Chương 5
Bronwyn
Thứ Sáu ngày 28 tháng Chín, 6:45 tối
Tối thứ Sáu thật là khuây khỏa. Maeve và tôi thường ngồi trong phòng nó và xem liền tù tì Buffy, Thợ săn Ma cà rồng trên Netflix. Đó là thú vui mới nhất của hai chị em, và cả tuần nay tôi trông mãi ngày này, nhưng tối nay chúng tôi không thật sự chú ý tới phim. Maeve cuộn người ngồi trên cái ghế bên cửa sổ, gõ gõ máy tính, còn tôi nằm xoài trên giường nó, mở cuốn Ulysses của James Joyce trên Kindle. Cuốn sách nằm trong danh sách 100 tiểu thuyết xuất sắc nhất của Modern Library và tôi quyết tâm đọc xong nó trước khi hết học kỳ, nhưng mạch truyện quá chậm. Còn tôi thì chẳng thể tập trung.
Ở trường hôm nay mọi người chỉ toàn nói về bài đăng Tumblr kia. Một đám học sinh nhận được cái link qua email từ một địa chỉ Gmail tên “Nghe Đây” gì đó, và tới giờ ăn trưa thì tất cả mọi người đều đã đọc bài viết. Thứ Sáu hằng tuần Yumiko phụ việc trong văn phòng hiệu trưởng, và hôm nay nhỏ nghe thấy các thầy cô bàn cách dò địa chỉ IP để tìm ra kẻ nào đứng sau vụ này.
Tôi không nghĩ bọn họ có tí cơ may nào. Không ai dại tới mức đi gửi một thứ như thế từ thiết bị của mình.
Từ cái hôm bị phạt ngày thứ Hai ấy, mọi người đều đối xử với tôi cẩn trọng và tử tế quá mức, nhưng hôm nay thì khác. Người ta ngừng nói khi tôi đi ngang qua. Cuối cùng Yumiko mới kể, “Không phải người ta nghĩ cậu đăng nó. Họ chỉ thấy lạ khi hôm qua các cậu vừa bị cảnh sát thẩm vấn xong thì sau đó liền xuất hiện bài viết.” Cứ như thể nói thế sẽ khiến tôi thấy dễ chịu hơn vậy.
“Thử nghĩ xem.” Giọng Maeve bất thình lình kéo tôi trở lại phòng con bé. Nó đặt laptop sang bên và gõ nhẹ ngón tay lên cửa kính. “Ngày này năm tới, chị đã vào Yale rồi. Chị nghĩ chị sẽ làm gì tối thứ Sáu ở đó? Tiệc tùng hội sinh viên?”
Tôi đảo mắt với con bé. “Ờ, vì nhận được thư báo trúng tuyển là thành con người khác hẳn luôn đấy. Dù sao thì chị cũng phải vào được đã.”
“Chị chắc chắn được mà. Sao lại không chứ?”
Tôi bồn chồn cục cựa trên giường. Nhiều lý do lắm. “Làm sao biết được.”
Maeve tiếp tục gõ ngón tay lên kính. “Nếu chị đang tỏ ra khiêm tốn vì em, thì thôi được rồi đấy. Em khá thoải mái khi làm đứa chậm chạp trong nhà mà.”
“Em không chậm chạp,” tôi phản đối. Nó chỉ nhe răng cười và phẩy tay. Maeve là một trong những đứa sáng dạ nhất tôi biết, nhưng vì đau ốm, nó không đi học được đều đặn cho tới tận năm lớp mười. Hồi bảy tuổi nó bị chẩn đoán mắc ung thư bạch cầu, và phải đến hai năm trước, ở tuổi mười bốn, nó mới hoàn toàn dứt bệnh.
Chúng tôi vài lần suýt mất nó. Một lần năm tôi học lớp bốn, tôi nghe lỏm một linh mục ở bệnh viện hỏi bố mẹ tôi là họ đã xem xét việc bắt đầu lo “hậu sự” chưa. Tôi biết ý ông ấy là sao. Tôi đã cúi đầu và cầu nguyện: Xin đừng đưa em ấy đi. Con sẽ ngoan nếu Người cho em ấy ở lại. Con sẽ thật hoàn hảo. Con hứa.
Sau nhiều năm trời vào viện ra viện, Maeve chưa bao giờ thật sự học được cách hòa nhập vào cuộc sống. Tôi đã thay mặt con bé làm điều đó: tham gia câu lạc bộ, thắng giải này tới giải khác, và đạt điểm cao để có thể đi học ở Yale như bố mẹ chúng tôi. Điều đó khiến bố mẹ vui, và đỡ cho Maeve khỏi phải cố gắng quá sức.
Maeve nhìn trở ra ngoài cửa sổ với vẻ mặt xa xăm thường gặp của con bé. Bản thân nó cũng giống một giấc mơ giữa ban ngày: nhợt nhạt và thanh thoát, giống tôi mái tóc nâu sẫm nhưng khác ở đôi mắt màu hổ phách nổi bật. Tôi vừa định hỏi nó đang nghĩ gì thì nó đột ngột ngồi thẳng dậy và khum tay để lên mắt, mặt áp sát cửa sổ. “Phải Nate Macauley đó không?” Tôi hừ mũi mà chẳng buồn nhúc nhích, và nó thêm, “Em nói thật đấy. Xem kìa.”
Tôi đứng dậy cúi xuống cạnh nó. Tôi chỉ lờ mờ thấy hình dáng một chiếc mô tô ngay trên lối vào nhà chúng tôi. “Quái?” Maeve và tôi nhìn nhau, và nó nhe răng cười ma mãnh. “Sao?” tôi hỏi. Giọng nói phát ra gắt gỏng hơn tôi dự tính.
“Sao?” nó nhại tôi. “Chị tưởng em không nhớ hồi tiểu học chị tơ tưởng về anh ta suốt chắc? Em ốm chứ chưa chết nhé.”
“Đừng có lôi chuyện đấy ra đùa. Chúa ơi. Và vụ kia là cả tỷ năm trước rồi.” Mô tô của Nate vẫn đứng giữa lối vào, không nhúc nhích. “Em nghĩ cậu ta đang làm gì ở đây?”
“Chỉ có một cách để biết thôi.” Giọng Maeve líu lo đến phát bực, và nó lờ đi ánh mắt hằm hè của tôi lúc tôi đứng dậy.
Tim tôi đập thình thịch suốt lúc đi xuống cầu thang. Tuần này Nate và tôi nói chuyện với nhau ở trường còn nhiều hơn cả từ lớp năm tới giờ, vốn dĩ thực sự cũng chẳng nhiều nhặn gì cho cam. Mỗi lần gặp Nate tôi đều có cảm giác cậu ta nóng lòng muốn bỏ đi chỗ khác. Nhưng tôi cứ đụng mặt cậu ta mãi.
Cửa trước mở ra, kích hoạt dàn đèn pha trước ga ra nhà chúng tôi, khiến Nate trông như thể đang đứng giữa sân khấu. Thần kinh tôi căng như dây đàn trên đường tiến lại chỗ cậu ta, và tôi nhận thức sâu sắc việc mình đang bận bộ trang phục thoải- mái-cùng-Maeve mọi khi: dép lê, áo hoodie, quần soóc thể thao. Mà cậu ta cũng chẳng phải chưng diện gì cho cam. Tôi thấy cái áo Guinness đó ít nhất cũng hai lần tuần này rồi.
“Chào, Nate,” tôi nói. “Có gì không?”
Nate gỡ mũ bảo hiểm, và đôi mắt xanh sẫm của cậu ta lướt qua tôi nhìn về phía cửa chính. “Chào.” Cậu không nói gì khác suốt một hồi lâu đến khó chịu sau đó. Tôi khoanh tay đợi cậu ta. Cuối cùng Nate cũng chịu nhìn tôi với một nụ cười gượng khiến bụng dạ tôi chậm rãi lộn từng vòng. “Tôi chẳng tìm được lý do nào tử tế để có mặt ở đây cả.”
“Cậu vào nhà không?” tôi buột miệng.
Cậu ta ngập ngừng. “Cá là bố mẹ cậu thích thế lắm.”
Cậu ta không tưởng tượng vụ này tệ đến thế nào đâu. Mẫu người nằm chót danh sách ưa thích của bố là dân Colombia buôn ma túy, và bố sẽ không chấp nhận chuyện tôi có bất cứ liên hệ nào dù chỉ mơ hồ với họ. Nhưng tôi lại nói, “Họ không có nhà.”
Rồi vội vã thêm vào, “Tôi đang ở với em gái,” trước khi cậu ta kịp nghĩ đó là một kiểu mời gọi gì.
“À, OK.” Nate xuống xe và đi theo tôi như thể đây là chuyện thường ngày ở huyện, nên tôi cũng cố cư xử lãnh đạm cho bằng. Maeve đang tựa người vào quầy bếp lúc chúng tôi bước vào, dù tôi chắc chắn mới mười giây trước con bé còn nhòm ra từ cửa sổ phòng nó. “Đây là em gái tôi Maeve, không biết cậu gặp chưa?”
Nate lắc đầu. “Chưa. Chào em, em khỏe không?”
“Cũng được ạ,” Maeve đáp, dò xét cậu ta với vẻ hứng thú lộ ra mặt.
Tôi không biết phải làm gì tiếp khi cậu ta cởi áo khoác và vắt lên một cái ghế. Tôi biết làm gì để... mua vui cho Nate Macauley đây? Đó có phải trách nhiệm của tôi đâu, đúng không? Cậu ta mới là kẻ từ trên trời rơi xuống. Tôi nên làm những gì tôi thường làm. Có điều đó là ngồi trong phòng em tôi vừa xem bộ phim ma cà rồng làm lại, vừa mắt nhắm mắt mở đọc Ulysses.
Tôi hoàn toàn không biết phải làm thế nào.
Nate không nhận ra tình cảnh lúng túng của tôi, thẩn thơ bước qua cánh cửa kiểu Pháp dẫn vào phòng khách. Maeve huých tôi trong lúc chúng tôi theo sau cậu ta và thì thầm, “Que boca tan hermosa(5).”
“Im đi,” tôi rít. Bố khuyến khích hai chị em nói chuyện bằng tiếng Tây Ban Nha khi ở nhà, nhưng tôi không nghĩ là cho những trường hợp thế này. Với lại, chúng tôi đâu biết Nate có sõi tiếng Tây Ban Nha không.
Cậu ta dừng bước cạnh cây đại dương cầm và nhìn về phía chúng tôi. “Của ai thế?”
“Bronwyn,” Maeve trả lời trước cả khi tôi kịp mở miệng. Tôi đứng ở ngưỡng cửa, tay khoanh lại, trong khi con bé an tọa trên cái ghế bành bọc da ưa thích của bố ở trước cánh cửa trượt dẫn lên sân thượng. “Chị ấy siêu cực.”
“Thế à?” Nate hỏi lại cùng lúc với tôi đáp, “Không phải đâu.”
“Thật mà,” Maeve khăng khăng. Tôi nheo mắt lại còn nó thì tròn mắt giả bộ ngây thơ.
Nate đi sang chỗ cái kệ sách lớn bằng gỗ óc chó choán hết một bên tường, cầm lên một tấm ảnh chụp Maeve và tôi đang nở nụ cười răng thỏ giống hệt nhau trước lâu đài Cô bé Lọ Lem ở Disneyland. Tấm ảnh chụp sáu tháng trước khi Maeve bị chẩn đoán mắc bệnh, và suốt một thời gian dài đó là tấm ảnh đi chơi duy nhất chúng tôi có. Cậu ta nghiên cứu nó, rồi khẽ mỉm cười nhìn sang tôi. Maeve nói đúng - miệng cậu ta thật sexy. “Cậu chơi thử gì đi.”
Ừm, dù sao thế cũng dễ hơn là tiếp chuyện cậu ta.
Tôi lướt tới chỗ cái ghế và ngồi xuống, chỉnh lại tờ nhạc trước mặt. Là bản “Variations on the Canon” mà tôi đã tập mấy tháng nay. Tôi đã học đàn từ tám tuổi và trình độ cũng có thể gọi là giỏi, về mặt kỹ thuật. Nhưng tôi chưa từng khiến người khác cảm thấy gì. “Variations on the Canon” là bản đầu tiên làm tôi muốn khóc. Có gì đó trong cách nó triển khai, khởi đầu mềm mại dịu dàng rồi từ từ mạnh dần và gấp gáp hơn cho tới mức gần như giận dữ. Khó ở chỗ đấy, vì có một thời điểm các nốt trở nên gắt, mấp mé nghịch nhau, và tôi không đủ sức để xử lý đoạn đó.
Hơn một tuần rồi tôi không chơi bản này. Lần cuối thử chơi tôi đã đánh sai nhiều nốt tới nỗi cả Maeve cũng phải nhăn mặt. Con bé có vẻ vẫn còn nhớ, nên nó liếc sang Nate và rào trước, “Bản này khó chơi lắm đấy.” Như thể nó đột nhiên hối hận vì đã đưa tôi vào thế có thể bị mất mặt. Nhưng sao cũng được. Tình cảnh hiện tại quái gở đến mức chẳng thể tỏ ra nghiêm túc được. Nếu sáng mai tôi thức dậy và Maeve nói tất cả chỉ là giấc mơ, tôi sẽ hoàn toàn chấp nhận.
Vậy là tôi bắt đầu, và ngay lập tức cảm giác khác hẳn. Thoải mái hơn và cũng đỡ gắng sức ở những đoạn khó. Suốt vài phút tôi quên mất có người trong phòng, tận hưởng cái cách những nốt nhạc bình thường vẫn gây khó dễ cho tôi nay ngân lên hết sức trôi chảy. Ngay cả đoạn cao trào - tôi không lao vào nó dữ dội như cần thiết, mà lại đánh nhanh hơn và chắc chắn hơn bình thường, và tôi cũng không phạm một nốt sai nào. Chơi xong tôi mỉm cười đắc thắng với Maeve, và chỉ khi mắt con bé chuyển sang Nate tôi mới nhớ ra mình có tới hai khán giả.
Cậu ta tựa người vào kệ sách, tay khoanh lại, và lần đầu tiên, cậu ta không có vẻ chán nản hay định trêu ghẹo tôi. “Tôi chưa từng nghe cái gì hay như thế,” cậu nói.
Addy
Thứ Sáu ngày 28 tháng Chín, 7:00 tối
Chúa ơi, mẹ tôi. Mẹ tôi thật sự đang tán tỉnh sĩ quan Budapest, người có gương mặt tàn nhang đỏ lừ và vầng trán ngày một dâng cao. “Dĩ nhiên Adelaide sẽ làm bất cứ gì để hỗ trợ,” mẹ nói với giọng khàn khàn, một ngón tay miết quanh miệng ly rượu. Justin đang ăn tối với bố mẹ gã, hai người đó ghét mẹ nên chẳng bao giờ mời mẹ sang. Màn đong đưa này là hình phạt cho gã, bất chấp gã có biết về nó hay không.
Sĩ quan Budapest ghé qua ngay khi chúng tôi vừa ăn xong món pad Thái mẹ lúc nào cũng gọi mang tới mỗi khi chị Ashton của tôi ghé qua. Lúc này anh ta không biết nhìn đi đâu, nên đành dán mắt vào bức tường phòng khách đính hoa khô. Mẹ tôi cứ sáu tháng thì trang trí lại một lần, và mới đây nhất là phong cách giả cổ trang nhã với phần rìa kỳ cục lấy ý tưởng bãi biển. Hoa hồng leo và vỏ sò trải ngút tầm mắt.
“Chỉ vài chi tiết liên quan thôi, nếu em không phiền, Addy,” anh ta nói.
“OK,” tôi đáp. Tôi ngạc nhiên thấy anh ta tới đây, bởi tôi nghĩ cả đám đã trả lời hết mọi câu hỏi của anh ta. Nhưng có lẽ cuộc điều tra vẫn còn tiếp diễn. Hôm nay phòng thí nghiệm của thầy Avery bị chặn bằng dải băng cách ly, và cảnh sát ra vào trường cả ngày trời. Cooper nói trường Bayview có thể sẽ gặp rắc rối vì có dầu lạc trong nước uống hay gì đó.
Tôi liếc sang mẹ. Mắt mẹ dán vào sĩ quan Budapest, nhưng với cái vẻ xa xăm mà tôi biết quá rõ. Tâm trí mẹ đã tận đẩu tận đâu rồi, có thể đang nghĩ xem cuối tuần mặc gì. Ashton bước vào phòng khách và ngồi xuống cái ghế bành đối diện tôi. “Anh có nói chuyện với toàn bộ những đứa bị phạt hôm đó không?” chị hỏi.
Sĩ quan Budapest hắng giọng. “Cuộc điều tra vẫn đang được tiếp tục, nhưng tôi ở đây vì có một câu hỏi riêng cho Addy. Em có đến phòng y tế vào hôm Simon chết, đúng vậy không?”
Tôi do dự và liếc nhanh một cái sang Ashton, rồi nhìn lại sĩ quan Budapest. “Không.”
“Có,” sĩ quan Budapest nói. “Tên em có trong sổ trực của y tá.”
Tôi nhìn lò sưởi, nhưng cảm thấy được ánh mắt Ashton xoáy thẳng vào mình. Tôi quấn một lọn tóc quanh ngón tay và giật giật nó đầy lo lắng. “Em không nhớ chuyện đó.”
“Em không nhớ có tới phòng y tế hôm thứ Hai sao?”
“À thì, em tới đó thường xuyên mà,” tôi mau mắn. “Vì nhức đầu này kia. Có lẽ hôm ấy cũng vậy.” Tôi nhăn trán như thể đang suy nghĩ lung lắm, rồi cuối cùng mới ngẩng lên nhìn đáp lại sĩ quan Budapest. “À, phải rồi. Hôm đó em tới kỳ và bị chuột rút kinh lắm, nên đúng là có đấy. Em tới xin Tylenol.”
Sĩ quan Budapest thật dễ xấu hổ. Mặt anh ta đỏ lựng trong khi tôi mỉm cười lịch sự và buông lọn tóc ra. “Vậy em lấy được cái mình cần ở đó chứ? Chỉ Tylenol thôi à?”
“Anh muốn biết làm gì?” Ashton hỏi. Chị chỉnh lại cái gối tựa sau lưng để cho mặt trang trí hình sao biển được ghép từ các vỏ sò thật không đâm vào lưng chị.
“À, một trong những chi tiết chúng tôi đang xem xét là nguyên nhân vì sao không thấy cây bút Epi nào trong phòng y tế trong lúc Simon bị phát dị ứng. Y tá cam đoan sáng hôm đó cô ấy vẫn còn khá nhiều cây. Nhưng đến chiều thì mất sạch.”
Ashton cứng người lại và nói, “Anh không thể nghĩ Addy lấy chúng được!” Mẹ quay sang tôi với vẻ hơi bất ngờ, nhưng không nói gì.
Nếu sĩ quan Budapest có nhận thấy chị tôi đã đảm nhận vai trò phụ huynh ở đây, thì anh ta cũng không đả động đến. “Không ai nói thế cả. nhưng lúc đó em có tình cờ thấy mấy cây bút ở trong phòng y tế không, Addy? Theo sổ trực của y tá, em tới đó lúc một giờ.”
Tim tôi đập nhanh đến bức bối, nhưng tôi vẫn giữ giọng đều đều. “Em còn không biết bút Epi trông thế nào nữa là.”
Anh ta bắt tôi kể mọi thứ tôi còn nhớ về buổi phạt hôm đó, một lần nữa, rồi hỏi cả đống câu về bài đăng trên Tumblr kia. Ashton muôn phần cảnh giác và chú ý, trong khi mẹ hai lần vào nhà bếp để châm thêm rượu vào ly. Tôi cứ nhìn sang đồng hồ, vì Jake và tôi sắp sửa ra bãi biển mà tôi còn chưa bắt tay vào chỉnh lại lớp trang điểm của mình. Làm gì có chuyện cái mụn của tôi sẽ tự ẩn đi chứ.
Cuối cùng khi sĩ quan Budapest cũng chịu ra về, anh ta đưa tôi một tấm danh thiếp. “Gọi tôi nếu em nhớ ra được gì nữa nhé, Addy,” anh ta nói. “Nhỡ đâu có gì đó quan trọng.”
“OK,” tôi đáp, nhét tấm danh thiếp vào túi sau của quần jean. Sĩ quan Budapest chào tạm biệt mẹ và Ashton trong lúc tôi mở cửa cho anh ta. Ashton tựa người vào khung cửa cạnh tôi và hai chị em nhìn sĩ quan Budapest vào trong xe cảnh sát và từ từ lùi xe ra khỏi lối vào nhà tôi.
Tôi nhận thấy xe của Justin đang chờ xe sĩ quan Budapest ra để vào, nên lại quýnh lên. Tôi không muốn nói chuyện với anh mà vẫn chưa chỉnh lại lớp trang điểm, nên tôi trốn lên lầu, Ashton theo ngay sau. Trừ phòng ngủ chính ra, phòng ngủ của tôi là lớn nhất nhà rồi, nó từng thuộc về Ashton và khi chị đi lấy chồng thì tôi được hưởng. Chị vẫn tự nhiên ra vào ở đó như thể chưa từng rời đi.
“Em không kể chị nghe về cái bài Tumblr đó,” chị nói, nằm ườn trên tấm trải giường trắng có họa tiết đục lỗ của tôi và lật tờ Us Weekly số mới nhất. Ashton tóc còn vàng óng hơn tôi, nhưng chị cắt tóc lá ngang cằm, kiểu mẹ rất ghét. Tôi lại nghĩ thế cũng dễ thương. Không vì Jake yêu mái tóc tôi thì tôi cũng cân nhắc cắt giống chị rồi.
Tôi ngồi xuống bàn trang điểm rồi phết kem che lên chỗ cái mụn ngay chân tóc. “Có thằng bệnh hoạn nào đấy, thế thôi.”
“Em có thật là không nhớ mình xuống phòng y tế không? Hay chỉ là không muốn trả lời?” Ashton hỏi. Tôi lóng ngóng gài nắp lọ kem che khuyết điểm, nhưng rồi thoát nạn khi tiếng chuông bài “Only Girl” của Rihanna báo tin nhắn trong điện thoại vang lên từ chiếc bàn đầu giường. Ashton cầm lên coi và báo, “Jake sắp tới.”
“Chúa ơi, Ash.” Tôi trừng mắt nhìn chị qua gương. “Chị không được coi điện thoại em thế chứ. Lỡ tin nhắn riêng tư thì sao?”
“Xin lỗi,” chị đáp bằng một giọng không hề có vẻ hối lỗi. “Chuyện với Jake ổn cả chứ?”
Tôi xoay người trên ghế sang phía chị, cau mày. “Sao có gì không ổn được?”
Ashton giơ một tay lên. “Chỉ hỏi thăm thôi, Addy. Chị không có ý gì hết.” Giọng chị trở nên trầm trọng. “Chẳng có lý do gì để nghĩ em sẽ thành ra như chị cả. Cũng có phải Charlie và chị yêu nhau từ thời trung học đâu.”
Tôi chớp mắt ngạc nhiên nhìn chị. Ý tôi là, từ lâu tôi đã nghĩ chuyện giữa Ashton với Charlie đang có vấn đề - một, chị đột nhiên sang đây nhiều hơn, và hai, anh ta đã chim chuột khá dữ với một con phù dâu lẳng lơ trong đám cưới chị họ tôi tháng trước - nhưng trước đây Ashton chưa bao giờ thẳng thắn thừa nhận có vấn đề. “Chuyện có... tệ lắm không?”
Chị nhún vai, thả cuốn tạp chí xuống và mân mê bộ móng tay. “Phức tạp lắm. Hôn nhân khó khăn hơn người ta kể nhiều. Hãy mừng vì giờ em vẫn chưa phải ra quyết định trọng đại gì trong đời.” Chị mím môi. “Đừng nghe lời bịa đặt của mẹ. Hãy cứ tận hưởng tuổi mười bảy đi.”
Em không thể. Em đang rất sợ mọi thứ sẽ bị hủy hoại. Hoặc đã bị hủy hoại rồi cũng nên.
Tôi ước mình có thể nói với Ashton như thế. Sẽ nhẹ nhõm lắm nếu trút ra được điều đó. Tôi thường kể với Jake mọi thứ, nhưng chuyện này thì không. Và sau anh thì gần như không còn ai trên trái đất này mà tôi tin tưởng. Không người bạn nào, chắc chắn không phải mẹ, và không cả chị. Vì dù có lẽ chị có ý tốt thôi, nhưng chị có thể tỏ thái độ ngấm ngầm chống đối rất kinh khủng khi nói đến Jake.
Chuông cửa reo, và miệng Ashton nhếch lên thành một nụ cười nhạt. “Chàng Hoàn Hảo tới kìa,” chị nói. Giọng mỉa mai, không lẫn đi đâu được.
Tôi lờ chị đi và lao xuống cầu thang, mở cửa với một nụ cười rạng rỡ mà tôi không thể ngăn lại mỗi khi sắp gặp Jake. Và anh đây rồi, áo khoác đội tuyển bóng bầu dục cùng mái tóc màu hạt dẻ bị gió thổi tung, nụ cười rạng rỡ đáp lại. “Chào em.” Tôi định hôn anh thì phát hiện một người khác sau lưng anh nên khựng lại. “Mình cho TJ đi nhờ, em không phiền chứ?”
Một tiếng cười lo lắng sủi tăm trong cổ họng và tôi dìm nó xuống. “Đương nhiên là không rồi.” Tôi vẫn rướn lên hôn anh, nhưng khoảnh khắc đã hỏng bét rồi.
TJ chớp mắt nhìn sang tôi, rồi cụp mắt xuống đất. “Xin lỗi nhé. Xe mình bị hỏng, mình định ở nhà nhưng Jake cứ khăng khăng...”
Jake nhún vai. “Ông đang trên đường rồi mà. Đâu thể chỉ vì hư xe mà bỏ lỡ buổi đi chơi.” Mắt anh dịch từ mặt tôi xuống đôi giày thể thao vải tôi đang mang và hỏi, “Em mặc thế này đi á, Ads?”
Đó không hẳn là một lời đánh giá, nhưng tôi đang mặc áo khoác đồng phục đại học của Ashton và Jake thì chưa bao giờ thích tôi mặc đồ thùng thình. “Ngoài bãi biển lạnh lắm,” tôi dè dặt, và anh cười.
“Anh sẽ giữ ấm cho em. Thay bộ nào dễ thương hơn đi, nhé?”
Tôi gượng gạo mỉm cười với anh và trở vào trong, chân như đeo chì lê từng bước một lên cầu thang vì tôi biết mình đi chưa đủ lâu để Ashton rời phòng. Y như rằng chị vẫn còn đang nằm trên giường tôi lật tờ Us Weekly, và chị nhíu mày khi thấy tôi bước tới tủ quần áo. “Về sớm thế?”
Tôi lấy ra một cái quần legging và cởi quần jean ra. “Em thay đồ.”
Ashton gấp cuốn tạp chí lại và lẳng lặng nhìn tôi cho tới khi tôi đổi cái áo của chị với một cái áo len ôm sát. “Mặc cái đó không đủ ấm đâu. Tối nay lạnh đấy.” Chị hắt ra một tiếng cười nghi hoặc trong khi tôi tháo đôi giày thể thao ra và xỏ chân vào một đôi sandal quai cài gót thấp. “Em mang đôi đó ra bãi biển hả? Phải vụ thay đồ này là ý Jake không thế?”
Tôi thảy đống quần áo cũ vào rổ đồ giặt, phớt lờ chị. “Tạm biệt, Ash.”
“Addy, chờ đã.” vẻ mỉa mai đã biến mất trong giọng Ashton, nhưng tôi không quan tâm. Tôi đã xuống lầu và ra đến cửa trước khi chị kịp cản tôi lại, một cơn gió làm tôi rùng mình ngay khi vừa bước ra. Nhưng Jake nở nụ cười hài lòng với tôi và choàng tay qua vai tôi suốt quãng đường ngắn ngủi ra xe anh.
Tôi ghét cả chuyến xe. Ghét phải ngồi trong đó ra vẻ bình thường trong khi bụng dạ cồn cào chỉ chực nôn ra. Ghét nghe Jake và TJ nói về trận đấu ngày mai. Ghét khi ca khúc mới nhất của nhóm Fall Out Boy vang lên và TJ nói, “Tôi thích bài này lắm,” vì giờ tôi không thể thích nó được nữa. Nhưng chủ yếu, tôi ghét cái sự thật rằng chưa đầy một tháng sau lần đầu tiên đầy trọng đại ấy của Jake và tôi, tôi đã say bí tỉ và ngủ với TJ Forrester.
Khi ba chúng tôi tới bãi biển, Cooper và Luis đã đang dựng lửa trại, và Jake hắt ra một tiếng thở dài bực bội trong khi đỗ xe. “Bọn nó lần nào cũng làm sai,” anh càm ràm, lao ra khỏi xe chạy về phía hai người kia. “Mấy ông tướng. Mấy ông dựng sát mép nước quá!
TJ và tôi ra khỏi xe chậm hơn, không nhìn nhau. Tôi chưa gì đã thấy rét, tay ôm lấy người để giữ chút hơi ấm. “Cậu có muốn áo...” TJ cất lời, nhưng tôi không để cậu ta nói hết.
“Không.” Tôi ngắt lời cậu ta và cắm cúi đi về phía bãi biển, thiếu điều vấp ngã vì đôi giày ngu ngốc khi vừa ra đến chỗ cát.
TJ đi bên cạnh, vươn tay ra để giữ tôi đứng vững. “Addy, nghe này.” Cậu ta hạ giọng, hơi thở có mùi bạc hà thoáng qua má tôi. “Cậu biết không nhất thiết phải gượng gạo như thế này mà, phải không? Mình sẽ không nói gì cả.”
Tôi không nên giận cậu ta. Không phải lỗi của cậu ta. Tôi mới là người thấy bất an sau khi Jake và tôi ngủ với nhau, và bắt đầu nghĩ anh đang dần vơi bớt hứng thú với tôi mỗi khi anh mất rất lâu mới trả lời tin nhắn. Tôi là người đã chim chuột với TJ khi chúng tôi vô tình gặp nhau ngay trên bãi biển này hồi hè trong khi Jake đang đi nghỉ mát. Tôi là người đã thách TJ lấy một chai rum, rồi nốc gần nửa chai cùng với một lon Coca ăn kiêng để giải rượu.
Hôm đó có lúc tôi cười hăng đến nỗi nước ngọt sặc lên mũi, một cảnh hẳn Jake sẽ thấy kinh tởm. Nhưng TJ chỉ nói tỉnh bơ, “Chà, Addy, cậu hấp dẫn ghê. Nhìn cậu lúc này mình thấy kích thích lắm ấy.”
Đó là lúc tôi hôn cậu ta. Và đề nghị cả hai cùng về nhà cậu ta.
Nên thật sự, hoàn toàn không phải lỗi của TJ.
Chúng tôi đi đến rìa bãi biển và xem Jake dập lửa để anh dựng lại ở chỗ khác theo ý anh. Tôi lén liếc sang TJ và nhác thấy hai lúm đồng tiền hiện lên lúc cậu ta vẫy tay chào mấy người kia. “Cứ coi như chưa có gì xảy ra đi,” cậu ta hạ giọng thì thầm.
Cậu ta có vẻ chân thành, và hy vọng lóe lên trong tôi. Có lẽ chúng tôi sẽ giữ được chuyện này cho riêng mình. Bayview là một ngôi trường tọc mạch, nhưng ít ra thì Nghe Đồn không còn lửng lơ trên đầu mọi người nữa.
Và thật sự, từ tận đáy lòng, tôi phải thừa nhận - điều đó thật nhẹ nhõm.