CHƯƠNG 11 BẠN ĐƯỜNG
Mọi việc đều được sắp đặt như ý Hai Kền. Suốt trong tám ngày, Liên đã đi qua tất cả những làng thuộc rừng Chantilly. Khi đến tỉnh Côi, Hai Kền có ý lưu nàng ở lại với mình và nói.
– Cô lanh lợi và tốt giọng rao hàng. Cô ở lại giúp tôi, cô sẽ không đến nỗi khổ đâu. Nghề này kiếm đủ ăn, cô ạ.
– Cám ơn bà, nhưng cháu không thể ở lại được.
Thấy lý do này không ăn thua, Hai Kền lại đưa ra lý do khác.
– Cô sẽ không phải xa lìa Bích Lư.
Câu này quả có hiệu lực. Một nét buồn thoảng qua trên mặt nàng, nhưng nàng cương quyết ngay được.
– Cháu phải về với họ hàng nhà cháu.
– Họ hàng nhà cô có cứu sống cô như con Bích Lư này không?
– Nếu cháu không đi, cháu sẽ phụ lòng mẹ cháu.
– Vậy thì cô cứ đi. Nhưng nếu một ngày nào đó cô hối tiếc cái cơ hội tôi giúp cô, lúc đó cô sẽ tự trách mình không đổ cho ai được nhé.
– Xin bà tin rằng cháu sẽ nhớ mãi ơn bà, không bao giờ quên được.
Không phải vì Liên từ chối mà Hai Kền giận nàng. Bà vẫn sốt sắng tìm người hàng trứng là bạn bà để gửi nàng đi đến ngoại thành Amiens. Suốt một ngày nàng được nằm trong xe trên ổ rơm, dưới mui vải và được hai con ngựa tốt kéo đi như bay. Đáng lẽ còn phải đi bộ trên những con đường dài với bao vất vả, bây giờ nghiễm nhiên nàng được ở trên xe, nàng thấy sung sướng vô cùng. Đến làng An Lý, nàng ngủ trong một vựa lúa. Sáng hôm sau - là chủ nhật - nàng dậy sớm ra ga mua vé đi Bích Nhi. Nàng đưa đồng một trăm xu. Lần này đồng tiền đó không bị từ chối, cũng không bị tịch thu. Người bán vé trả lại nàng hai quan và mười lăm xu. Nàng lên xe hỏa và đến mười một giờ thì đến nơi.
Trong những ngày ở với Hai Kền, nàng đã có thì giờ vá giặt quần áo, lựa cắt được một cái khăn quàng trong mớ giẻ rách của Hai Kền. Nàng cũng không quên đánh giầy sạch sẽ. Khi ở An Lý, trong khi chờ đợi xe hỏa, nàng ra bờ sông rửa mặt rửa tay tử tế. Đến Bích Nhi nàng xuống xe, rõ vẻ một cô gái sạch sẽ, tươi tắn và nhẹ nhàng. Nhưng sự gọn gàng sạch sẽ và cả đến 55 xu rủng rỉnh trong túi nàng, cũng không làm cho nàng phấn khởi bằng niềm tin tưởng vào ngày mai, mà nàng cảm thấy sau những trận thử thách vừa qua.
Nàng đã không nản lòng, quyết phấn đấu đến cùng và nàng đã thắng. Phải chăng bây giờ nàng có quyền hy vọng và tin rằng nàng sẽ khắc phục tất cả những trở lực còn lại ở trên đường nàng đang đi? Thực ra, nếu nàng chưa vượt được đoạn gai góc nhất thì nàng cũng đã băng qua những khúc khó khăn và hiểm nghèo rồi.
Ra khỏi ga, nàng đi qua một cái cầu rồi đến một vùng đồng cỏ mọc rải rác những cây bạch dương, những cây thúy liễu, thỉnh thoảng có những ao, đầm, mỗi bước đi lại gặp những người câu cá đang mải nhìn cái phao rung rinh trên mặt nước. Trông những dụng cụ bày ở chung quanh, người ta biết ngay đó là những khách ở tỉnh gặp ngày chủ nhật đi câu giải trí. Hết vùng ao, chuôm đến mỏ than bùn. Trên bãi cỏ đỏ hoe, người ta xếp thành hình đều đặn những khối hình lập phương nhỏ đen đen, ngoài ghi chữ trắng, đó là những đống than bùn người ta xếp để phơi.
Đã bao lần cha nàng kể cho nàng nghe những mỏ than bùn và những ao nhân tạo - tức là những hố đã lấy hết than để nước tràn vào - đó là hai đặc điểm của thung lũng sông Somme. Cả những khách say mê thú câu cá nói trên, quên cả nắng cả rét, nàng cũng biết. Đây không phải là một miền mới lạ cho nàng mà chính là một nơi quen thuộc và mến yêu, mặc dầu mắt nàng chưa trông thấy bao giờ. Cũng biết rồi: những thành phố xơ xác và lụp xụp ở hai bên thung lũng. Cũng biết rồi: những cái cối xay ở chung quanh thị trấn đó, cánh quay như chong chóng bất cứ lúc nào vì luôn luôn được luồng gió biển thổi tới.
Làng thứ nhất nàng đặt chân đến, một làng có nhiều mái ngói đỏ, nàng cũng biết tên, đó là làng Bích Xá. Ở đây có những nhà máy dệt, nhà máy xe dây, thuộc cơ xưởng chính ở Mạc Quang.
Trước khi tới làng này, nàng phải đi qua một cổng xe lửa, đó là đường xe lửa đi qua những làng Hệ Chi, Bắc Quang, Lê Xuân. Bích Xá và Mạc Quang đều là những trung tâm sản xuất của hãng dệt Vương Vĩnh Phan, rồi mới nối liền vào đường chính đi Boulogne. Qua những rặng bạch dương trong thung lũng, nàng nhìn thấp thoáng thấy những ngọn tháp bằng đá đen của các làng, và những ống khói xây của những nhà máy, im lặng không nhả khói vì là ngày chủ nhật.
Khi nàng đi qua nhà thờ, buổi lễ vừa tan. Những người dân quê trò chuyện với nhau. Nghe giọng nói lơ lớ và kéo dài của họ, nàng lại nhớ đến cha nàng thường nhại lại những giọng đó để đùa với nàng.
Từ Bích Xá đến Mạc Quang đường đi gẫy khúc như chữ chi, vì phải tránh những chỗ đất mềm của mỏ. Hai bên thúy liễu rườm rà, vì thế người đi đường không thấy người đi trước hay đi sau mình dù cách vài bước. Đi đến một chỗ ngoẹo, nàng thấy lù lù ở trước mặt một người con gái đang đi khệ nệ, tay xách một dành nặng.
Nàng đánh bạo hỏi làm quen.
– Đây có phải là đường đi Mạc Quang không, hở chị?
– Phải, cứ theo đường thẳng.
Liên vừa mỉm cười vửa nói.
– Làm gì có đường thẳng.
– Nếu chị sợ lạc, cứ theo tôi. Tôi cũng về Mạc Quang, chúng ta cùng đi cho vui.
– Thế thì hay quá. Chị để tôi xách đỡ một tay.
– Phiền chị một tí. Nặng quá!
Nói xong cô gái đặt phịch cái dành xuống đất, thở phào một cái như trút được gánh nặng. Cô hỏi.
– Chị quê ở Mạc Quang à?
– Không. Thế chị?
– Chính tôi ở đấy.
– Thế chị có đi làm nhà máy chứ?
– Có. Đi làm như mọi người. Tôi làm máy suốt.
– Thế nghĩa là gì?
– Chị không biết máy suốt à? Thế chị ở đâu đến đây?
– Ở Ba Lê.
– Ở Ba Lê mà không biết những thứ đó. Lạ nhỉ. Nghĩa là những máy sửa soạn sợi để cho vào thoi.
– Lương khá chứ?
– Mười xu một ngày.
– Có khó không?
– Không khó lắm. Cốt chú ý và đừng để mất thì giờ. Thế chị cũng muốn làm à?
– Có, nếu người ta cần đến.
– Người ta nhận tất cả mọi người. Chả thế mà nhà máy có tới bẩy ngàn thợ. Mai chị cứ đến mà xin, độ sáu giờ sáng, thế nào cũng được. Nhưng ta đi đi kẻo muộn rồi.
Cô gái cầm một bên quai dành, Liên xách quai bên kia, hai người bước đều trên mặt đường.
Thực may mắn cho Liên được dịp dò hỏi những tin nàng muốn biết. Nàng nghĩ không thể đi thẳng vào vấn đề được, nàng giả cách hỏi loanh quanh và vẩn vơ để cô bạn không đoán biết chủ ý của nàng. Nàng hỏi.
– Chị, quê ở Mạc Quang à?
– Tôi sinh trưởng ở đấy. Mẹ tôi cũng thế. Còn cha tôi quê ở Bích Nhi.
– Chị còn cả cha mẹ?
– Không, cha mẹ tôi mất cả rồi. Tôi ở với bà tôi. Bà tôi mở tiệm ăn và bán tạp hóa, gọi là bà Phăng Xoa.
– A! Bà Phăng Xoa!
– Chị biết bà tôi à?
– Không. Tôi nói: A! Bà Phăng Xoa!
– Bà tôi ở đây ai cũng biết vì mở hàng ăn và cũng vì trước là vú nuôi ông Ích Môn, Vương Ích Môn. Khi ai có việc gì đến ông Vương Vĩnh Phan, thường cậy bà tôi nói hộ.
– Bà giúp được việc chứ?
– Lắm khi được, lắm khi không. Ông Vĩnh Phan tính nết bất thường lắm.
– Vì bà là vú nuôi ông Ích Môn, sao bà không nhờ thẳng ông ấy?
– Ông Vương Ích Môn ấy à? Ông ta đi ngoại quốc khi chưa có tôi. Người ta không thấy ông về bao giờ vì ông ấy bất bình với cha về việc nhà, giữa lúc ông ấy được sai sang Ấn Độ mua đay… Nhưng nếu chị không biết máy suốt, chắc chị cũng chẳng cần biết đến đay?
– Một thứ cây?
– Phải. Một thứ cây có sợi trồng rất nhiều ở Ấn Độ, người ta mua về kéo sợi, dệt và nhuộm ở các nhà máy Mạc Quang. Chính món đay đó đã làm giàu cho ông Vĩnh Phan. Trước kia ông Phan chuyên đánh xe mang sợi đi rồi chở vải về. Những vải này do người ở các làng dệt bằng khung cửi. Tôi kể lại thế vì chính ông Phan cũng không giấu.
Cô bạn ngắt chuyện.
– Chúng ta đổi tay đi.
– Phải đấy. Tên chị là gì?
– Hồng.
– Còn chị, tên là gì?
Liên không muốn nói tên thật, liền nghĩ liều một tên.
– Lan.
– Vậy chị Lan cùng tôi đổi tay đi.
Đổi tay xong, hai người lại xách và đi nhịp nhàng. Liên trở lại câu chuyện bỏ dở.
– Chị vừa nói là ông Ích Môn lúc ra đi bất bình với cha?
– Hai cha con cùng giận nhau, vì ông con ở Ấn Độ tự do kết hôn với một người con gái bản xứ, mà việc giá thú không được chính thức công nhận, trong khi Vĩnh Phan ở nhà muốn cưới cho con một người vợ, con nhà danh giá ở vùng Picardie này. Uổng công cho ông Vĩnh Phan đã bỏ ra bao nhiêu triệu bạc xây một lâu đài, định để cho con trai và con dâu ở. Ông Ích Môn nhất định không chịu bỏ người vợ bên ấy để lấy người vợ bên này. Hai cha con giận nhau dữ đến nỗi bây giờ, người ta không biết tin ông Ích Môn còn hay chết. Có người nói thế này, có người nói thế nọ. Nhưng chẳng ai biết đích xác vì đã hàng bao nhiêu năm nay, tuyệt nhiên người ta không biết vân mòng về ông Ích Môn. Đó là theo lời người ta nói. Chứ thực ra ông Vĩnh Phan cũng không nói gì với ai cả, mà các cháu ông cũng không hề nhắc đến.
– Thế ông Vĩnh Phan cũng có các cháu à?
– Có chứ. Ông Vương Thế Đô là con người anh cả ông và ông Tôn Cát Minh, con người chị gái ông - ông lấy vào để giúp việc cho ông. Nếu ông Ích Môn không trở về thì tất cả gia tài và nhà máy của ông sẽ thuộc về các cháu ông thừa hưởng.
– Lạ nhỉ!
– Nếu ông Ích Môn không về thì buồn lắm nhỉ?
– Cho ông Vĩnh Phan?
– Và cũng cho cả dân chúng ở đây, vì một mai nhà máy về tay các cháu ông, người ta không hiểu các ông có đủ tài năng để nuôi sống một đám đông thợ thuyền này không? Hôm chủ nhật mới rồi, người ta đã bàn tán đến chuyện đó ở tiệm ăn nhà bà tôi, nên tôi nghe thấy cả.
– Về chuyện các ông cháu?
– Phải, chuyện các ông cháu và chuyện các ông khác nhưng không phải việc chúng ta, ta chẳng cần biết.
– Đúng thế.
Liên giữ yên lặng, không dám hỏi thêm. Nhưng Hồng là một cô gái mau mồm, đi chưa được vài phút đã lại hỏi.
– Cha mẹ chị cũng sắp tới Mạc Quang?
– Tôi không còn cha mẹ.
– Cha mẹ chị mất cả?
– Cha mẹ tôi mất cả rồi.
– Vậy chị cũng như tôi. Nhưng tôi còn có bà tôi, tốt lắm và có thể tốt hơn nữa nếu không có các dì và cậu tôi mà bà tôi không muốn làm mất lòng. Nếu không có các bà dì và ông cậu tôi thì tôi không làm ở nhà máy. Tôi đã được ở nhà trông tiệm ăn. Nhưng bà tôi không làm được những điều bà tôi muốn. À, thế ra chị có một mình?
– Một mình.
– Chính tự ý chị từ Ba Lê muốn về Mạc Quang?
– Người ta bảo tôi ở Mạc Quang dễ kiếm việc làm. Đáng lẽ đi thẳng đường về thăm họ hàng tôi, tôi rẽ vào Mạc Quang xem sao. Tôi nghĩ họ hàng và tôi không biết nhau bao giờ, chưa chắc tôi đã được tiếp đón tử tế.
– Đúng thế, họ hàng cũng có người tốt, cũng có người xấu.
– Tôi cũng nghĩ thế.
– Vậy chị không nên phiêu lưu. Thế nào chị cũng có việc làm ở đây. Cũng không mấy đâu, có mười xu một ngày thôi, nhưng cũng đủ dùng, rồi chị có thể lên đến hai mươi hai xu. Nhưng tôi hỏi thật chị nhá. Nếu phải thì chị trả lời, không phải thì thôi. Chị có tiền không?
– Ít thôi.
– Nếu chị có đủ tiền thì chị có thể ở nhà bà tôi. Tiền trọ là hai mươi tám xu một tuần lễ, trả trước.
– Tôi có thể có hai mươi tám xu.
– Tôi hứa dành cho chị riêng một buồng đẹp với giá ấy. Người ta phải ở sáu người một buồng. Chị sẽ có đủ chăn nệm, còn các người khác không có.
– Tôi nhận lời và cảm ơn chị.
– Ngoài những buồng cho thuê hàng tuần, bà tôi còn có một nếp nhà mới, có nhiều căn phòng rộng rãi và sạch sẽ, dành cho các viên chức làm trong nhà máy ở trọ: ông Phát Bình, kỹ sư kiến trúc, ông Mộng Lê chủ sự kế toán, ông Biên Đích, tham sự về các văn thư ngoại quốc. Ông Biên Đích là người nước Anh và rất hiếu học.
– Tôi cũng biết nói tiếng Anh.
– Chị biết tiếng Anh à?
– Mẹ tôi là người Anh.
– Vậy thì hay lắm. Ông Biên Đích sẽ vui thích được nói chuyện với chị bằng tiếng Anh. Nếu chị lại biết nhiều ngoại ngữ thì ông ấy càng thích lắm, vì cái thú giải trí độc nhất của ông trong các ngày chủ nhật là đọc quyển kinh Chúa nhật in bằng hai mươi lăm thứ tiếng. Khi ông đọc hết, ông lại đọc lại. Ông đọc lại xong, ông lại đọc nữa. Ngày chủ nhật nào người ta cũng thẩy ông cặm cụi đọc như thế. Tuy vậy, ông là một người có tâm địa tốt.