Chương 4
Addy
Thứ Năm ngày 27 tháng Chín, 7:30 tối
Lẽ ra tôi phải tranh thủ làm bài tập trước khi Jake tới, thế mà tôi lại đang ngồi trước bàn trang điểm trong phòng mình, ngón tay ấn vào phần da gần mép tóc. Chỗ mềm mềm bên thái dương trái cảm giác như sẽ biến thành một trong mấy cái mụn kinh khủng quá khổ mà cứ mấy tháng tôi lại bị một lần vậy. Tôi biết hễ lần nào bị là ai cũng thấy hết.
Tôi sẽ phải xõa tóc một thời gian rồi, dù sao thì Jake cũng thích tôi để như vậy. Tóc là thứ duy nhất tôi cảm thấy tự tin trăm phần trăm quanh năm. Tuần rồi tôi với mấy nhỏ bạn đi ăn ở quán Glenn, Keely và tôi ngồi kế nhau đối diện với tấm gương lớn, và nhỏ đưa tay qua vừa vuốt tóc tôi vừa cười với ảnh của cả hai trong gương. Bọn mình đổi với nhau được không? Chỉ một tuần thôi? nhỏ nói.
Tôi mỉm cười với nhỏ, nhưng trong lòng ước mình đang ngồi bên kia bàn. Tôi ghét thấy bản thân và Keely ở cạnh nhau. Nhỏ xinh thật xinh, nước da màu đồng, hai hàng mi dài và cặp môi như Angelina Jolie. Trong phim, nhỏ sẽ sắm vai nữ chính, còn tôi sẽ được giao vai cô bạn thân mờ nhạt có cái tên mà phim chưa hết đã chẳng ai còn nhớ.
Chuông cửa vang lên, nhưng tôi biết rõ Jake sẽ chẳng thể lên lầu ngay lập tức. Mẹ sẽ giữ anh lại chí ít cũng mười phút. Chuyện về Simon mẹ nghe bao nhiêu cũng không đủ, và nếu tôi cứ thả ra thì mẹ chắc sẽ dành cả buổi tối nói về cuộc gặp hôm nay với sĩ quan Budapest.
Tôi rẽ tóc làm hai và chải từng bên một từ trên xuống dưới. Tâm trí cứ nghĩ mãi về Simon. Từ năm lớp chín nó đã thường trực lởn vởn quanh nhóm chúng tôi, nhưng chưa bao giờ là thành viên của nhóm. Nó chỉ có một người bạn đúng nghĩa, một cô gái ăn bận kiểu Goth(4) tên Janae. Tôi đã tưởng hai người đó là một cặp cho tới khi Simon bắt đầu ve vãn rủ rê hết mấy đứa bạn của tôi. Đương nhiên không ai đồng ý. Dù vậy, năm ngoái, trước khi bắt đầu hẹn hò với Cooper, Keely có đi tiệc rồi say bí tỉ và để cho Simon hôn suốt năm phút trong tủ áo. Sau đó phải mất một thời gian rất dài nhỏ mới rũ được nó.
Nói thật, tôi không biết Simon nghĩ gì trong đầu. Kiểu Keely mê chỉ có một: dân thể thao. Nó lẽ ra nên theo đuổi mấy đứa như Bronwyn mới đúng. Nhỏ đó cũng dễ thương theo một kiểu kín đáo, đôi mắt xám khá thu hút và mái tóc có lẽ cũng đẹp nếu chịu để xõa. Với lại, nhỏ đó và Simon chắc cũng đụng mặt nhau trong mấy lớp nâng cao hoài chứ gì.
Nhưng mà hôm nay tôi có ấn tượng là Bronwyn không thích Simon lắm. Nếu không nói là không một chút nào. Khi sĩ quan Budapest thông báo Simon chết như thế nào, Bronwyn có vẻ... tôi chẳng biết nữa. Có vẻ không buồn.
Một tiếng gõ vang lên và tôi nhìn cánh cửa mở ra trong gương. Tôi cứ tiếp tục chải tóc trong lúc Jake bước vào. Anh cởi giày và nhảy lên giường tôi với vẻ mệt mỏi cường điệu, tay xoải ra hai bên. “Mẹ em vắt kiệt anh rồi, Ads. Anh chưa gặp ai có thể hỏi cùng một câu mấy chục kiểu như vậy.”
“Em còn lạ gì,” tôi nói, đứng lên đến nằm bên anh. Anh vòng tay qua người tôi và tôi rúc vào bên anh, đầu tựa vào vai anh, tay đặt trên ngực anh. Chúng tôi biết chính xác phải ấp nhau thế nào, và lần đầu tiên kể từ lúc bị gọi vào phòng hiệu trưởng, tôi thấy nhẹ nhõm.
Tôi rà mấy ngón tay theo bắp tay anh. Jake không lực lưỡng như Cooper, cậu ta thì khác gì siêu nhân với từng ấy bài tập cấp độ chuyên nghiệp như vậy, nhưng với tôi anh là sự cân bằng hoàn hảo giữa cơ bắp và săn chắc. Và anh chạy cũng nhanh nữa, trung vệ xuất sắc nhất trường Bayview từng có suốt nhiều năm qua. Anh không được xôn xao săn đón như Cooper, nhưng vài trường đại học cũng đã chú ý và anh vừa có một cơ hội được học bổng tốt.
“Cô Kelleher có gọi anh,” Jake nói.
Bàn tay tôi đang lần lên cánh tay anh bỗng ngừng lại và tôi nhìn chằm chằm vào lớp áo thun cotton màu xanh mềm mại của anh. “Mẹ Simon ư? Vì sao thế?”
“Cổ hỏi anh có thể giúp khuân quan tài trong lễ tang được không. Chủ nhật này,” Jake nói, vai anh nhấp nhô khi anh nhún vai một cái. “Anh nói được. Đâu thể nào từ chối, đúng không?”
Đôi khi tôi quên mất Simon và Jake từng là bạn với nhau hồi tiểu học và cấp hai, trước khi Jake chuyển sang chơi thể thao và Simon trở thành... con người hiện tại. Năm lớp chín Jake vào được đội bóng bầu dục đại diện cho trường và bắt đầu chơi với Cooper, người vốn đã là một huyền thoại Bayview sau khi xém chút nữa đưa được đội bóng cấp hai của mình vào giải World Series thiếu niên. Đến năm lớp mười cả hai người họ căn bản đã trở thành hai ông hoàng của lớp, và Simon chỉ còn là một thằng lập dị Jake từng quen.
Tôi nghĩ Simon khởi sự cái Nghe Đồn để gây ấn tượng với Jake. Simon phát hiện một trong mấy đối thủ bóng bầu dục của Jake là kẻ đứng sau màn quấy rối tình dục qua tin nhắn với một đám nữ sinh lớp mười, thế là nó đăng lên một cái ứng dụng tên Sau Giờ Học. Vụ đó suốt mấy tuần liền trở thành tâm điểm, và Simon cũng thế. Chắc đó là lần đầu tiên nó được chú ý như vậy ở Bayview.
Jake chắc đã vỗ vai nó một lần rồi quên luôn, còn Simon tiếp tục chuyển sang những vụ to hơn và lùm xùm hơn bằng cách dựng lên ứng dụng riêng của mình. Làm dịch vụ cộng đồng mà chỉ tin ngồi lê đôi mách thôi thì chẳng bõ, thế là Simon bắt đầu đăng những vụ đê tiện và cá nhân hơn cả vụ tin nhắn sex. Không ai coi nó là người hùng nữa, mà đến lúc đó họ bắt đầu sợ nó, và tôi nghĩ với Simon thì điều đó cũng chẳng tệ.
Tuy vậy, Jake thường bảo vệ Simon, khi cả đám chúng tôi ngồi lại chỉ trích nó về cái Nghe Đồn. Cũng có phải nó bịa chuyện đâu, anh nói. Đừng có lén lút làm bậy thì đâu có vấn đề gì.
Đôi khi Jake có thể suy nghĩ kiểu khá là rạch ròi trắng-đen. Với một người chẳng bao giờ phạm lỗi thì dễ rồi.
“Tối mai bọn mình vẫn sẽ ra bãi biển nhé, nếu em thấy được,” anh nói với tôi, cuốn tóc tôi vòng quanh ngón tay anh. Anh nói cứ như thể chuyện đó tùy thuộc vào tôi, nhưng cả hai đều biết Jake là người chịu trách nhiệm về đời sống xã hội của chúng tôi.
“Dĩ nhiên rồi,” tôi khẽ đáp. “Có ai đi nữa?” Đừng nói là có TJ.
“Có thể Cooper và Keely, tuy là nhỏ đó chưa chắc thằng kia đi được. Luis và Olivia. Vanessa, Tyler, Noah, Sarah...”
Đừng nói là có TJ.
“... và TJ.”
Aaaaa. Tôi không biết có phải là mình tưởng tượng không, hay đúng thực là TJ, người từng nằm rìa hội chúng tôi vì là học sinh mới chuyển đến, đã bắt đầu len lỏi vào trung tâm ngay cái lúc mà tôi ước gì cậu ta biến mất luôn cho rồi. “Tuyệt,” tôi lạnh nhạt nói, rướn lên hôn vào cằm Jake, cằm anh đến tầm này trong ngày là đã hơi ram ráp râu, một hiện tượng năm nay mới thấy.
“Adelaide!” Tiếng mẹ tôi lảnh lót vọng lên tầng. “Bọn mẹ ra ngoài đây.” Gần như tối nào mẹ với Justin cũng vào trung tâm, thường là đi nhà hàng nhưng cũng có lúc đi nhảy. Justin chỉ mới ba mươi và vẫn còn mê cái náo nhiệt ở những chỗ đó. Mẹ tôi cũng thích không kém, đặc biệt là khi người ta tưởng mẹ tầm tuổi Justin.
“OK!” tôi gọi với xuống, và cửa đóng sầm lại. Sau một phút Jake nghiêng tới hôn tôi, tay anh thò vào bên dưới áo tôi.
Nhiều người nghĩ Jake và tôi đã ngủ với nhau từ lớp chín, nhưng không phải vậy. Anh muốn chờ sau buổi khiêu vũ lớp mười một. Đó là một sự kiện trọng đại; Jake đã thuê một phòng khách sạn sang trọng, thắp nến rải hoa khắp phòng, còn mua cho tôi một bộ đồ lót tuyệt vời của Victoria’s Secret nữa. Nếu chuyện ấy có diễn ra tự phát một chút thì tôi nghĩ mình cũng chẳng phiền đâu, nhưng tôi biết mình còn hơn cả may mắn khi có một người bạn trai đủ quan tâm đến độ lên kế hoạch từng li từng tí.
“Thế này có được không?” Jake nhìn tôi dò xét. “Hay em muốn mình cứ nằm chơi thôi?” Chân mày anh nhướng lên như thể đó là một câu hỏi nghiêm túc, nhưng tay anh thì cứ mò mẫm từ từ xuống dưới.
Tôi chưa bao giờ từ chối Jake. Như lời mẹ nói vào lần đầu mẹ dẫn tôi đi lấy thuốc ngừa thai: nếu con từ chối nhiều quá, chẳng chóng thì chầy cũng sẽ có đứa khác đồng ý. Dù sao, tôi cũng thấy thích chẳng kém anh. Tôi sống vì những khoảnh khắc được gần gũi với Jake thế này; tôi sẽ chui vào trong người anh nếu có thể.
“Hơn cả được ấy chứ,” tôi đáp, và kéo anh nằm lên tôi.
Nate
Thứ Năm ngày 27 tháng Chín, 8:00 tối
Tôi sống ở căn nhà đó. Căn nhà mà người ta đi ngang qua sẽ nói, Không tin nổi là có người lại sống ở đây. Vậy mà chúng tôi vẫn sống ở đó, mặc dù chữ “sống” có hơi xa xỉ. Tôi ở ngoài càng nhiều càng tốt còn bố tôi thì dở sống dở chết.
Nhà chúng tôi nằm ở ngoài rìa Bayview, kiểu nhà không lầu xập xệ đám người giàu mua lại để giật sập. Vừa nhỏ vừa xấu, với độc một ô cửa sổ ở đằng trước. Ống khói vỡ nát dần dần từ hồi tôi mười tuổi. Bảy năm sau mọi thứ khác cũng hùa theo hư nốt: sơn bong ra, cửa chớp rụng hết một bên, tam cấp bê tông trước nhà nứt toác. Sân trước cũng không chịu kém cạnh, cỏ mọc cao gần đến gối và vàng ệch ra sau đợt khô hạn mùa hè. Ngày trước, lâu lâu tôi cũng có cắt cỏ, nhưng đã thôi từ lúc tôi nhận ra làm vườn là một việc phí công mà không bao giờ dứt.
Tôi vào nhà và thấy bố bất tỉnh trên đi văng, một chai Seagram trống không trước mặt. Bố cho là mình gặp may khi rơi khỏi cái thang trong lúc đang làm việc trên mái nhà hồi mấy năm trước, cái hồi ổng còn là một gã bợm rượu có việc làm. Ông nhận được một khoản bồi thường lao động và xuất viện với mức thương tật đủ để gom tiền bảo trợ xã hội, mà với một người như ổng thì vậy có khác gì trúng số đâu. Giờ thì ổng tha hồ nốc không ngừng nghỉ trong khi tiền cứ tự động chảy vào.
Nhưng số tiền đó cũng chẳng nhiều gì. Tôi muốn ti vi có cáp, xe có xăng, và lâu lâu miệng được ăn gì đó khác ngoài đồ ăn nhanh. Đó là lý do mà tôi làm công việc bán thời gian hiện tại, và là lý do tôi dành bốn tiếng đồng hồ sau giờ học hôm nay đi giao mấy cái túi nhựa chứa thuốc giảm đau khắp hạt San Diego. Hiển nhiên đó không phải việc tôi nên làm, nhất là khi hồi hè tôi đã bị bắt vì tội bán cần sa và giờ đang bị quản chế. Nhưng kiếm đâu ra được việc nhẹ lương cao như vậy.
Tôi vào nhà bếp, mở tủ lạnh rồi lấy ra mấy món Tàu thừa từ bữa trước. Dưới cái nam châm gắn cửa tủ là một tấm ảnh đã cong và đầy nếp gấp, trông như một tấm kính cửa sổ vỡ. Bố mẹ tôi với tôi hồi mười một tuổi, trước khi mẹ bỏ đi.
Mẹ bị rối loạn lưỡng cực và không thích dùng thuốc, nên cũng chẳng phải tôi có một tuổi thơ tuyệt vời gì hồi mẹ còn ở đây. Ký ức sớm nhất của tôi là mẹ làm rơi một cái đĩa, rồi ngồi sụp xuống sàn ngay giữa đống mảnh vỡ mà khóc sưng hết cả mắt. Có lần tôi vừa xuống khỏi xe buýt trường thì thấy mẹ đang ném đồ đạc ra ngoài cửa sổ. Nhiều lần mẹ cuộn người một góc trên giường rồi nằm đó không nhúc nhích suốt mấy ngày.
Tuy vậy, những lúc mẹ phấn khích cũng hay ho lắm. Hôm sinh nhật tám tuổi của tôi, mẹ dẫn tôi đi trung tâm thương mại, đưa tôi một cái xe đẩy, rồi bảo tôi bỏ đầy vào đấy những thứ tôi muốn. Khi tôi lên chín và bắt đầu mê mấy con bò sát, mẹ khiến tôi bất ngờ bằng cách làm một cái bồn cảnh thủy tinh ngay phòng khách rồi bỏ một con rồng Úc trong đó. Mẹ con tôi đặt tên nó là Stan, theo Stan Lee, và giờ tôi vẫn còn nuôi nó. Mấy con đó sống dai như quỷ.
Khi đó bố tôi không uống nhiều như bây giờ, nên hai người họ cũng lo được cho tôi đi học với chơi thể thao. Rồi mẹ tôi thôi hẳn dùng thuốc và bắt đầu chuyển sang những chất gây nghiện khác, ừ phải, tôi là thằng khốn đi buôn thuốc sau khi thuốc quật ngã mẹ nó. Nhưng nói cho rõ: tôi không bán gì ngoài cỏ và thuốc giảm đau. Ngày đó mẹ mà không đụng tới cocain thì đã không làm sao.
Suốt một thời gian mẹ vẫn về nhà vài tháng một lần. Rồi đến một năm một lần. Lần cuối tôi thấy mẹ là năm tôi mười bốn tuổi và bố đang trên đà suy sụp. Mẹ cứ huyên thuyên về cái cộng đồng nông trại mà mẹ đã chuyển đến tại Oregon, nó tuyệt vời ra làm sao, rồi mẹ sẽ đón tôi và tôi sẽ đi học ở đó với những đứa nhỏ hippi khác và trồng dâu organic hay cái khỉ gió gì đó.
Mẹ mua cho tôi một ly kem khổng lồ ở quán Glenn, như thể tôi là thằng nhóc tám tuổi, và kể tôi nghe về nơi đó. Con sẽ thích lắm, Nathaniel. Mọi người đều rất cởi mở. Không ai định kiến với con như những người ở đây.
Ngay cả hồi ấy nghe cũng thấy cái đó vớ vẩn, nhưng vẫn tốt hơn Bayview. Thế là tôi đóng ba lô, bỏ Stan vào chuồng, rồi ngồi trên bậc thềm nhà chờ mẹ. Tôi chắc đã ngồi suốt cả nửa đêm, như một thằng ngu toàn tập, trước khi tỉnh ra là mẹ sẽ chẳng xuất hiện.
Hóa ra chuyến đi tới quán Glenn hôm đó là lần cuối cùng tôi gặp mẹ.
Trong lúc chờ hâm món Tàu, tôi ngó qua Stan, nó vẫn còn một xấp rau úa và mấy con dế sống tôi để cho bữa sáng. Tôi nhấc nắp cái bể thủy tinh của nó lên và nó chớp mắt nhìn tôi từ trên tảng đá nó ngồi. Stan khá hờ hững và ít cần chăm sóc, lý do duy nhất nó còn sống được trong cái nhà này suốt tám năm qua.
“Stan, khỏe không?” Tôi bỏ nó lên vai, lấy đồ ăn rồi ngồi lên cái ghế bành đối diện ông già bất tỉnh nhân sự của tôi. Ti vi đang chiếu giải World Series, tôi tắt luôn vì (a) tôi ghét bóng chày và (b) nó làm tôi nhớ tới Cooper Clay, kẻ làm tôi nhớ tới Simon Kelleher và cái cảnh tượng hãi hùng trong phòng phạt đó. Tôi chẳng ưa gì thằng đó, nhưng chuyện xảy ra thật kinh khủng. Và Cooper cũng vô dụng chẳng kém gì con tóc vàng, thật tình là vậy. Bronwyn là người duy nhất làm gì đó chứ không đứng lắp bắp như một đứa dở hơi.
Mẹ tôi từng thích Bronwyn. Ở mấy sự kiện trường lúc nào mẹ cũng để ý thấy cậu ta. Như trong vở kịch “Chúa giáng sinh” hồi lớp bốn, tôi vào vai người chăn chiên còn Bronwyn là Mẹ Đồng Trinh Mary. Có ai đó ăn trộm búp bê em bé Jesus trước khi tới cảnh của chúng tôi, có lẽ là để phá Bronwyn vì cậu ta lúc nào cũng nghiêm túc quá mức, thậm chí là từ hồi đó. Bronwyn xuống chỗ khán giả, mượn một cái túi, rồi lấy khăn quấn lại, ẵm cái túi đi xung quanh như thể không có gì xảy ra. Con bé ấy không chịu khuất phục ai, mẹ tôi khen ngợi.
OK. Thôi huỵch toẹt ra vậy, chính tôi là người trộm búp bê Jesus, và dĩ nhiên là để phá Bronwyn. Chuyện sẽ vui hơn nhiều nếu cậu ta tá hỏa.
Áo khoác tôi bíp một cái, và tôi lục các túi để tìm xem cái điện thoại nào phát ra âm thanh đó. Trong giờ phạt hôm thứ Hai tôi xém nữa đã cười thành tiếng khi Bronwyn nói không ai có hai cái di động cả. Tôi có tới ba: một cho người quen, một cho bên cung cấp, và một cho khách hàng. Thêm vài cái dự phòng nữa để tôi có thể xáo tới xáo lui. Nhưng tôi đâu có ngu tới mức đem cái nào vào lớp của ông Avery.
Điện thoại làm ăn của tôi mặc định ở chế độ rung, nên tôi biết đây là tin nhắn của người quen. Tôi lôi ra cái iPhone cổ đại và thấy tin nhắn của Amber, một con nhỏ tôi gặp tháng trước tại một bữa tiệc. A thức?
Tôi chần chừ. Amber khá hot và không tìm cách nấn ná, nhưng nhỏ này mới ở đây chỉ mấy đêm trước. Tôi mà để những cuốc sex qua đường diễn ra hơn một lần mỗi tuần là thể nào cũng có rắc rối. Nhưng giờ tôi không ngủ nổi và có gì đó tiêu khiển cũng được.
E qua đi, tôi nhắn lại.
Tôi định cất điện thoại thì một cái tin khác đến. Là Chad Posner, một thằng ở Bayview tôi cũng có mấy lần đi chơi cùng. Mày đọc chưa? Tôi ấn vào đường dẫn trong tin nhắn và nó bật ra một trang Tumblr với tên “Nghe Đây”.
Tôi nảy ra ý giết Simon khi đang coi Dateline.
Đương nhiên, tôi đã nghĩ về chuyện đó được một thời gian rồi. Đó không phải điều tự nhiên nảy ra trong đầu đâu. Nhưng việc làm sao thoát được luôn khiến tôi chùn tay. Tôi không tự huyễn hoặc mình là một bậc thầy tội phạm. Và tôi lại quá đẹp để mà vào tù.
Trong chương trình đó, có một gã giết vợ. Chuyện thường ngày trên Dateline, đúng không? Lúc nào cũng là ông chồng làm. Nhưng hóa ra có rất nhiều kẻ mong bà ta chết. Bà ta đã khiến một đồng nghiệp bị sa thải, hại đời nhiều người trong hội đồng thành phố và đã dan díu với một người bạn của chồng. Nói tóm lại, bà ta là một ác mộng.
Cái gã trên Dateline cũng chả thông minh gì. Thuê người giết vợ, trong khi lịch sử liên lạc của điện thoại thì lần ra đâu khó gì. Nhưng trước khi những bằng chứng đó lộ ra gã đã có một tấm bình phong khá chắc chắn nhờ cả lố nghi phạm kia. Đó là loại người bạn có thể giết mà vẫn thoát tội: người mà ai cũng đều muốn phải chết.
Hãy thừa nhận sự thật đi: tất cả mọi người ở Bayview đều ghét Simon. Tôi chỉ là kẻ duy nhất có đủ can đảm để ra tay.
Không có chi.
Cái điện thoại xém nữa tuột khỏi tay tôi. Thêm một tin nhắn từ Chad Posner tới trong lúc tôi đang đọc. Lắm kẻ bệnh vãi.
Tôi nhắn lại, Mày lấy đâu ra đây?
Posner đáp Có thằng nào gửi qua email, kèm thêm một cái mặt cười-chảy-nước-mắt. Nó tưởng đây là trò đùa bệnh hoạn của một ai đó. Mà chắc cũng là suy nghĩ chung của phần lớn mọi người, những kẻ không phải dành cả tiếng nghe cảnh sát hỏi tới hỏi lui bằng cả chục cách khác nhau là làm sao dầu lạc lọt vào trong cốc của Simon Kelleher. Cùng với ba con người khác đầy vẻ lấm lét tội lỗi.
Không ai trong số đó có kinh nghiệm giữ vẻ mặt thản nhiên khi dính tai bay vạ gió được như tôi. Ít ra, không ai giỏi việc đó như tôi.