CHƯƠNG 31 TIN TỨC
Nghĩ kỹ đi!
Lúc này ông Vĩnh Phan đang đợi thì “nghĩ” làm sao được. Việc đó sẽ định liệu sau.
Nàng lại dịch.
“Cái trở lực thứ nhất - như tôi đã nói với quý ông - là cái trở lực của thời gian đã trôi biệt từ ngày thành hôn của cậu Ích Môn, người con yêu quý của ông. Trước hết, tôi thú thực rằng: thiếu ánh dẫn đạo của cha Lê khả kính là người đã làm phép cưới cho đôi trẻ, tôi chẳng biết lối nào mà mò và phải khổ công hỏi chỗ này, chỗ khác mới lượm được một vài chi tiết khả dĩ thỏa mãn phần nào các câu hỏi của quý ông.
Theo những tin tức đó thì người vợ mà ông Ích Môn đã lấy là một thiếu nữ có nhiều đức tính: thông minh, tử tế, thùy mị, thanh cao, thẳng thắn, đó là chưa nói đến nhan sắc kiều diễm, tuy chóng tàn những không phải là không có một mối quan trọng quyết định của những chàng thanh niên có tính say mê những phù hoa ở đời.”
Nàng dịch đi dịch lại câu này đến bốn lần, vì là một câu vặn vẹo nhất trong thư mà nàng cố sức dịch cho đúng.
“Thời nay không phải là thời mà trí thức của phụ nữ Ấn Độ chỉ thu vào việc học nghi lễ, vào phép đứng ngồi. Nếu thiếu các điểm này dù có tài cao học rộng đến đâu cũng vứt đi. Ngày nay đa số dân chúng kể cả giai cấp trên đều có học và nhớ rằng trong nước cổ Ấn Độ, từ ngàn xưa người ta đã phụng thờ Nữ thần Sa ra va ti làm thần Văn học. Thiếu nữ tôi nói đây thuộc giai cấp trên. Cha mẹ nàng là dòng dõi Bà la môn, theo lối nói của người Ấn, là “hai lần sinh”, một gia tộc đã có diễm phúc theo đạo Gia tô từ ngày cha Lê mới sang truyền giáo xứ này.
Không may cho việc truyền đạo Thiên Chúa ở xứ này, vì ảnh hưởng của các giai cấp rất mạnh, mạnh đến nỗi ai bỏ đạo mình thì mất đẳng cấp, nghĩa là mất thứ vị, mất liên lạc, mất giao tiếp sinh hoạt trong xã hội. Đó là trường hợp của gia đình thiếu nữ, chỉ vì theo đạo GIa tô mà thành như giai cấp hạ lưu.
Bị đồng bào ruồng bỏ, gia đình nàng cố nhiên quay về với xã hội Âu Tây. Do đó, mối thân thuộc đã liên kết gia đình thiếu nữ với một gia đình người Pháp, và cùng nhau lập một nhà máy lớn chuyên dệt mút sơ lin (sa, lượt) xuất cảng, lấy tên Đô Lệ San (Ấn) và Béc Se (Pháp). Chính ở nhà bà Béc Se mà Vương Ích Môn quen biết cô Đô Lệ San và say mê nàng. Như vậy không cần giải thích, quý ông cũng hiểu cô Đô Lệ San chính là thiếu nữ mà tôi vừa mới tả ở trên. Tất cả những thư tôi nhận được đều phù hợp nhau về chỗ đó, nên tôi tin là đích xác, mặc dầu tôi không biết cô và khi tôi đến Dakka thì cô đã đi rồi.
Tại sao lại có sự ngăn trở trong việc hôn thú? Đó là vấn đề mà tôi không phải bàn đến.
Nhưng dù sao, hôn lễ đã cử hành trong giáo đường của chúng tôi, và cha Lê đã làm phép cưới cho cậu Ích Môn và cô Đô Lệ San. Việc giá thú đã ghi đúng ngày trong sổ, nếu quý ông cần đến, chúng tôi sẽ gửi cho quý ông một bản trích lục.
Trong bốn năm, cậu Ích Môn ở nhà cha mẹ vợ, và Thượng đế đã ban cho đôi vợ chồng trẻ một đứa con gái yêu.
Những bà con ở Dakka còn giữ những kỷ niệm tốt đẹp về lứa đôi này, và vẫn coi họ là cặp vợ chồng gương mẫu, mặc dầu họ có thể bị lôi cuốn trong khoái lạc của thời lưu. Nhưng cái đó phải chăng là do tuổi của họ, và tuổi trẻ chẳng đáng được dung thứ lắm sao?
Thời thịnh vượng đã qua, nhà máy Đô Béc buôn thua bán lỗ và dần dần xuống dốc. Vợ chồng ông Đô Lệ San từ trần cách nhau vài tháng. Gia đình Béc Se về Pháp. Ích Môn quyết định đi Dalhousie sưu tập những thảo mộc và các kỳ vật để bán cho những hiệu bên Anh. Ích Môn đưa cả vợ con đi, lúc đó đứa con mới lên ba.
Từ đó, cậu Ích Môn không trở về Dakka. Nhưng theo lời một người bạn thường nhận được thư của cậu ta và theo lời một vị linh mục, bạn thân với cha Lê vẫn nhận được tin tức của mợ ta, thì gia đình cậu ở tỉnh Dehra nhiều năm, vì tỉnh đó ở biên giới Tây Tạng và trong miền Hi Mã Lạp Sơn, là một trung tâm thám cứu rất có lợi cho cậu Ích Môn.
Tôi không biết tỉnh Dehra, nhưng chúng tôi có một Nhà Chung ở tỉnh đó. Nếu quý ông cần biết rõ hơn trong cuộc thăm tìm, tôi rất hoan hỉ gửi thư cho vị linh mục ở đó để giúp đỡ quý ông cho việc tìm kiếm được dễ dàng.”
Sau cùng lá thư, lá thư ghê gớm kia đã chấm dứt. Viết xong tiếng cuối cùng, không cần dịch đủ câu chúc tụng cuối thư, lập tức Liên thu thập các tờ giấy và đem vào phòng ông Vĩnh Phan. Lúc đó ông đang đi đi lại lại trong phòng rất thong thả, như đếm từng bước, vừa để khỏi đụng đầu vào tường, vừa để quên thì giờ, khỏi nóng ruột.
Ông nói.
– Em chậm quá!
– Bức thư dài và khó quá.
– Mà em còn bị người ta ngăn trở nữa chứ? Ta nghe thấy cánh cửa mở ra và đóng lại hai lần.
Vì ông hỏi, nàng tưởng cứ nói thực. Đó cũng là một giải pháp thẳng thắn để cởi mở những nỗi băn khoăn trong lòng nàng.
– Ông Thế Đô và Tạ Loan đã vào phòng cháu.
– A!
Ông định hỏi về việc này nhưng lại thôi và bảo.
– Cái thư trước đã. Việc đó sẽ xét sau. Em ngồi cạnh ta. Đọc thong thả, rõ ràng và nho nhỏ thôi.
Nàng cầm giấy đọc, giọng yếu ớt.
Thỉnh thoảng ông Vĩnh Phan lại làm cho nàng ngừng lại và theo làn tư tưởng trong óc, ông nói một mình.
… vợ chồng gương mẫu
… khoái lạc theo thời lưu
… hiệu bên Anh, hiệu nào?
… một người bạn, bạn nào?
… những tin tức đó nhận được từ độ nào?
Khi nàng đọc hết, ông Vĩnh Phan tóm tắt cảm tưởng của ông bằng câu.
– Toàn những câu. Không có tên người. Không có năm tháng. Sao óc họ mơ hồ thế?
Ông nghĩ ngợi một lúc lâu rồi hỏi Liên.
– Em có dịch được từ tiếng Pháp sang tiếng Anh cũng như em đã dịch Anh ra Pháp không?
– Nếu những câu đó không khó lắm, cháu dịch được.
– Một bức điện tín.
– Vâng, cháu dịch được.
– Em ngồi vào, viết đi.
Ông đọc.
“Cha Phiên. Nhà Chung Dakka.
Cảm ơn về bức thư.
Cho biết tên người bạn nhận thư của Ích Môn và ngày tháng trong thư đó.
Tên cha xứ Dehra và báo cha biết tôi sẽ hỏi thẳng cha.
Đã trả hai mươi tiếng trả lời bằng điện tín.
Vương Vĩnh Phan
– Em hãy dịch ra tiếng Anh và dịch hết sức ngắn, mỗi tiếng một quan rưỡi đấy, không nên hao phí, viết cho rõ ràng.
Nàng dịch xong ngay và đọc to cho ông nghe.
Ông hỏi.
– Bao nhiêu tiếng tất cả?
– Tiếng Anh, bốn mươi sáu.
Ông tính.
– Thế là... sáu mươi chín quan tin đi và ba mươi quan tiền trả lời, cộng tất cả chín mươi chín quan. Tiền đây em cầm ra bưu điện.Em sẽ đọc lại cho người thư ký nghe để khỏi sai lầm.
Khi Liên đi qua hiên, nàng gặp Tạ Loan, hai tay thọc trong túi đi đi lại lại để giám thị những việc ở ngoài sân và ở cả trong các văn phòng nữa.
Tạ Loan hỏi.
– Cô đi đâu?
– Ra bưu điện gửi bức điện tín.
Nàng một tay cầm tiền, một tay cầm giấy. Tạ Loan giật luôn tờ giấy, nàng phải buông ra sợ rách. Nhưng xem thấy tiếng Anh, Tạ Loan có vẻ bực mình, trả lại Liên và bảo.
– Cô nhớ lát nữa phải cho tôi biết nhé.
– Thưa ông, vâng.
Đến ba giờ chiều, ông Vĩnh Phan bấm chuông gọi nàng để cùng đi. Đã nhiều lần, nàng tự hỏi ai sẽ thay Guy Ô, bây giờ nàng ngạc nhiên thấy ông Vĩnh Phan bảo nàng ngồi cạnh ông, sau khi người bồi ngựa buộc con Cô Cô vào xe.
– Hôm qua em đã đánh xe về được, không lẽ hôm nay em lại không đánh xe đi được. Vả lại ta có chuyện muốn hỏi em, không để người ngoài biết thì hơn.
Xe đi dọc làng, người ta lại kéo nhau ra xem rất đông. Khi xe ra khỏi làng, qua những đồng cỏ đang gặt, ông Vĩnh Phan ngồi im từ lúc đi, bây giờ mới lên tiếng.
– Em có nói: Thế Đô và Tạ Loan có vào văn phòng em.
– Thưa ông, vâng..
– Chúng nó muốn gì?
Nàng ngập ngừng, có vẻ lo sợ.
– Tai sao em lại ngập ngừng? Không đáng nói hết cho ta hay à?
– Thưa ông, cháu phải nói, không dám ngập ngừng.
– Người ta không bao giờ ngập ngừng khi làm việc bổn phận. Nếu em xét rằng nên im đi thì em im, xét rằng nên nói thì em trả lời câu hỏi ta đi.
– Cháu xét rằng cháu phải trả lời.
– Ta nghe đây.
Liên kể lại đúng việc đã xẩy ra giữa Thế Đô và nàng, không thêm bớt tiếng nào.
Ông hỏi.
– Có thế thôi.
– Vâng, có thế thôi.
– Còn Tạ Loan ?
Nàng cũng kể lại đúng như việc đã xảy ra, nhưng rút bớt chỗ nói về bệnh của ông Vĩnh Phan sợ “một tin chẳng lành đến bất thần nếu không chuẩn bị có thể hại đến tính mệnh ông”.
Nàng lại kể thêm rằng Tạ Loan đã giằng lấy bức điện tín xem, và dặn nàng đến chiều phải nói cho ông ta biết.
Trong khi nói chuyện, nàng để cho con Cô Cô đi thong thả, con ngựa già được tự do bước nhẩn nha, vừa đi vừa hít hương cỏ khô mà làn gió ấm đưa qua mũi, đồng thời những tiếng liềm phát cỏ bên tai nhắc lại cho nó những ngày còn non, chưa phải làm việc, được nhởn nhơ bên cạnh mẹ hoặc nhẩy nhót trong đám ngựa con, không biết một ngày kia sẽ phải kéo xe trên đường cát bụi, phải chịu nặng nhọc và chịu những sự hành hạ của người.
Khi nàng kể hết, ông Vĩnh Phan im lặng, nét mặt vừa tức giận vừa buồn rầu, ông nghĩ một lúc lâu rồi nói.
– Trước hết ta phải lo cho em được yên ổn. Em yên trí rằng em sẽ không việc gì. Nếu có kẻ nào thù em, vì em đã thẳng thắn kháng cự họ, ta sẽ che chở cho em. Ta sẽ chịu trách nhiệm về mọi việc xẩy ra. Ta
đã biết trước, nên có dặn em đừng để ai dò hỏi lá thư đó. Đáng lẽ ta phải tránh cho em việc bất trắc đó. Nhưng từ nay, quyết không xảy ra như thế nữa. Bắt đầu từ ngày mai, em không ngồi phòng ông Biên Đích nữa vì họ có thể ra vào được, em sẽ ngồi ở cái bàn nhỏ trong văn phòng ta, chỗ em viết bức điện tín sáng nay. Trước mặt ta, chắc không ai dám hỏi em.
Nhưng họ có thể quấy rầy ngoài giờ làm việc như ở nhà bà Phăng Xoa chẳng hạn, vậy ngay từ chiều nay, em sẽ vào ở biệt thự và ăn với ta. Ta sẽ cho em ở riêng một căn phòng.
Ta đang có việc phải trao đổi thư từ với Ấn Độ mà chỉ có em giúp được thôi. Ta phải giữ gìn để người ta khỏi dùng sức bắt em, hoặc hỏi khéo em những tin tức riêng tư cần phải giữ kín. Ở bên cạnh ta, em được bảo vệ chắc chắn. Hơn nữa, đó cũng là một sự trả lời cho những kẻ muốn hỏi chuyện em, và cũng là một sự cảnh cáo cho những kẻ còn muốn thóc mách. Sau cùng đó cũng là một phần thưởng dành cho em vậy.
Bây giờ Liên hết sợ và yên tâm lắm, nàng vui mừng và cảm động quá, không tìm được câu để trả lời.
Ông nói tiếp.
– Ta sở dĩ tin em vì em tỏ ra gan dạ trong cuộc chiến đấu với gian nan. Khi người ta đã can đảm như em, người ta phải là người thành thực. Những việc em vừa làm tỏ rằng ta không nhầm, và ta có thể tin vào em như ta đã biết em từ mười năm nay. Từ khi em đặt chân vào xứ này, chắc em đã nghe thấy người ta nói nhiều về ta: ước gì ta được như ông Vĩnh Phan, ước gì ta là ông Vĩnh Phan, sung sướng biết bao nhiêu! Sự thực đời sống đã khắc khổ, vất vả, khó khăn cho ta chẳng khác chi - có khi hơn cả - một người thợ khốn nạn nhất.
Giầu có là cái gì nếu không có sức khỏe để hưởng sự giầu có ấy? Là một gánh nặng nhất trong các gánh nặng. Và cái gánh nặng ở trên vai ta nó đang đè ép ta. Mỗi buổi sáng, ta lại nhủ ta rằng bảy ngàn thợ sống bởi ta, sống tự ta và vì họ phải lo nghĩ, ta phải làm việc. Nếu thiếu ta, sẽ là một rủi ro, một tai nạn cho họ, có thể có nhiều người chết đói được. Ta đã hoạt động cho ta, cho thanh danh nhà máy mà ta gây dựng nên, nó là nguồn vui của ta, vinh dự của ta, thế mà trời bắt ta mù! Chua xót thay!
Ông ngừng nói. Liên cảm động trào nước mắt.
Ông nói tiếp.
– Nghe người làng nói chuyện và dịch thư của Cha Phiên, chắc em biết ta có một người con trai. Nhưng giữa người con ấy và ta, vì những lý do không tiện nói, có một sự bất hòa chia rẽ cha con. Sau khi con ta tự tiện lập gia đình bất chấp lời ngăn cản của ta, sự chia rẽ đó thành một sự tuyệt giao hoàn toàn. Tuy nhiên tình cảm của cha chưa tắt hẳn ở lòng ta, vì ta vẫn yêu nó như thưở nó còn thơ, đã bao nhiêu năm xa cách, ta nhớ nó và đôi mắt mờ của ta tưởng tượng như trông thấy hình ảnh nó hồi còn nhỏ. Con ta đã thiết vợ hơn cha, nó ở đó với vợ vì ta không thể nào tiếp nhận người đàn bà đó. Ta đợi nó sẽ nhượng bộ ta. Nó cũng mong ta sẽ nhượng bộ nó. Nhưng cả hai cha con đều giống tính nhau không người nào chịu người nào. Từ đó, ta không nhận được tin tức gì nữa.
Khi ta bị bệnh mù, chắc con ta biết - vì thế nào người ta chả báo tin cho nó. Ta chắc nó sẽ về. Nhưng nó không về, bị giữ dịt ở đấy bởi “con trời đánh” ấy, lấy con ta chưa thỏa lại còn giam hãm con ta thực là đồ khốn nạn!
Liên, mắt nhìn ông Vĩnh Phan, mải nghe, nín cả thở. Đến câu ông nói “đồ khốn nạn”, Liên bỗng nói chen vào.
– Thư Cha Phiên nói: “một thiếu phụ có nhiều đức tính: thông minh, tử tế, thùy mị, thanh cao, thẳng thắn”, người ta không nói thế nếu là đồ khốn nạn…
– Lời của trong thư không thể che lấp những việc làm. Ta căm thù nó vì nó đã giữ con ta. Hạng người như nó đáng lẽ phải rút lui mới phải, để cho con ta có thể trở về đây sống một cuộc đời xứng đáng. Vì nó mà cha con ta chia lìa nhau. Em xem ta cố công thăm tìm và vẫn chưa biết con ta ở đâu vì có quá nhiều sự khó khăn. Nó lại quấy rối thêm do một tình trạng đặc biệt mà ta cần phải cắt nghĩa cho em nghe, mặc dầu vấn đề khó hiểu đối với trẻ nhỏ như em. Nhưng em cũng cần phải biết qua, vì ta tin cậy em và em sẽ giúp đỡ ta trong việc đó.
Các việc con ta đi vắng lâu, thất tung, tuyệt vô âm tín đã tai hại gây ra nhiều sự tranh chấp âm thầm. Nếu con ta không có ở đây để kế nghiệp ta khi ta già yếu, để thừa hưởng gia tài khi ta mất đi, thì ai sẽ là người thay thế ta? Cái gia tài này sẽ về tay ai? Như vậy em hiểu những sự tranh chấp đã nấp sau những câu hỏi đó không?
– Thưa ông, cháu hơi hiểu.
– Thế là đủ rồi. Ta muốn rằng em không hiểu gì hết. Như vậy, ở cạnh ta, trong những người phải phù trì nâng đỡ ta, có kẻ sẽ được lợi nếu con ta không trở lại. Cái lợi đó làm họ quáng mắt và tưởng rằng con ta đã chết. Con ta đã chết rồi sao? Có thể như thế được không? Trời kia đã giáng hại ta chăng? Họ, họ tin được. Còn ta, ta không tin. Nếu Ích Môn chết, ta sẽ làm gì trên cõi đời này?
Theo luật của tạo hóa thì bao giờ con cũng mất cha, chứ không bao giờ cha lại mất con. Vả lại ta có nhiều lý do vững chắc chứng minh rằng những hy vọng của họ đều vô lý cả. nếu Ích Môn chết về một tai nạn gì, ta đã biết vì thế nào vợ nó chả viết thư cho ta, như vậy Ích Môn không chết, không chết được. Ta sẽ một người cha không có tin tưởng nếu ta nghĩ trái lại.
Liên không nhìn ông Vĩnh Phan nữa, nàng cúi xuống giấu mặt đi như sợ ông Vĩnh Phan trông thấy vẻ bối rối của nàng.
– Bọn chúng không có tin tưởng nên mới cho rằng con ta chết. Do đó, họ mới tò mò dò xét, mà cũng vì thế ta phải giữ kín việc thăm tìm con ta.
Ta nói thật cho em hay để em hiểu công việc ta giao cho em làm: “việc đòi lại con cho người cha”. Chắc em giốc lòng giúp ta. Còn việc họ dòm hành, tất nhiên họ sẽ tiếp tục nhưng em đã biết trước rồi và có ta đây, em không sợ gì cả.
Ông nói xong thì xe đi đến làng Hệ Chi là làng ở cách Mạc Quang xa nhất. Còn vài vòng bánh nữa thì xe vào cổng làng.
Liên bối rối, tìm câu để trả lời, nhưng nghĩ không ra. Óc tê liệt vì cảm xúc, cổ nghẹn, môi khô, sau cùng nàng nói.
– Thưa ông, cháu xin hết lòng…