chỗ tủ đồ sau giờ ăn trưa, đôi mắt sẫm to tròn ngước nhìn tôi. Mẹ em người Thụy Điển còn ba người Philippines, và sự hòa trộn giữa hai sắc tộc đó khiến Keely trở thành cô gái xinh đẹp không đối thủ ở trường. Tuần này tôi không gặp em nhiều, do bao nhiêu chuyện ở nhà cùng lịch tập bóng, và tôi có thể thấy em bắt đầu sốt ruột. Keely không phải kiểu người đeo bám, không hề, nhưng em vẫn cần chúng tôi được đều đặn bên nhau.
“Chưa biết nữa,” tôi nói. “Anh còn bài chưa làm xong đây.”
Đôi môi hoàn hảo của em cong xuống, và tôi biết em chuẩn bị lên tiếng phản đối, thế nhưng ngay lúc đó một giọng nói vang lên trên loa. “Chú ý. Mời các em Cooper Clay, Nate Macauley, Adelaide Prentiss và Bronwyn Rojas đến văn phòng. Mời Cooper Clay, Nate Macauley, Adelaide Prentiss và Bronwyn Rojas đến văn phòng.”
Keely nhìn quanh như thể đang đợi một lời giải thích. “Chuyện gì vậy? Có phải liên quan đến Simon không?”
“Chắc vậy.” Tôi nhún vai. Hai ngày trước tôi đã trả lời các câu hỏi của cô Gupta về chuyện xảy ra trong giờ phạt rồi, nhưng có lẽ giờ cổ lại đang chuẩn bị cho vòng kế tiếp. Ba tôi có nói ba mẹ Simon quen biết khá rộng trong thị trấn, và nhà trường nên chuẩn bị tinh thần bị kiện nếu rốt cuộc nguyên nhân là do có sơ suất từ phía nhà trường. “Phải đi rồi. Nói chuyện sau nhé, OK?” Tôi hôn phớt lên má Keely, đeo ba lô lên vai, rồi đi tiếp.
Khi tôi tới phòng hiệu trưởng, cô thư ký ở bàn tiếp khách chỉ tôi vào một phòng họp nhỏ đã đầy người bên trong: hiệu trưởng Gupta, Addy, Bronwyn, Nate và một viên cảnh sát. Cổ họng tôi hơi khô lại khi tôi ngồi xuống cái ghế trống cuối cùng.
“Cooper, tốt. Giờ thì chúng ta bắt đầu được rồi.” Cô Gupta chắp tay lại trước mặt và nhìn quanh bàn. “Cô muốn giới thiệu sĩ quan Hank Budapest tới từ Sở cảnh sát Bayview. Anh Budapest có vài câu hỏi về những gì các em chứng kiến ngày thứ Hai.”
Sĩ quan Budapest lần lượt bắt tay chúng tôi. Anh ta còn trẻ nhưng đã bắt đầu hói, tóc màu nâu vàng và da lốm đốm tàn nhang. Không có vẻ đáng sợ hay uy quyền lắm. “Hân hạnh được gặp các em. Chuyện này sẽ không mất thời gian đâu, nhưng sau khi nói chuyện với gia đình Kelleher, chúng tôi muốn tìm hiểu kỹ hơn về cái chết của Simon. Chúng tôi vừa nhận được kết quả khám nghiệm sáng nay, và...”
“Có rồi ư?” Bronwyn cắt ngang, khiến cô Gupta phải liếc nhìn sang nhưng nhỏ này không nhận thấy. “Chẳng phải thường quy trình sẽ lâu hơn sao?”
“Các kết quả sơ bộ có thể có trong vòng vài ngày,” sĩ quan Budapest nói. “Các kết quả này có thể coi là cuối cùng, chúng cho thấy Simon chết vì một lượng lớn dầu lạc hấp thụ vào cơ thể không lâu trước đó. Điều này khiến bố mẹ cậu ấy thấy lạ, vì bình thường cậu ấy lúc nào cũng cẩn thận với đồ ăn thức uống của mình. Các em bảo cô Gupta rằng Simon uống một cốc nước ngay trước khi gục xuống, phải không?”
Cả đám gật đầu, và sĩ quan Budapest tiếp tục, “Cái cốc có dấu vết của dầu lạc, nên xem ra rõ ràng Simon đã chết vì cốc nước đó. Cái chúng tôi đang muốn biết chính là làm thế nào lại có dầu lạc trong cốc của cậu ấy.”
Không ai nói gì. Addy nhìn tôi rồi đánh mắt đi chỗ khác, trán khẽ nhăn lại. “Có ai nhớ Simon lấy cái cốc ở đâu không?” sĩ quan Budapest ướm hỏi, cây viết trong tay lơ lửng trên cuốn sổ trắng trơn trước mặt.
“Em không chú ý lắm,” Bronwyn nói. “Lúc đó em đang bận viết bài.”
“Em cũng thế,” Addy nói, dù tôi dám chắc lúc đó nhỏ còn chưa viết được chữ nào. Nate duỗi người và ngước mắt nhìn trần nhà.
“Em nhớ,” tôi xung phong. “Nó lấy cốc từ cái chồng kế bồn rửa.”
“Chồng cốc để úp hay ngửa?”
“Úp,” tôi đáp. “Simon lấy cái trên cùng.”
“Em có nhận thấy bất cứ chất lỏng nào nhỏ xuống từ cái cốc khi cậu ấy rút nó ra không? Cậu ấy có vẩy cái cốc không?
Tôi nghĩ lại lúc đó. “Không. Nó chỉ hứng nước vô cốc thôi.”
“Và rồi uống nước?”
“Phải,” tôi nói, nhưng Bronwyn chỉnh lại.
“Không phải,” nhỏ nói. “Không phải ngay lập tức đâu. Cậu ta còn nói thêm một lát nữa. Nhớ không?” Nhỏ quay sang Nate. “Cậu ta hỏi có phải cậu đã bỏ điện thoại vào ba lô của bọn này không. Khiến bọn này gặp rắc rối với thầy Avery ấy.”
“Điện thoại. Phải rồi.” Sĩ quan Budapest hí hoáy gì đó xuống cuốn sổ. Anh ta nói ra câu đó không phải ở dạng câu hỏi, dù vậy Bronwyn cũng vẫn giải thích.
“Có ai đó chơi khăm bọn em,” nhỏ nói. “Đó là lý do vì sao bọn em bị phạt. Thầy Avery phát hiện trong ba lô bọn em có mấy cái điện thoại mà không phải của bọn em.” Nhỏ quay sang cô Gupta và trưng ra vẻ mặt tổn thương. “Thật không công bằng. Em thắc mắc mấy hôm nay rồi, chuyện đó có bị lưu vào học bạ không ạ?”
Nate đảo mắt. “Không phải tôi. Có người cũng nhét điện thoại vô ba lô của tôi luôn.”
Cô Gupta cau trán. “Đây là lần đầu tiên cô nghe về chuyện này.”
Tôi nhún vai khi cổ nhìn sang. Mấy ngày qua tôi đâu có nghĩ gì về vụ điện thoại đó.
Sĩ quan Budapest không có vẻ ngạc nhiên. “Thầy Avery có nhắc đến chuyện đó khi tôi gặp thầy ấy ban nãy. Thầy ấy nói không ai nhận lại điện thoại, nên thầy ấy cho rằng rốt cuộc đó hẳn là một trò chơi khăm thật.” Anh ta kẹp cây viết giữa ngón trỏ với ngón giữa và nhịp nhịp nó lên mặt bàn. “Có thể nào đó là trò mà Simon đã bày ra với các em không?”
“Em không thấy lý do gì phải làm thế cả,” Addy nói. “Trong ba lô cậu ta cũng có điện thoại nữa. Vả lại, em có quen biết gì cậu ta đâu.”
“Cậu với cậu ta lọt vào danh sách ảnh hưởng hồi vũ hội năm ngoái mà,” Bronwyn nhắc. Addy chớp mắt, như thể chỉ vừa nhớ ra đó là sự thật.
“Các em có bao giờ gặp vấn đề gì với Simon chưa?” sĩ quan Budapest hỏi. “Tôi có nghe về cái ứng dụng mà cậu ta tạo ra - tên Nghe Đồn, phải không nhỉ?” Anh ta nhìn tôi, nên tôi gật đầu. “Các em có bao giờ xuất hiện trên đó chưa?”
Ai cũng lắc đầu, trừ Nate. “Như cơm bữa,” cậu ta đáp.
“Vì sao?” sĩ quan Budapest hỏi.
Nate cười khẩy. “Toàn những thứ nhảm l-” cậu ta mở miệng, nhưng cô Gupta cắt ngang.
“Ăn nói cẩn thận, Macauley.”
“Toàn những thứ nhảm nhí,” Nate sửa. “Chủ yếu là chuyện ngủ với người này người kia.”
“Em có thấy phiền vì thế không? Bị đem ra bàn tán như vậy ấy?”
“Không có đâu.” Có vẻ cậu ta nói thật. Có lẽ xuất hiện trên một cái ứng dụng nhiều chuyện chả là gì so với việc bị bắt. Nếu chuyện bắt bớ đó có thật. Simon chưa từng đăng gì về vụ đó, nên dường như chả ai biết chính xác chuyện của Nate.
Thảm hại làm sao, khi Simon đã trở thành nguồn tin tức được tín nhiệm nhất trường.
Sĩ quan Budapest nhìn khắp lượt ba đứa còn lại chúng tôi. “Nhưng ba em thì không?” Chúng tôi lại lắc đầu. “Các cô cậu có bao giờ lo rằng mình sẽ xuất hiện trên ứng dụng của Simon không? Cảm giác thắc thỏm hồi hộp, hay bất cứ gì tương tự?”
“Em thì không,” tôi nói, nhưng giọng thốt ra không được tự tin như tôi muốn. Tôi rời mắt khỏi sĩ quan Budapest và nhìn thấy Addy với Bronwyn như hai thái cực đối nhau: Addy mặt trắng bệch như ma, còn Bronwyn đỏ lựng như gấc. Nate quan sát họ trong vài giây, ngả ghế ra sau, và nhìn sĩ quan Budapest.
“Ai cũng có bí mật mà,” cậu ta nói. “Đúng không?”
Buổi tập thể lực tối đó của tôi kéo dài hơn thường lệ, nhưng ba vẫn bắt mọi người chờ tôi tập xong để cả nhà có thể ăn tối cùng nhau. Đến bảy giờ, khi cuối cùng chúng tôi cũng ngồi vào bàn, thằng em tôi, Lucas, ôm bụng và lết tới bàn ăn với vẻ khổ sở chịu đựng.
Cuộc nói chuyện vẫn cứ xoay quanh cùng một chủ đề suốt từ đầu tuần tới giờ: Simon. “Biết ngay là trước sau gì cảnh sát cũng vào cuộc mà,” ba nói, múc một muỗng nhỏ khoai tây nghiền cho vào đĩa. “Cái chết của thằng nhỏ đó có vấn đề.” Ba khịt mũi. “Có khi nào trong hệ thống nước có lẫn dầu lạc không? Đám luật sư sẽ tận dụng ngay chuyện đấy cho coi.”
“Mắt anh ta lồi ra như vầy hả?” Lucas hỏi, làm bộ trố mắt. Nó mới mười hai, nên cái chết của Simon với nó chẳng khác gì mấy cảnh máu me trong trò chơi điện tử.
Bà nội vươn tay ra vả mu bàn tay của Lucas. Nội cao không tới mét rưỡi và tóc trăng xoăn tít, nhưng nội vô cùng nghiêm. “Không nói được gì tử tế về thằng nhỏ tội nghiệp đó thì ngậm cái miệng lại.”
Nội sống cùng chúng tôi từ lúc cả nhà chuyển từ Mississippi tới đây năm năm trước. Hồi đó tôi ngạc nhiên lắm vì có nội đi cùng; ông nội qua đời đã lâu, nhưng nội vẫn còn khá nhiều bạn bè và hội nhóm để giết thời gian. Giờ khi cả nhà ở đây được một thời gian rồi, tôi mới hiểu tại sao. Chi phí ăn ở cơ bản của chúng tôi cao gấp ba lần so với hồi ở Mississippi, và nếu không nhờ tiền của nội thì chúng tôi chả đời nào sống nổi ở đây. Nhưng ở Bayview bạn có thể chơi bóng chày quanh năm, và chỗ này có một trong những chương trình học cấp ba tốt nhất nước. Ba vẫn mong rằng rồi sẽ có ngày tôi chứng tỏ mình xứng đáng với khoản tiền thế chấp khổng lồ cùng công việc mà ba ghét cay ghét đắng này.
Có thể lắm. Sau khi cú bóng nhanh của tôi được cải thiện thêm tám ki lô mét một giờ trong mùa hè qua, tôi đã đứng hạng bốn trong danh sách dự đoán của ESPN cho cuộc tuyển quân của MLB(3) tháng Sáu năm tới. Tôi cũng đang được nhiều trường đại học chiêu mộ, và cũng chẳng thành vấn đề gì nếu chọn đi học trước. Nhưng bóng chày không như bóng bầu dục hay bóng rổ. Nếu có thể thi đấu ở các giải bán chuyên ngay sau khi học xong trung học, người ta thường sẽ chọn làm thế.
Ba hướng bàn tay đang cầm dao vô tôi. “Thứ Bảy này con có một trận đấu giao hữu đó. Đừng quên.”
Làm như muốn là quên được vậy. Khắp nhà dán đầy giấy nhắc.
“Kevin, hoãn lại một tuần được không?” mẹ tôi lẩm bẩm, nhưng không có vẻ gì nhiệt tình. Mẹ biết sẽ chỉ hoài công.
“Điều tốt nhất Cooperstown có thể làm bây giờ chính là cứ sinh hoạt như bình thường,” ba nói. “Giãn ra thì thằng nhỏ kia cũng có sống lại được đâu. Chúa phù hộ linh hồn thằng nhỏ.”
Đôi mắt ti hí, sáng rực của nội chĩa vào tôi. “Cooper, nội hy vọng bây biết là mấy đứa đã chẳng thể làm gì để giúp Simon hết. Giờ cảnh sát sẽ phải điều tra cho thật kỹ lưỡng, thế thôi.”
Tôi không biết có thật thế không. Sĩ quan Budapest cứ hỏi tôi về mấy cây bút Epi bị mất và tôi đã ở một mình trong phòng y tế bao lâu. Gần như thể anh ta nghĩ có khả năng tôi đã làm gì đó với chúng trước khi cô Grayson tới nơi. Nhưng anh ta không nói thẳng điều đó. Nếu anh ta nghĩ có người hại Simon, tôi không biết sao anh ta lại không nhắm vào Nate. Nếu ai hỏi - mà thực tế là không ai - tôi sẽ đặt nghi vấn ngay từ đầu là làm sao một kẻ như Nate lại biết về bút Epi được.
Chúng tôi vừa dọn bàn xong thì chuông cửa reo, và Lucas nhào liền ra cửa, rú lên, “Để con mở!” Vài giây sau nó lại la lên lần nữa. “Là chị Keely!”
Nội đứng lên một cách khó khăn, phải nhờ đến cây gậy chống có đầu hình đầu lâu mà Lucas đã chọn mua hồi năm ngoái, khi nội rốt cuộc cũng chịu đối diện với sự thật là mình không còn có thể tự bước đi nữa. “Tưởng bây nói là tối nay hai đứa không có hẹn nhau chớ Cooper?”
“Đúng vậy mà nội,” tôi lầm bầm khi Keely bước vào nhà bếp, miệng nhoẻn cười, vòng tay qua cổ tôi ôm siết.
“Anh sao rồi?” em thì thầm vào tai tôi, đôi môi mềm mại lướt nhẹ trên má tôi. “Cả ngày nay em cứ nghĩ tới anh.”
“Cũng OK,” tôi đáp. Em thả tôi ra và cho tay vào túi, nhá cho tôi thấy một cái gói bằng giấy bóng kính rồi tủm tỉm cười. Kẹo cam thảo, thứ chắc chắn không thuộc chế độ ăn uống dinh dưỡng của tôi, nhưng là thứ tôi thích nhất trên đời. Em hiểu tôi quá. Cả ba mẹ tôi nữa, nhị vị phụ huynh muốn có mấy phút chuyện trò xã giao trước khi dắt nhau đi bowling.
Điện thoại tôi đánh chuông, tôi lấy nó ra khỏi túi quần. Chào anh chàng đẹp trai.
Tôi cúi đầu xuống để giấu nụ cười bất chợt hiện lên trên môi, rồi nhắn lại: Chào.
Tối nay mình gặp không?
Không được rồi. Gọi sau nha?
OK, nhớ anh.
Keely đang nói chuyện với mẹ tôi, mắt em sáng lên đầy hứng thú. Em không hề giả vờ. Keely không chỉ đẹp bề ngoài; em là người mà nội gọi là “đẹp người đẹp nết”. Một cô gái tử tế thật sự. Mọi thằng con trai ở Bayview đều ước được là tôi.
Anh cũng nhớ em.