← Quay lại trang sách

Chương 26

Bronwyn

Chủ nhật ngày 4 tháng Mười một, 10:00 sáng

Chúng tôi trông đúng là một đội ở văn phòng Trước Lúc Chứng Minh sáng Chủ nhật: tôi, cô Macauley và mẹ tôi. Mẹ đồng ý để tôi đi, nhưng phải có người đi cùng.

Căn phòng nhỏ, đồ đạc rải rác, nhưng người đông, mỗi bàn có ít nhất hai người. Mỗi người hoặc đang nói chuyện gấp gáp trên điện thoại hoặc đang gõ máy tính lộc cộc. Đôi khi là cả hai việc cùng lúc. “Chủ nhật mà bận rộn nhỉ,” tôi nhận xét lúc Eli dẫn chúng tôi vào một căn phòng bé tẹo với một chiếc bàn nhỏ cùng mấy cái ghế choán gần hết chỗ.

Tóc Eli dường như mọc dài ra thêm gần năm phân từ khi xuất hiện trên Mikhail Powers điều tra, cả mái tóc chĩa thẳng lên trời. Anh ta đưa tay vuốt qua đống tóc xoăn bù xù kiểu bác học điên ấy và càng khiến chúng dựng cao hơn. “Đã Chủ nhật rồi à?”

Không có đủ ghế, nên tôi ngồi trên sàn. “Xin lỗi nhé,” Eli nói. “Chúng ta có thể nói nhanh. Đầu tiên, bà Macauley, tôi rất tiếc về vụ bắt giữ con trai bà. Tôi được biết cậu nhà đã được gửi trả về trại tạm giam cho thanh thiếu niên chứ không phải khu người trưởng thành, đó là tin tốt. Như đã nói với Bronwyn, với khối lượng công việc hiện tại tôi không thể làm được gì nhiều. Nhưng nếu mọi người sẵn lòng cung cấp bất cứ thông tin gì đang có, tôi sẽ cố đưa ra lời khuyên và có thể giới thiệu.”

Cô Macauley có vẻ kiệt sức, nhưng hình như đã cố gắng ăn mặc tử tế một chút với quần xanh lính thủy và áo len cardigan xám. Mẹ tôi vẫn theo phong cách quen thuộc: quần legging, bốt cao, áo khoác chui đầu cashmere và khăn choàng cổ hoa văn chìm. Hai người mẹ không thể khác nhau hơn, và cô Macauley cứ vân vê mép áo len đã sờn của mình như thể biết rõ điều đó.

“À. Tôi được biết như thế này,” cổ nói. “Trường nhận được cuộc gọi báo Nate có ma túy trong tủ đồ...”

“Từ ai?” Eli hỏi, hí hoáy ghi lên cuốn sổ giấy vàng.

“Họ không nói. Tôi nghĩ là nặc danh. Nhưng họ vẫn tiến hành phá khóa tủ đồ của nó để kiểm tra sau khi tan học hôm thứ Sáu. Không có ma túy. Nhưng họ thấy một cái túi với chai nước của Simon và bút Epi của thằng bé. Và cả những cây bút Epi trong phòng y tế đã biến mất vào hôm nó chết nữa.” Tôi vuốt tay trên lớp thảm sần sùi, nhớ tới những lần Addy bị tra hỏi về mấy cây bút ấy. Cả Cooper nữa. Chúng tôi đã lo lắng về mấy thứ đó hàng tuần liền. Nate không thể nào, ngay cả khi cậu thật sự có tội đi nữa, lại ngu ngốc đến mức để chúng trong tủ đồ.

“À.” Eli buột miệng như thở dài, nhưng đầu vẫn cúi gằm xuống cuốn sổ.

“Nên cảnh sát vào cuộc, và họ có trát khám nhà sáng thứ Bảy,” cô Macauley kể tiếp. “Và họ phát hiện một cái máy tính trong tủ đồ của Nate với cái... nhật ký, hình như họ gọi vậy. Tất cả những bài đăng trên Tumblr xuất hiện thời gian vừa qua sau khi Simon chết.”

Tôi ngước mắt và thấy mẹ đang nhìn mình, một vẻ thương cảm bực bội thoáng qua trên mặt mẹ. Tôi nhìn đáp lại và lắc đầu. Tôi không tin một chi tiết nào cả.

“À,” Eli lại nói. Lần này anh ta ngẩng lên, nhưng mặt vẫn bình tĩnh và thản nhiên. “Có vân tay không?”

“Không,” cô Macauley đáp, và tôi khẽ thở ra.

“Nate nói gì về chuyện này?” Eli hỏi.

“Nói rằng nó không biết làm sao những thứ kia lại xuất hiện trong tủ đồ hay trong nhà,” cô Macauley đáp.

“OK,” Eli nói. “Và trước đó tủ đồ của Nate không hề bị lục soát?”

“Tôi không biết,” cô Macauley thừa nhận, và Eli nhìn tôi.

“Có lục soát,” tôi nhớ lại. “Nate bảo cậu ấy bị lục soát ngày đầu tiên bọn họ thẩm vấn chúng em. Cả tủ đồ và ở nhà. Cảnh sát mang chó nghiệp vụ đến nữa, để tìm ma túy. Nhưng không thấy gì,” tôi nhanh chóng nói thêm, đánh mắt nhanh sang mẹ rồi lại quay về Eli. “Nhưng không ai thấy đồ của Simon hay máy tính khi đó.”

“Nhà bà bình thường có khóa cửa không?” Eli hỏi cô Macauley.

“Không bao giờ khóa,” cổ đáp. “Tôi nghĩ cái cửa còn không có ổ khóa ấy.”

“Hừm,” Eli lẩm bẩm, lại hí hoáy lên cuốn sổ.

“Còn một điều nữa,” cô Macauley nói, giọng run run. “Văn phòng công tố quận muốn chuyển Nate đến nhà tù bình thường. Họ nói nó quá nguy hiểm không thể ở trong trường giáo dưỡng.”

Nghe tin đó ngực tôi như nứt ra, còn Eli bật dậy. Đấy là lần đầu tiên anh ta bỏ vẻ mặt luật sư công tâm và thể hiện ra chút cảm xúc, và vẻ kinh hoàng trên mặt anh ta làm tôi sợ. “Ôi không. Không, không, không. Thế thì chết mẹ rồi. Thứ lỗi vì tôi chửi thề nhé. Luật sư cậu ấy làm gì để ngăn lại?”

“Chúng tôi chưa gặp người đó.” Cô Macauley giọng nghẹn ngào. “Có người đã được chỉ định, nhưng chưa ai liên lạc.”

Eli buông cây bút và gằn lên một tiếng. “Giữ đồ Simon thì không hay. Không hay chút nào. Nhiều người còn bị kết án vì ít bằng chứng hơn thế cơ. Nhưng cái cách bọn họ có được bằng chứng thì... tôi thấy không ổn. Trình báo nặc danh, những thứ trước kia không hề có giờ lại xuất hiện rất đúng lúc đúng chỗ. Ở những nơi không khó để xâm nhập. Mã số khóa tủ rất dễ tra. Và nếu bên công tố đang tính đến chuyện gửi Nate vào nhà tù liên bang ở tuổi mười bảy thì... bất cứ luật sư nào có chút liêm sỉ sẽ chặn việc đó lại ngay lập tức.” Anh ta đưa tay vuốt mặt và mắng tôi. “Chết tiệt, Bronwyn. Đây là lỗi của em.”

Những gì Eli nói nãy giờ khiến bụng dạ tôi nhộn nhạo, trừ điều này. Giờ tôi hoàn toàn bối rối. “Em làm gì chứ?” tôi phản đối.

“Em đem vụ này đến cho anh và giờ anh phải nhận nó. Anh không có thời gian. Nhưng thôi sao cũng được. Mà đấy là tôi cho rằng bà đồng ý đổi luật sư, đúng không bà Macauley?”

Ôi, tạ ơn Chúa. Cảm giác nhẹ nhõm dâng khắp người khiến tôi nhũn ra và gần như choáng váng. Cô Macauley gật đầu quyết đoán, và Eli thở dài.

“Em có thể giúp,” tôi hăng hái nói. “Bọn em đang xem xét...” Tôi định nói với Eli về chiếc Camaro, nhưng anh ta giơ tay ra với vẻ cấm đoán.

“Ngưng ngay, Bronwyn. Nếu anh đại diện cho Nate thì anh không thể nói chuyện với bất cứ ai đã có người đại diện trong vụ này. Làm vậy có thể khiến anh bị cấm hành nghề và khiến em có nguy cơ liên can. Thực ra, anh cần em và mẹ em rời đi để có thể trao đổi một số chi tiết với bà Macauley.”

“Nhưng...” Tôi bất lực nhìn mẹ, đang gật đầu và đứng dậy, khoác túi xách lên vai với vẻ kiên quyết.

“Anh ấy nói đúng đấy Bronwyn. Con cần để anh Kleinfelter và cô Macauley giải quyết việc của họ.” Vẻ mặt mẹ dịu đi khi thấy ánh mắt cô Macauley. “Chúc chị gặp may mắn với tất cả chuyện này.”

“Cảm ơn chị,” cô Macauley đáp. “Và cảm ơn cháu, Bronwyn.”

Tôi nên thấy tốt đẹp. Nhiệm vụ đã hoàn thành. Nhưng không. Eli không biết phân nửa những gì chúng tôi làm, và giờ làm sao tôi nói với anh ta đây?

Addy

Thứ Hai ngày 5 tháng Mười một, 6:30 tối

Đến thứ Hai mọi chuyện đã trở nên bình thường đến lạ. À thì, bình thường kiểu mới. Tân thường? Dù sao thì, ý tôi là, khi ngồi xuống ăn tối cùng mẹ và Ashton, ngoài phố không còn xe tin tức và luật sư của tôi cũng chẳng gọi lấy một cuộc.

Mẹ đặt hai phần ăn đã được hâm lại của quán Trader Joe xuống trước mặt Ashton và tôi, rồi ngồi xuống giữa hai chị em cùng một cái ly thủy tinh đục có chứa thức uống màu vàng nâu. “Mẹ không ăn,” mẹ thông báo, dù không ai hỏi. “Mẹ đang thanh lọc cơ thể.”

Ashton chun mũi. “Eo ôi. Không phải là nước chanh với xi rô lá phong và bột ớt đấy chứ? Kinh quá.”

“Đợi kết quả hẵng nói nhé,” mẹ nói, hớp một ngụm dài. Mẹ chấm khăn giấy lên đôi môi bơm căng, và tôi nhìn mái tóc vàng cứng đơ, móng tay sơn đỏ của mẹ cùng chiếc váy bó sát mẹ thường mặc vào thứ Hai. Có phải hai mươi lăm năm nữa tôi cũng thế? Ý nghĩ đó khiến tôi càng thêm phát ngấy với mớ đồ ăn.

Ashton bật tin tức lên và chúng tôi xem cập nhật mới nhất về vụ bắt giữ Nate, bao gồm một cuộc phỏng vấn với Eli Kleinfelter. “Đẹp trai đấy,” mẹ nhận xét khi ảnh chân dung nghi phạm của Nate hiện lên trên màn hình. “Tiếc là lại đi giết người.”

Tôi đẩy cái khay đang ăn dở ra. Đề cập chuyện cảnh sát có thể sai lầm cũng chẳng ích gì. Mẹ chỉ mừng vì sắp không phải tốn tiền thuê luật sư nữa.

Chuông cửa reo, và Ashton gấp khăn giấy lại cạnh đĩa của mình. “Để con ra mở cửa.” Chị gọi tên tôi vài giây sau, và mẹ tôi nhìn tôi ngạc nhiên. Mấy tuần qua không ai đến nhà tìm tôi trừ phi muốn phỏng vấn, và chị tôi lúc nào cũng đuổi họ đi. Mẹ theo tôi vào phòng khách và Ashton mở cửa cho TJ vào.

“Chào.” Tôi chớp mắt ngạc nhiên. “Cậu làm gì ở đây?”

“Mình cầm nhầm sách sử của cậu sau tiết Khoa học trái đất. Của cậu phải không?” TJ chìa cuốn sách xám dày cộp cho tôi. Từ dạo xếp đá lần đầu ấy thì chúng tôi đã trở thành bạn cùng thực hành trong phòng thí nghiệm, và đó thường là điểm sáng trong ngày của tôi.

“Ồ. Phải rồi, cảm ơn nhé. Nhưng để mai đưa cũng được mà.”

“Bọn mình có bài kiểm tra mà.”

“À.” Nói cho cậu ta biết tôi coi như đã bỏ học kỳ này cũng chẳng để làm gì.

Mẹ ngó lom lom TJ như thể cậu ta là món tráng miệng, và cậu ta đáp lại ánh mắt của mẹ bằng một nụ cười lịch sự. “Chào cô, cháu là TJ Forrester. Học chung trường với Addy.” Mẹ cười duyên và bắt tay cậu ta, săm soi lúm đồng tiền cùng cái áo bóng bầu dục. Cậu ta gần như là một bản sao da ngăm mũi gãy của Jake. Mẹ không nhận ra cái tên TJ, nhưng Ashton thì khẽ thở hắt ra một hơi sau lưng tôi.

Tôi phải đưa TJ ra khỏi đây trước khi mẹ hiểu được sự tình. “À, cảm ơn cậu lần nữa. Tôi phải học đây. Gặp cậu ngày mai.”

“Cậu muốn học chung một lúc không?” TJ hỏi.

Tôi do dự. Tôi thích TJ, thật sự. Nhưng ở cùng nhau ngoài trường học là một bước mà tôi chưa sẵn sàng đi. “Không được, vì... nhiều chuyện. Tôi gần như đẩy cậu ta ra khỏi cửa, và khi trở lại vào nhà, mẹ tỏ vẻ tiếc nuối lẫn bực dọc.

“Con bị sao thế?” mẹ rít lên. “Thô lỗ như vậy với một cậu bé đẹp trai thế kia! Con làm như bây giờ con nhiều lựa chọn lắm ấy.” Mắt mẹ ngó lên mái tóc highlight tím của tôi. “Coi cái cách mà con buông thả bản thân như thế, con nên mừng vì cậu ấy còn muốn chơi với con.”

“Chúa ơi, mẹ thật là...” Ashton nói, nhưng tôi cắt ngang.

“Hiện giờ con không tìm bạn trai đâu mẹ.”

Mẹ trân mắt nhìn tôi như thể tôi vừa mọc cánh và nói tiếng Hoa. “Vì sao không? Con với Jake chia tay nhau từ đời nào rồi mà.”

“Con ở bên Jake hơn ba năm. Vẫn cần chút thời gian nghỉ ngơi.” Tôi nói cốt để cãi lại mẹ, nhưng khi thốt ra thành lời tôi biết đó cũng là sự thật. Mẹ tôi bắt đầu hẹn hò từ năm mười bốn tuổi, như tôi, và tới giờ vẫn chưa ngừng lại. Dù có phải quen một gã trẻ con nhát tới độ không dám đưa mẹ về ra mắt phụ huynh.

Tôi không muốn nỗi sợ cô đơn ấy.

“Đừng vớ vẩn. Đó là điều cuối cùng con cần. Cứ đi chơi vài hôm với TJ, dù con có không hứng thú, và những thằng nhóc khác ở trường sẽ thấy thèm muốn con trở lại thôi. Con không muốn bị bỏ quên ở một xó nào đấy đâu, Adelaide. Như một con nhỏ độc thân buồn bã chỉ biết quẩn quanh cái nhóm bạn quái gở mà con đang chơi cùng bây giờ đấy. Nếu con chịu gội cho sạch cái đống vớ vẩn trên đầu, để cho tóc dài ra và trang điểm lại thì con có thể kiếm được mối tử tế hơn nhiều đấy.”

“Không phải có bạn trai thì mới hạnh phúc đâu mẹ.”

“Dĩ nhiên là phải chứ,” mẹ tôi nạt. “Cả tháng qua con mới thê thảm làm sao.”

“Vì bị điều tra tội giết người,” tôi nhắc mẹ. “Không phải vì con độc thân.” Không phải trăm phần trăm sự thật, vì nguồn cơn nỗi thống khổ chính của tôi vẫn là Jake. Nhưng anh mới là người tôi muốn ở bên cạnh. Không phải bất kỳ ai khác.

Mẹ tôi lắc đầu. “Con cứ tự nhủ thế đi, Adelaide, nhưng con gần như không có cửa vào đại học rồi. Giờ là lúc tìm một thằng bé tử tế với tương lai rộng mở sẵn sàng chăm lo cho co...”

“Mẹ à, nó mới mười bảy,” Ashton xen ngang. “Mẹ có thể gác cái kịch bản này lại trong ít nhất mười năm nữa. Hoặc dẹp luôn đi. Mẹ cứ làm như ở nhà mình chuyện lập gia đình thành công tốt đẹp lắm ấy.”

“Có mình con thôi, Ashton,” mẹ vênh váo. “Justin với mẹ đang cực kỳ hạnh phúc.”

Ashton mở miệng định nói tiếp, nhưng điện thoại tôi reo và tôi giơ một ngón tay lên khi thấy tên Bronwyn hiển thị. “A lô. Có gì không?” tôi nói.

“A lô.” Giọng cậu ta khàn đặc, như thể mới khóc. “Ừm, tôi cứ nghĩ về chuyện của Nate và muốn nhờ cậu giúp. Cậu có thể tối nay ghé qua một chút không? Tôi cũng sẽ gọi Cooper.”

Dĩ nhiên thế vẫn hơn nghe mẹ mình sỉ nhục. “Được. Nhắn địa chỉ đi.”

Tôi gạt mớ thức ăn còn thừa vào thùng rác và lấy mũ, chào Ashton trên đường ra ngoài. Một đêm cuối thu tuyệt đẹp, và hai hàng cây trên con phố nhà chúng tôi khẽ đung đưa theo cơn gió nhẹ trong lúc tôi đạp xe qua. Nhà Bronwyn cách nhà tôi chừng một dặm, nhưng nằm ở một khu dân cư khác hẳn; những căn nhà ở đây không một màu như ở chỗ tôi. Tôi rẽ lên lối vào của căn nhà Victoria xám khổng lồ, đưa mắt nhìn những bông hoa rực rỡ và hàng hiên bao quanh nhà với một cảm giác ghen tị. Căn nhà thật đẹp, nhưng không chỉ thế. Nó còn trông giống một mái ấm.

Khi tôi nhấn chuông, Bronwyn mở cửa và thì thào “Chào”. Mắt cậu ta cụp xuống vì mệt mỏi còn tóc thì xổ ra khỏi chùm đuôi ngựa quá nửa. Tôi nhận ra cả đám chúng tôi đều lần lượt bị chuyện này giày xéo: tôi là khi bị Jake đá và bạn bè quay lưng; Cooper là khi bị công khai, chế nhạo và bị cảnh sát săn đuổi; còn giờ là Bronwyn khi chàng trai cậu ta yêu bị bỏ tù vì tội sát nhân.

Cậu ta chưa nói yêu Nate. Nhưng chuyện của họ cũng rõ rành rành rồi.

“Vào đi,” Bronwyn nói, mở cửa ra. “Cooper đến rồi. Bọn tôi đang ở dưới lầu.”

Cậu ta dẫn tôi vào một căn phòng lớn với mây cái sofa căng phồng và ti vi màn hình phẳng khổng lồ gắn trên tường. Cooper đang nằm ườn ra trên một chiếc ghế bành, còn Maeve ngồi khoanh chân trên một chiếc khác với laptop đặt trên cái gác tay giữa hai ghế. Bronwyn và tôi ngồi thụp xuống sofa và tôi hỏi, “Nate thế nào rồi? Cậu có gặp cậu ta không?”

Có vẻ là một câu hỏi sai lầm. Bronwyn nuốt khan một cái, rồi hai cái, cố bình tĩnh. “Cậu ấy không muốn gặp. Mẹ cậu ấy bảo cậu ấy... không sao. Nhìn chung là vậy. Trường giáo dưỡng kinh khủng lắm nhưng ít ra đó không phải nhà tù.” Vẫn chưa. Chúng tôi biết Eli đang chiến đấu để giữ Nate được ở nguyên chỗ đó. “Dù sao thì, cảm ơn vì đã đến. Tôi nghĩ mình...” Mắt cậu ta lại ngấn nước, và Cooper với tôi trao nhau một cái nhìn lo lắng trước khi cậu ta nuốt nước mắt vào trong. “Cậu biết đấy, tôi rất mừng cái lúc chúng ta cuối cùng cũng tập hợp với nhau và bàn về vụ này. Tôi thấy đỡ cô đơn hơn nhiều. Và giờ có lẽ tôi muốn nhờ các cậu giúp đỡ. Tôi muốn kết thúc việc chúng ta đã bắt đầu. Tiếp tục cùng nhau làm rõ chuyện này.”

“Tôi chưa nghe tin gì từ Luis về vụ cái xe,” Cooper nói.

“Thực ra lúc này tôi chưa nghĩ đến vụ đó, nhưng xin cậu cứ tiếp tục để ý nhé? Tôi đang nghĩ chúng ta xem lại lần nữa những bài Tumblr kia. Tôi phải thừa nhận là mình bắt đầu lờ chúng đi vì chúng khiến tôi sợ. Nhưng giờ khi cảnh sát bảo là Nate viết chúng, tôi nghĩ chúng ta nên đọc kỹ lại và ghi chú những chi tiết không ngờ, hay không khớp với những gì chúng ta nhớ, hay chỉ là kỳ lạ thôi.” Cậu ta vén chùm tóc đuôi ngựa ra sau và mở laptop. “Cậu phiền không?”

“Giờ ư?” Cooper hỏi.

Maeve chỉnh góc màn hình để Cooper cũng thấy được. “Ngay và luôn.”

Bronwyn ở cạnh tôi, và chúng tôi đọc từ cuối trang. Tôi nảy ra ý giết Simon khi đang coi Dateline. Nate chưa từng cho tôi cái ấn tượng cậu ta là một fan của các chương trình phóng sự, nhưng tôi không nghĩ đó là loại chi tiết mà Bronwyn đang tìm. Chúng tôi ngồi đọc trong im lặng hồi lâu. Tôi bắt đầu thấy chán và nhận ra mình đang đọc lướt, nên tôi quay lại và cố đọc kỹ hơn. Blah blah, tôi rất khôn, không ai biết đó là tôi, cảnh sát hoàn toàn mù tịt. Vân vân.

“Khoan đã. Chuyện này đâu có đúng.” Cooper đọc kỹ hơn tôi. “Các cậu đọc tới đây chưa? Cái bài đăng ngày hai mươi tháng Mười, về chuyện điều tra viên Wheeler với đống bánh vòng?”

Tôi ngẩng đầu lên như một con mèo dựng tai khi nghe có tiếng động từ xa. “Ừm,” Bronwyn nói, mắt lướt trên màn hình. “Ồ đúng rồi. Có hơi kỳ kỳ đúng không? Chúng ta chưa bao giờ có mặt ở đồn cùng một lúc. À thì có thể ngay sau đám tang, nhưng chưa bao giờ thấy mặt hay nói chuyện với nhau. Bình thường những chi tiết mà kẻ này đề cập đến đều đúng cả mà.”

“Các cậu đang nhìn gì thế?” tôi hỏi.

Bronwyn phóng lớn trang lên và chỉ. “Đó. Hàng thứ hai từ dưới lên.”

Cuộc điều tra này đang biến thành một cái mô tip cũ rích trong phim, bốn chúng tôi thậm chí còn bắt gặp điều tra viên Wheeler nhồm nhoàm cả đống bánh vòng trong phòng thẩm vấn.

Tôi lạnh toát người khi những con chữ kia chui vào đầu tôi và làm tổ ở đó, đẩy hết những thứ khác ra ngoài. Cooper và Bronwyn đã đúng: chuyện đó không hề xảy ra.

Nhưng tôi kể với Jake là có.