← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 6 BƠ VƠ

Linh mục làm phép mồ xong ra về, nàng ngồi lì trước mộ. Bà Hầu tước vẫn đi kèm nàng, khoác cánh tay nàng kéo dậy và bảo.

– Đi về.

– Thưa bà, con …

Bà Hầu tước nhắc lại như bắt buộc.

– Đi về chứ!

Rồi bà kéo nàng đi.

Hai người cứ đi như thế, Liên không trông thấy gì ở chung quanh mình mà cũng không biết ai dắt mình đi: trí óc, tâm tưởng và đời sống của nàng đều ở cả với mẹ nàng.

Sau cùng, cả bọn nghỉ chân trong một lối đi vắng người. Bấy giờ nhìn ra nàng thấy chung quanh nàng nào là Hầu tước phu nhân vẫn khoác tay nàng, nào Tư Mặn, nào Già Hến và cả ông hàng kẹo nữa. Nhưng nàng phải nhìn mãi mới nhận rõ những người này. Hầu tước phu nhân thắt băng đen trên mũ, Tư Mặn quần áo chùng chặn với cái mũ kiểu cao, Già Hến thay cái yếm da muôn thuở bằng cái áo lễ dài chấm gót, ông hàng kẹo bỏ áo trắng thường mặc mà mặc áo dạ đen, vì tất cả mọi người đều theo phép dân Ba Lê, dự đám tang phải vận lễ phục để tỏ lòng cung kính người quá cố.

Tư Mặn biết mình là người quan trọng nhất trong bọn, có bổn phận phải nói đầu tiên.

– Tôi nói để cô biết cô có thể ở trại Guy Ô đến bao giờ cũng được không phải trả tiền.

Hầu tước phu nhân nói tiếp.

– Nếu cô muốn theo tôi học hát cũng kiếm ăn được. Hát cũng là một nghề quí.

Ông hàng kẹo nói.

– Nếu cô thích nghề bán kẹo hơn, tôi sẽ nuôi cô. Cũng là một nghề quí và vững chắc.

Già Hến không nói gì nhưng nở một nụ cười trên miệng ít nói và giơ tay như đưa ra một vật gì. Mọi người hiểu rằng Già Hến muốn nói bất cứ lúc nào Liên cần đến cháo, Già sẽ sẵn lòng cho và cho thứ cháo ngon.

Những đề nghị liên tiếp đó làm Liên cảm động tràn nước mắt. Những giọt lệ ngọt ngào này như rửa tan những giọt lệ cay đắng đã làm não lòng nàng từ hai hôm nay.

Nàng nói.

– Bà và các ông thương cháu quá!

Tư Mặn nói.

– Người ta làm những điều mà người ta có thể làm được.

Bà Hầu tước nói theo.

– Người ta không thể để một người con gái đảm đang như cô trên hè phố Ba Lê được.

Liên nói.

– Cháu không thể ở Ba Lê được. Cháu phải về ngay với những người họ nhà cháu.

Tư Mặn nhìn mấy người kia, tỏ ý ngờ vực những người mà Liên đi tìm vị tất đã là họ thân, rồi hỏi.

– Cô có họ hàng à? Họ ở đâu bây giờ?

– Ở quá tỉnh Amiens.

– Cô đi thế nào đến Amiens được? Cô có tiền không?

– Không đủ tiền đi xe hỏa, cháu đi bộ vậy.

– Cô biết đường à?

– Cháu có bản đồ trong túi.

– Ở bản đồ có vẽ các đường phải qua trong thành phố Ba Lê rồi mới ra đường đi Amiens không?

– Không. Xin nhờ ông chỉ giúp cho.

Mọi người đều sốt sắng bảo đường cho Liên đi, thành ra những chỉ dẫn mâu thuẫn nhau, rất khó hiểu. Tư Mặn cắt đứt.

– Nếu cô muốn lạc ở Ba Lê thì nghe lời các ông các bà ấy. Đây nghe tôi bảo: đi xe hỏa vòng quanh thành phố Ba Lê đến nhà thờ Bắc thì xuống, tìm đường đi Amiens ngay ở đấy. Mất có 6 xu. Bao giờ cô đi?

– Ngay bây giờ. Cháu đã hứa với mẹ cháu là cháu sẽ đi ngay.

Bà Hầu tước nói.

– Vậy cô phải nghe lời mẹ. Trước khi đi, cô lại đây cho tôi hôn từ biệt. Cô là một đứa bé đảm đang.

Những người đàn ông đều bắt tay và chúc Liên lên đường may mắn.

Khi ra tới cổng nghĩa trang, nàng ngập ngừng, quay lại nhìn về phía mộ mẹ. Hầu tước phu nhân đoán biết ý định của nàng liền nói to.

– Cô cần đi, phải đi luôn cho được việc.

Tư Mặn nói thêm.

– Phải, đi luôn đi!

Nàng cúi đầu và giơ hai tay gửi trong cái chào chân thành bao nhiêu tình nghĩa nặng sâu. Rồi nàng rảo bước, cắm đầu đi như người muốn trốn thoát.

Tư Mặn nói.

– Mời các bạn uống một ly.

Bà Hầu tước đáp.

– Cái đó không hại gì.

Là lần thứ nhất, Già Hến buông một lời.

– Tội nghiệp con bé!

Khi Liên đã lên xe lửa rồi, nàng lấy ở túi ra một tấm bản đồ có ghi rõ đường sá nước Pháp, tấm bản đồ này nàng đã biết xem và dùng đến nhiều lần sau khi ra khỏi nước Ý. Từ Ba Lê đến Amiens dễ đi vì cứ việc theo đường của xe như ngày xưa. Đến Amiens rồi sẽ rẽ sang đường Boulogne. Nàng biết đo quãng đường trên bản đồ, và tính ra từ chỗ xuống xe hỏa đến Mạc Quang phải đi bộ 150 cây số. Nếu mỗi ngày đi được 30 cây số thì năm ngày tới nơi. Nhưng liệu nàng có thể đi đều mỗi ngày 30 cây số không? Hôm trước đi 30 cây số rồi hôm sau có thể đi được như thế nữa không?

Trước kia, với con Bích Lư, nàng có thể đi hết dặm nọ đến dặm kia không mỏi. Nhưng bây giờ thì không thế. Nàng biết khó lòng đi 30 cây số một, hết ngày này sang ngày khác. Chân nàng sẽ sưng lên, gối nàng sẽ chồn lại. Rồi biết thời tiết trong năm hôm đó sẽ thế nào? Có được nắng ráo không? Nếu trời nắng, dù nắng gắt, nàng cũng có thể đi được. Nhưng lỡ trời mưa thì làm thế nào vì nàng chỉ có mấy manh áo rách. Đêm đến, nàng có thể ngủ ngoài trời ở bên gốc cây hay dưới tàn lá, mặc dầu những hạt sương đọng trên mái lá tươi đó rỏ thành những giọt nước mưa lớn. Ướt quần áo, nàng đã bị nhiều lần, nàng không sợ mưa gió. Nhưng nàng có thể đeo quần áo ướt từ sáng đến tối, từ tối đến sáng suốt trong năm ngày không?

Khi nàng trả lời Tư Mặn là nàng không đủ tiền đi xe hỏa suốt, tức là tỏ cho mọi người biết và tự nàng đã biết rằng nàng còn đủ tiền đi bộ, nhưng với điều kiện là một cuộc hành trình chớ kéo dài.

Thực vậy, khi rời trại Guy Ô, trong lưng nàng có năm quan và bẩy xu. Mua vé xe lửa vòng quanh Ba Lê mất sáu xu, còn lại đúng năm quan và một xu. Nàng nghĩ phải tiêu dè dặt món tiền đó càng lâu hết càng hay, để có thể khi tới Mạc Quang rồi còn sống được một vài ngày.

Không biết nàng có thể đi được đến nơi đến chốn không? Nàng đang lo nghĩ thì có tiếng báo “Đến ga Nhà Thờ rồi!”. Nàng liền xuống xe đi về lối Saint Denis.

Bây giờ nàng cứ việc đi thẳng phía trước mặt. Mặt trời xế chiều. Nàng rảo bước để cách Ba Lê thật xa, và đêm đến có thể ngủ ở một miền hoàn toàn nhà quê là nàng dễ chịu.

Nhưng trái với ý muốn của nàng, hai bên đường, nhà cửa liên tiếp với nhà cửa, xưởng máy liên tiếp với xưởng máy, đi mãi không hết. Xa tắp nàng trông thấy một cánh đồng lô nhô những mái nhà và những ống khói cao đùn lên trời những cuộn khói đen.

Những nhà máy và những xưởng thợ nàng đang đi qua, đưa ra những tiếng máy chạy ầm ầm, những tiếng búa đập chan chát, những tiếng hơi nước tháo ra kêu ù ù nghe điếc cả tai. Giữa đường, xe ngựa, xe bò, xe đi lại rối rít trong đám bụi đỏ bay mù. Tên mấy cái xe hàng nàng trông thấy in vào bạt phủ mui xe những chữ quen mắt mà nàng đã nhìn thấy ở ngoài cổng vào Ba Lê ngày nào: “Nhà máy Mạc Quang, Vĩnh Phan”.

Đi mãi không hết Ba Lê à? Chưa ra khỏi Ba Lê hay sao? Cái hiu quạnh của đồng ruộng, cái vắng lặng của ban đêm, cái huyền bí của bóng tối, những cái đó nàng không sợ. Nàng sợ nhất những nhà cửa, những đám đông người, những tiếng động, những ánh sáng của thành phố Ba Lê.

Một tấm biển xanh, treo ở góc nhà kia báo cho nàng biết là nàng đang đi trong thành phố Saint Denis mà nàng cứ tưởng là vẫn còn ở trong địa phận Ba Lê. Nàng mừng quá vì ra khỏi Saint Denis là đến làng mạc.

Trước khi ra khỏi thành phố này, tuy không thấy đói nhưng nàng nghĩ nên mua chút bánh để ăn trước khi đi ngủ. Nàng liền vào một hiệu bánh mì.

– Bà bán cho tôi một cân bánh mì.

Bà hàng trông bộ nàng rách rưới, liền hỏi.

– Mày có tiền không?

Nàng cầm đồng năm quan để lên bàn trước mặt chủ hàng ngồi, và nói.

– Tôi có đồng năm quan bà thối lại cho.

Trước khi cắt bánh cho nàng, chủ hiệu cầm đồng năm quan lên ngắm nghía.

Bỗng bà ta ném xuống bàn đá để thử, rồi nói.

– Đồng gì thế này?

– Đồng năm quan, bà coi lại xem.

– Ai bảo mày đem tiền này đánh lừa tao?

– Không ai bảo cả. Tôi đến mua một cân bánh để ăn bữa chiều thôi.

– Nếu vậy, mày sẽ không có bánh. Vì tao mời mày đi ra khỏi ngay chỗ này lập tức, nếu không tao bảo bắt mày.

Liên ức quá liền nói.

– Tại sao lại bắt tôi?

– Vì mày là con ăn cắp…

– Thưa bà, không khi nào.

– … Định đến đây cho tao đồng tiền giả này. Có đi hay không? Đồ ăn cắp? Quân du đãng! Tao gọi cảnh binh đến bây giờ!

Liên yên trí mình không phải là đứa ăn cắp, mặc dầu nàng không biết tiền của nàng thật hay giả. Nhưng du đãng thì nàng có vẻ thực vì không nhà cửa, không mẹ cha. Nàng sẽ trả lời cảnh binh thế nào?

Nếu bị bắt, nàng sẽ bào chữa thế nào? Rồi người ta sẽ làm gì nàng?

Tất cả những ý định này thoáng qua trong óc nàng như một luồng chớp. Tuy nhiên sự lo sợ đó đã làm cho nàng không quên đồng năm quan của nàng.

Nàng đưa tay và nói.

– Bà không bằng lòng bán thì thôi. Cho tôi xin tiền lại.

– Trả mày để mày đi đánh lừa người khác à? Tao phải giữ. Nếu muốn đòi đi gọi cảnh binh lại đây để phân xử. Đừng đứng ám nữa. Cút đi! Đồ ăn cắp!

Nghe tiếng quát tháo của chủ hiệu, ba bốn người qua đường dừng lại, nhìn ngang ngửa và hỏi nhau.

– Con bé này định cạy ngăn kéo hàng bánh à?

– Người ta bắt được hay sao?

– Quái, khi cần đến thì chẳng thấy bóng vìa người cảnh binh nào cả!

Nàng sợ hãi không biết có ra thoát hay không. Nhưng người ta không giữ nàng và chỉ buông theo những tiếng la ó, nguyền rủa. Nàng muốn biến vụt cho khuất chỗ này nhưng không dám chạy, và cũng

không dám ngoảnh lại xem họ có đuổi theo hay không.

Độ mươi phút sau dài như mấy giờ, nàng ra tới cánh đồng. Nàng cảm thấy nhẹ nhàng, không bị bắt! Không phải chửi!

Chính ra nàng phải nói: không có bánh, không có tiền mới đúng. Nhưng điều này còn ở trong tương lai, vì những kẻ suýt chết đuối khi mới ngoi lên được mặt nước, có bao giờ nghĩ ngay đến rằng chiều nay sẽ ăn thức gì, hay sáng mai sẽ điểm tâm bằng gì không?

Tuy nhiên sau những phút đầu mừng rỡ được thoát thân, vấn đề ăn lại hiện ra trong óc, nàng không lo cho bữa chiều mà cho bữa mai và những ngày hôm sau. Cái buồn không thể cầm hơi cho người ta được. Đi đường trường mà nhịn đói sao được? Khi ở trại Guy Ô bước ra, Liên không tính gì đến nỗi mệt nhọc giữa đường, đến sương lạnh ban đêm, khí nóng ban ngày, nàng chỉ tính đến việc ăn đường và trông cả vào đồng năm quan còn lại. Nhưng người ta vừa cướp mất số tiền đó, trong túi nàng chỉ vẻn vẹn có một xu. Làm thế nào cho sống được trong mấy ngày trời để về tới Mạc Quang?

Tự nhiên nàng đưa mắt nhìn sang hai bên đường. Nắng chiều là là chiếu trên cánh đồng bao la. Lúa mì sắp đâm bông. Cải củ, xu hào, hành, cải bắp mọc xanh tốt. Toàn những thứ không ăn được. Giá có những dưa gang, dưa bở hay dâu chín thì cũng sẽ vô dụng cho nàng. Nàng không thể đưa tay ra hái những trái dưa, những chùm dâu của người, cũng như không bao giờ chìa tay xin của bố thí vì nàng không phải là đứa ăn cắp, đứa ăn mày, quân du đãng.

Trên đường cái nàng mong muốn gặp một người cũng khổ cực như nàng để hỏi cách sinh sống thế nào của những kẻ lang thang trên những con đường xuyên qua những xứ văn minh.

Nhưng ở trên đời này làm gì có người khổ sở, khốn nạn như nàng, bơ vơ, bụng đói, không cửa không nhà, không nơi nương tựa như nàng, lòng ảo nảo, thân thể đau quặn như nàng?

Dù sao, nàng cứ phải đi, đi cho đến nơi mà ở đấy không biết người ta có mở cửa cho nàng vào không? Mà bây giờ phải làm thế nào để đi cho đến nơi?

Chúng ta đây, trong đời sống hàng ngày, ai cũng có những phút phấn khởi cũng như những phút buồn lòng do cái gánh nặng chúng ta mang, khi nhẹ nhàng, khi vất vả. Nhưng với Liên, cứ chiều đến là nàng buồn, một mối buồn xa xăm không duyên cớ. Mối sầu đó bây giờ lại tăng thêm cái đau đớn trực tiếp quá phũ phàng.

Trước cái gian nan đó, nàng bàng hoàng, như ngây như dại, khác nào như một ngọn đèn lay lắt trước gió khi tạt bên này, khi tạt bên kia, muốn tắt.

Đang buổi chiều hè, trời trong sáng, không một vẩn mây. Đối cảnh, nàng buồn bao nhiêu thì lại thấy những người chung quanh vui vẻ bấy nhiêu. Những người dân quê ngồi trước cửa, vẻ mặt sung sướng vì công việc trong ngày đã làm đầy đủ. Những người nông phu ở cánh đồng về, hớn hở như ngửi thấy mùi thơm của bữa ăn chiều. Cả đến những con ngựa cũng rảo bước về chuồng để nghỉ ngơi cạnh đống cỏ ngon. Khi nàng ra khỏi làng đó, xem biển thấy hai con đường cùng về đến Ca Lê, một đường đi qua Mạc Xen, một đường đi qua Ích Quan. Nàng theo đường sau.