CHƯƠNG 33 HỌC TẬP
Sáng hôm sau, Thế Đô và Cát Minh, bao giờ cũng đến chậm - vào văn phòng để soạn thư từ, rất dỗi ngạc nhiên thấy Liên ngồi chững chạc ở một bàn con bên cạnh ông Vĩnh Phan.
Tạ Loan không báo tin cho hai người biết và nhè lúc họ đến, Tạ Loan đã có mặt ở đấy rồi để đánh lừa họ chơi.
Lúc đó trông họ rất ngộ, Tạ Loan lấy làm mát ruột lắm. Tạ Loan tức giận thực vì vô cớ một đứa ăn mày bơ vơ không “nghĩa lý” gì, từ đầu hôm đến sớm mai nghiễm nhiên được ông già dở người trọng dụng. Nhưng thấy hai ông cháu cũng căm tức không kém mình, Tạ Loan rất hả dạ.
Họ ngơ ngác không hiểu sao con bé được ngồi ở căn phòng tôn nghiêm ấy mà chính họ có việc mới được vào, và không bao giờ dám ngồi lâu. Họ đưa mắt nhìn nhau, hỏi nhau nhưng không ai dám nói gì. Tạ Loan vênh mặt, đắc chí không cần giấu diếm vẻ nhạo báng của mình, vì tuy cuộc tranh chấp giữa họ và Tạ Loan chưa hẳn công khai, nhưng những sự đụng chạm hàng ngày đã làm cho họ hiểu nhau lắm, nghĩa là trong lòng người nào cũng nuôi một tham vọng như nhau. Tạ Loan ghét hai ông cháu, hai ông cháu ghét Tạ Loan, rồi ông cháu nọ lại ghét ông cháu kia. Ngày thường, Tạ Loan vẫn giấu lòng ghen ghét của mình sau những nụ cười mỉa mai hay trong sự im lặng khinh khỉnh, trá hình thành lễ độ của kẻ thấp hèn, nhưng hôm đó, Tạ Loan không nhịn được nữa, quyết cho họ một đòn mới nghe.
Chúng lên mặt lắm, cho là mình có đủ mọi quyền vì có họ với ông chủ, cháu còn gần hơn giám đốc kia mà. Một người là con anh ruột ông chủ, một người là con chị gái ông chủ, còn Tạ Loan chỉ là con của công trình của mình thôi, nhưng đã góp một phần rất lớn, một phần nhiều nhất cho sự hưng thịnh của nhà máy. Phải cho chúng mở mắt mới được!
Tạ Loan cùng ra với hai người. Họ vội vàng về bàn giấy để bàn tán về việc con bé mới vào. Tạ Loan vẫy họ, họ theo ngay, đó cũng là một thắng lợi cho Tạ Loan. Tạ Loan đưa họ ra ngoài hiên cách xa văn phòng để ông Vĩnh Phan khỏi nghe thấy.
Tạ Loan nói.
– Chắc các ông lấy làm lạ thấy … con bé ngồi trong văn phòng ông chủ?
Nhận là mình ngạc nhiên thì cũng bẽ, mà chối cũng không tiện, nên hai người không nói gì.
Tạ Loan nói tiếp.
– Tôi đã được nhìn kỹ. Sáng nay nếu hai ông không đến chậm, tôi đã báo để hai ông chỉnh tề hơn.
Câu nói đó đã cho họ một “bài học kép”, đoạn đầu đã vạch ra rằng họ đi làm chậm, đoạn cuối ngụ ý Tạ Loan không học trường Bách Khoa, không học trường trung học cũng biết phép lịch sự, còn cử chỉ của họ đã tỏ ra kém chững chạc. Bài học của Tạ Loan xem ra không được tế nhị mấy, nhưng cơ hội cho phép Tạ Loan khiêu khích họ, vì bây giờ Tạ Loan nói gì họ cũng phải nghe, cho nên Tạ Loan lợi dụng dịp tốt này.
Tạ Loan nói tiếp.
– Hôm qua, ông Vĩnh Phan có cho tôi biết ông đem con bé về biệt thự, và từ nay nó sẽ làm việc trong văn phòng ông.
– Nhưng nó là thế nào?
– Tôi cũng hỏi hai ông thế. Tôi không biết gì. Tôi chắc ông Vĩnh Phan cũng không biết hơn.
– Rồi sao?
– Rồi ông Vĩnh Phan giải thích rằng đã từ lâu ông muốn có gần ông một người thông minh, kín đáo, trung thành mà ông có thể tin cậy được.
Cát Minh nói.
– Không có chúng tôi là gì?
– Chính tôi cũng nói với ông Vĩnh Phan rằng ông chả có ông Thế Đô, ông Cát Minh rồi hay sao? Ông Cát Minh, một cựu sinh viên trường Bách Khoa đã học được nhiều, nhất là về lý thuyết, mà môn X lại hơn ai hết, ông ấy cũng trung thành lắm chứ. Còn ông Thế Đô, là người từng trải việc đời, thạo việc thương mại vì những năm còn nhỏ được ở gần cha mẹ, những bước khó khăn trong nghề đã đào luyện cho ông ấy rất nhiều, chính ông ấy cũng yêu mến ông lắm.
Cả hai ông ấy đều không thông minh, không kín đáo, không trung thành và không đáng được ông tin cậy hay sao? Hai ông ấy không nghĩ gì khác ngoài việc hết lòng phù trợ, giúp đỡ ông, khắc phục mọi khó khăn trong công việc, lúc nào tỏ ra là những người cháu thảo thuận và biết ơn, các ông ấy lại đoàn kết như anh em ruột, có một tâm tư vì cùng có một mục đích.
Tạ Loan không nhấn mạnh lời nói, nhưng với một nụ cười trêu chọc, khi nói đến cái hay của Cát Minh như Khoa Học X thì nhìn Tạ Loan vào mặt Thế Đô, và khi nói đến cái tài giỏi của Thế Đô như thạo việc buôn bán thì Tạ Loan lại đưa mắt nhìn Cát Minh, và nhằm cả hai người khi nói đến anh em một lòng vì cùng có một mục đích.
Tạ Loan nói tiếp.
– Các ông có biết ông chủ trả lời sao không?
Tạ Loan muốn ngừng lại một lúc, sợ hai người quay lưng đi không cần nghe hết, nên nói luôn.
– Ông chủ trả lời, “A! Các ông cháu tôi!” câu đó nghĩa là gì? Tôi không có quyền tìm hiểu thâm ý, tôi xin nhắc lại thế thôi. Bây giờ tôi nói nốt tại sao ông chủ lại cho con bé ấy vào ở biệt thự và làm việc gần ông. Theo lời ông nói, đó là muốn tránh cho em bé mọi nguy hiểm có thể xẩy ra được, nguy hiểm không phải cho nó vì ông không bao giờ để nó bị hại, mà nguy hiểm chính cho những kẻ khác, có thể bị ông khước từ. Tôi thề cùng các ông rằng ông đã nhắc lại đúng từng chữ một lời ông chủ đã nói. Như vậy, những kẻ khác là ai? Tôi xin hỏi các ông câu đó?
Hai ông kia tái mặt, không nói gì.
Tạ Loan nói tiếp.
– Ông chủ muốn ám chỉ ai? Vì lẽ gì ông ấy biết con bé đang bị hiểm nguy đe dọa? Những hiểm nguy gì? Tất cả những câu khó hiểu ấy, tôi xin nêu lên, kính thưa hai ông, để hai ông xét vì trong khi ông Ích Môn vắng mặt, mối liên hệ trong gia đình đã đặt hai ông lên địa vị hàng đầu cơ sở này.
Tạ Loan đã rỡn hai người như con mèo vờn chuột, và cũng như con mèo, Tạ Loan lấy chân đá hai ông lên không để coi chơi.
– À này! Các ông có biết tin ông Ích Môn không? Có lẽ chỉ ngày một ngày hai, ông ấy sẽ về đây thôi, vì ông chủ đã nhờ nhiều nơi tìm giúp và hình như đã nhận được nhiều tin hay.
Từ nãy, Thế Đô vẫn giữ giá trị không thèm hỏi tẹp nhẹp, bây giờ không nín được nữa, vuột hỏi.
– Ông biết tin à?
– Chỉ biết những điều tôi trông thấy, nghĩa là ông Vĩnh Phan đưa con bé ấy vào để dịch những thư và điện tín ở Ấn Độ gửi về.
Rồi với vẻ tử tế giả hiệu, Tạ Loan nói.
– Ông Cát Minh ơi! Ông học nhiều mà tiếc rằng ông không biết Anh văn. Nếu ông biết Anh văn có phải ông rõ các tin tức không. Không những ông tẩy được con bé khốn nạn hiện đang sống trong biệt thự một cách không xứng đáng, mà còn tìm được một đường đi dễ “đến nơi” hơn - và nếu tôi có thể giúp ông, ông có thể tin cậy tôi được … mà không ai biết.
Tạ Loan vửa nói vừa để mắt ra sân, đó là thói quen của Tạ Loan. Vừa lúc đó Tạ Loan nhìn thấy người phát thư đang đủng đỉnh bước vào.
Tạ Loan nói.
– Kia đúng là dây thép trả lời bức điện tín gửi đi Dakka hôm họ. Thực buồn cho ông, ông không biết trong đó nói gì để được là người thứ nhất báo tin mừng cho ông chủ là con ông sắp trở về. Vui lắm chứ? Tôi, tôi đã dự bị những “dàn xếp” để ăn mừng. Nhưng hại thay! Ông không biết Anh văn, con bé ấy nó biết.
Người phát thư đã đến bực cửa. Tạ Loan vội chạy ra đón.
– Anh đà đận mãi! Lẹ lên chứ?
– Để mà chết à?
Không trả lời, Tạ Loan cầm bức điện tín và mang luôn vào văn phòng ông chủ ra vẻ vội vã lắm.
Tạ Loan hỏi ông Vĩnh Phan.
– Tôi mở được?
– Được lắm.
Nhưng chưa xé hết đường răng cưa, Tạ Loan đã kêu lên.
– Bằng tiếng Anh.
Ông Vĩnh Phan nói.
– Việc của em Lan.
Tạ Loan lủi thủi bước ra.
Khi cửa đã đóng lại, Liên dịch bức điện.
“Người bạn là Lơ Xe, thương gia Pháp, tin cuối cùng năm năm, Dehra, cha Mạc Kiên, tùy tiện viết thư”.
Ông Vĩnh Phan kêu.
– Năm năm! Có thể thay đổi nhiều, làm thế nào mà dò được việc đã trải qua năm năm trời!
Nhưng ông không phải là người hay than vãn vô ích, câu nói của ông đã chứng minh điều đó.
– Hối tiếc cũng không thay đổi được những việc đã rồi. Ta phải khéo dùng những gì ta nắm được trong tay. Em viết một điện văn bằng tiếng Pháp cho ông Lơ Xe vì ông là người Pháp, và một bức bằng tiếng Anh cho cha Mạc Kiên.
Liên viết bức điện bằng tiếng Anh rất nhanh chóng và dễ dàng. Còn bức bằng tiếng Pháp, ngay câu đầu, nàng đã ngập ngừng viết không xuôi. Nàng xin phép ông Vĩnh Phan sang phòng ông Biên Đích lấy một quyển tự vị Pháp.
– Em không vững về chính tả của em?
– Thưa ông, cháu không chắc lắm, cháu sợ khi nhận được giấy ông gửi, người ta sẽ cười.
– Thế em không viết được một bức thư bằng tiếng Pháp không lỗi?
– Cháu chắc viết nhiều lỗi. Đầu tiếng thì có thể đúng, nhưng cuối tiếng thường phải hợp với giống với số, và những điều khác nữa, cháu không thông. Cháu viết tiếng Anh dễ hơn tiếng Pháp. Cháu xin thú thực cùng ông như thế.
– Em không đến trường học bao giờ?
– Không bao giờ. Cháu chỉ biết chút ít do cha và mẹ cháu dạy cháu ở dọc đường, trong những lúc nghỉ chân hay ở trong những giờ rảnh việc khi lưu trú ở các xứ. Những lúc đó cha mẹ cháu mới có thì giờ dạy cháu, tuy nhiên cháu được học rất ít.
– Em đã nói thực, em là đứa trẻ ngoan. Ta sẽ tìm cách cải tiến về việc đó. Bây giờ, hãy cứ làm nhưng việc ta phải làm.
Đến chiều, trong khi đi xe thăm các xưởng máy, ông Vĩnh Phan lại nhắc lại vấn đề chính tả.
– Em đã viết thư về quê cho họ hàng chưa?
– Thưa ông, không.
– Tại sao?
– Vì cháu thích ở đây mãi mãi, thích ở gần ông, ông thương cháu, cháu lấy làm sung sướng lắm rồi.
– Thế em không muốn rời ta?
– Cháu muốn mỗi ngày mỗi tỏ thêm lòng biết ơn của cháu trong mọi việc, và cũng tỏ những “cảm tình kính trọng khác nữa” mà cháu không dám nói.
– Nếu thế, có lẽ không viết thư thì hơn, nhưng tạm thời thôi, sau này sẽ hay. Nhưng muốn giúp ích cho ta, em phải học để có thể làm thư ký cho ta trong những công việc cần phải viết đúng đắn, vì em viết thế cho ta như vậy em cần phải học thêm. Em có bằng lòng không?
– Cháu sẵn sàng vâng theo tất cả những điều ông muốn. Và xin ông tin rằng cháu không sợ làm việc.
– Nếu thế, ta sẽ sắp đặt để em vẫn có thì giờ giúp đỡ ta. Ở đây có một cô giáo tốt lắm. Lúc trở về, ta sẽ nhờ cô giáo đến đây dạy riêng em sau buổi học chiều, từ sáu giờ đến tám giờ, tức là lúc em nghỉ việc văn phòng. Cô ấy là một người tử tế lắm, tuy nhiên cô có hai cái xấu, thân hình cô cao lớn lực lưỡng vai rộng tay to, mặc dầu cô chưa đến bốn mươi tuổi, tên cô gọi là “Nam Tử” - tả đúng tướng mạo cô như một chàng trai đẹp không để râu. Tốt nghiệp ở trường Cao đẳng, cô rất yêu nghề dạy học. Nhưng cái dáng hộ pháp của cô làm cho các em sợ mất vía, và cái tên ngộ nghĩnh của cô làm cho các phụ huynh phải mỉm cười, cô lánh xa thành thị, xin về quê dạy một trường tiểu học và đã đạt được nhiều kết quả. Lớp cô dạy giỏi nhất trong các trường quận. Các ông Thanh tra học chính coi ông là một giáo viên gương mẫu. Ở Amiens không tìm được cô giáo nào hơn cô này, ta sẽ mời cô dạy em.
Cuộc đi thăm các xưởng đã hết, chiếc xe dừng trước cửa trường nữ tiểu học, cô Nam Tử chạy ra, nhưng ông Vĩnh Phan xuống xe vì cần vào để nói chuyện. Liên theo sau, được dịp nhìn kỹ cô giáo, thực là một người đàn bà to lớn, đẫy đà như ông Vĩnh Phan đã tả. Nhưng điệu bộ cô trông khoan thai, từ tốn và đứng đắn, làm cho người ta mất cả ý chế nhạo khi đứng trước mặt cô.
Nhất định, cô không thể từ chối lời mời của ông chúa tể xứ này, và đó không phải là một việc bận mình vì tính cô rất say mê nghề giáo huấn, nó chính là thú duy nhất ở đời của cô. Hơn nữa, em học trò tương lai kia có đôi mắt sâu thẳm dễ thương.
Cô giáo nói.
– Tôi sẽ đào tạo em nên người học thức. Chắc chắn thế vì ông coi em có đôi mắt sơn dương. Tuy tôi không trông thấy sơn dương bao giờ, nhưng tôi quyết rằng em có đôi mắt sơn dương (ý nói mắt to và hiền hậu).
Dạy được vài hôm, cô giáo đã biết thế nào là sơn dương nên sáng hôm thứ ba, khi ông Vĩnh Phan về biệt thự để dùng cơm và hỏi cô về sự học của Liên, cô nói.
– Thực là một “tai họa” - cô Nam Tử quen dùng những tiếng lớn và mạnh như người cô - thực là một “tai họa” nếu để cho em bé này thất học!.
– Thông minh hả?
– Thông minh chưa đủ, phải nói là “thần đồng” nếu tôi dám diễn đạt như thế.
Ông Vĩnh Phan, thiên về nhu cầu của mình, chỉ cần hỏi.
– Chữ viết thế nào?
– Không tốt lắm, nhưng tập rồi cũng được.
– Còn chính tả?
– Kém
– Cô làm thế nào?
– Muốn thử sức của em, tôi đã đọc một bài ám tả để xem chữ viết và xem chính tả của em thế nào. Tôi lại muốn biết lời văn của em, nên đã ra cho em một bài luận tả “cảnh làng Mạc Quang và nói những nhận xét của em”, độ vài chục dòng. Không đầy một tiếng đồng hồ, viết theo đà bút, không cần tìm tiếng, em đã viết, viết đặc bốn trang lớn, văn hay và ý rất lạ, tất cả đều được tả, làng, các nhà máy, phong cảnh toàn thể và các chi tiết.
Có một trang nói về ao hồ và cây cối, cùng là các giống chim cá ở đó, cảnh tượng ao hồ trong sương mù ban sớm và khí trong mát buổi chiều. Nếu tôi không trông thấy em viết trước mặt tôi, thì tôi đã tưởng em chép ở một bài văn hay sách nào ra. Đáng phàn nàn là chữ viết và chính tả còn kém như tôi đã nói. Điều này không hệ trọng lắm. Chỉ cần một số bài học trong vài tháng là đủ.
Nhưng tất cả bài học trên thế gian này không thể dạy cho em viết văn hay được nếu em không có sẵn thiên tư, biết trông, biết cảm và biết nói lên được những cái mình trông thấy, những cái mình cảm thấy. Nếu ông có thì giờ, xin ông đọc qua trang tả cảnh ao hồ, ông sẽ cho lời khen của tôi không quá đáng.
Những lời khen đó làm cho nét mặt ông Vĩnh Phan tươi sáng hẳn lên, vì nó đã đè bẹp được phần nào những lời dị nghị bên ngoài về việc ông đã hấp tấp nhận nuôi cô bé kia. Ông liền kể lại cho cô Nam Tử nghe Liên đã trú ẩn trong một lều săn ở khu hồ ao nói trên thế nào, và đã khéo kiếm tại chỗ những sản vật như chim, cá, rau, quả để thết bạn mình một bữa ăn thanh thú ra sao. Trong khi nghe chuyện, khuôn mặt nở nang của cô giáo như nở nang thêm, vì cô rất thích thú về tài chế biến của học trò cô.
Cô nói.
– Ông coi, tính chế biến, biết “tự tạo cho mình những thứ cần thiết” phải chăng là một đức tính đáng đặt trên các đức tính khác?
– Đúng thế. Chính buổi đầu, tôi đã nhận thấy ở em đức tính quí đó, và một đức tính nữa là lòng kiên quyết. Cô bảo em kể chuyện em cho cô nghe. Cô sẽ thấy em đã tốn bao tinh lực mới đến được đây.
– Em đã được một phần thưởng để đền bù, vì em đã được ông chú ý.
– Chú ý và thương nữa vì ở trong đời tôi không quí gì bằng tính kiên quyết, chính do tính đó mà tôi được có ngày nay. Vì thế, tôi yêu cầu cô phát huy nết đó cho em do những bài học hiệu nghiệm của cô. Tuy có câu “người ta có thể làm những điều người ta muốn”, nhưng ít ra người ta cũng phải biết muốn mới được. Không phải bản tính người đời ai cũng biết muốn cả, phải học mới có, nghĩa là phải nhờ phương pháp sư phạm rèn luyện cho. Tuy nhiên thực tế ra, người ta thường chú trọng về việc khai trí hơn là việc đào luyện tâm tính. Nay cô có một người học trò bẩm sinh có nhiều đặc tính, mong cô hết lòng mở mang về phương diện đó cho.
Cô Nam Tử không thích nói nịnh, nhưng cô không thể ngại lời mà đứng im.
Cô nói.
– Gương mẫu có hiệu quả hơn các bài học, vì thế, em bé sẽ học hỏi được nhiều ở trường của ông hơn là trường của tôi. Chứng cớ là mặc dầu bệnh tật, tuổi tác, tiền của, không một phút nào ông xao lãng công việc coi như là bổn phận của ông. Tính chất của em bé sẽ chịu ảnh hưởng rất nhiều ở bên cạnh tấm gương sáng đó. Dù sao tôi cũng không quên dạy bảo em nếu em bỏ qua hay thờ ơ, tôi không tin rằng chúng có được với những điều đáng chú ý ở bên cạnh em.
Cô Nam Tử là một người hay nói, cô không bỏ qua một dịp nào là không nhắc đến ông Vĩnh Phan làm thí dụ, lắm khi nói đến ông nhiều quá thành ra đi xa quá bài học, cũng vì những câu hỏi của Liên đã lái câu chuyện ra chỗ khác.
Trong những giờ học tập, bao giờ Liên cũng chú ý nghe lời cô giáo giảng dạy, cả những bài khô khan như chia những động tự phi nhân xưng, những động tự tự phản, những động tự bất qui tắc v.v. Nhưng đôi mắt sơn dương trố lên khi cô giáo nói đến ông Vĩnh Phan. Những dịp đó, Liên khéo léo hướng câu chuyện đến chỗ nàng không biết, tức là những chuyện Hồng kể lại còn mập mờ, hay là những chuyện nàng nghe được khi hai ông Phát Bình và Mộng Lê nói lóng với nhau, câu chuyện đầy những tiếng bí ẩn khó hiểu.
Nhiều lần nàng hỏi Hồng vể bệnh mắt của ông Vĩnh Phan, Hồng chỉ trả lời lờ mờ, chẳng ra sao. Nay cô Nam Tử cho nàng biết đủ chi tiết về bệnh của ông. Đó là một bệnh lòa có thể chữa được, nhưng phải có những điều kiện đặc biệt mới mong giải phẫu có kết quả.
Cũng như tất cả dân làng Mạc Quang, cô Nam Tử hằng quan tâm đến sức khỏe của ông Vĩnh Phan. Cô thường nói chuyện với bác sĩ Duy Sơn về bệnh của ông Vĩnh Phan, vì thế những câu trả lời của cô rất đầy đủ, thỏa mãn được tính tò mò của Liên hơn là những câu giải thích của Hồng.
Ông Vĩnh Phan mắc phải chứng “màng mắt kép”, không phải là một chứng nan y. Nếu mổ được mắt sẽ trông rõ. Việc mổ chưa thực hành được vì thể chất ông còn yếu. Thực vậy, ông vốn có bệnh ho kinh niên, thỉnh thoảng phổi lại sung huyết, sinh ra khó thở, tim hồi hộp, tiêu hóa chậm, kém ăn kém ngủ. Muốn giải phẫu, trước hết phải trị bệnh lao lực rồi lần lần chữa hết các chứng khác cho khỏi hẳn mới được.
Nhưng ông Vĩnh Phan là một con bệnh cứng đầu, hay khinh suất và ít tuân lời bác sĩ. Thực ra, ở cảnh huống ông, kiêng cữ thực là một điều cực khó. Hỏi rằng ông có thể tĩnh tâm được không - như lời bác sĩ khuyên - khi mà con ông trở nên mất tích, khi mà những sự thăm tìm chỉ đem về những thất vọng? Ông buồn bực thành bệnh, một bệnh sốt thường xuyên mà ông chỉ có cách làm việc để “chữa” thôi.
Ngày nào ông còn chưa biết đích xác về số phận của con ông thì ngày đó không mong giải phẫu có kết quả. Vì thế người ta phải chờ, phải hoãn. Một ngày kia, việc mổ mắt có thể thực hiện không? Nào ai biết. Mặc dầu những sự săn sóc tận tâm của bác sĩ, sức khỏe của ông vẫn chưa đủ bảo đảm để các nhà nhãn khoa quyết định.
Dò hỏi cô Nam Tử về đời sống của ông Vĩnh Phan là việc rất dễ, nhưng đả động tới việc tranh chấp của Tạ Loan và hai ông cháu thì không được, vì cô giáo có phải là một người khờ dại để người ta dễ đánh lừa đâu. Vì thế Liên không dám trực tiếp hay gián tiếp nói động tới vấn đề đó.
Hỏi về ông Vĩnh Phan thì có lý vì tỏ ra người chú trọng đến sức khỏe của vị ân nhân. Nhưng hỏi đến việc riêng của các ông cháu và ông giám đốc thì thật là vô lý, vì việc đó có bổ ích gì cho trẻ con? Đâu phải là đầu đề câu chuyện của một cô giáo nói với học trò? Vả người ta có thể đào luyện tâm tính cho trẻ bằng những loại chuyện bép xép đó chăng?
Nàng đành bỏ câu chuyện đó không dám nghĩ đến nữa. May sao bà Bá Tôn, mẹ ông Cát Minh đến Mạc Quang chơi. cô giáo Nam Tử tự nhiên nhân đó giải thích đúng vào chỗ mà nàng đang khao khát nghe.
Được ông Vĩnh Phan cho biết tin đó, nàng nói lại cho cô giáo nghe và sợ rằng buổi học ngày mai sẽ bị ngăn trở chăng. Nghe xong, cháu tỏ vẻ băn khoăn và nghĩ ngợi. Gần đến giờ về, cô mới bảo nhỏ Liên rằng.
– Em ơi! Ta cần khuyên em một điều là ngày mai có gặp bà khách ấy em phải kín đáo và dè dặt.
– Kín đáo về việc gì? Dè dặt như thế nào? Thưa cô?
– Ta không những dạy em về học vấn mà còn luyện cho em về đường giáo dục nữa. Vì thế, ta khuyên em câu đó là có ích cho em và cho cả mọi người.
– Thưa cô, xin cô cắt nghĩa cho em những điều em phải làm vì em không hiểu rõ câu cô khuyên và em lo sợ lắm.
– Dù em mới tới đây, em tất biết bệnh ông Vĩnh Phan và việc mất tích của con trai ông đã làm cho cả xứ buồn.
– Thưa cô, đúng thế. Em cũng nghe thấy như thế.
– Nếu ông Vĩnh Phan chết và con ông không trở về thì những nhà máy ấy và gia đình họ sẽ trở nên thế nào? Em nên hiểu rằng vấn đề đó nẩy ra bao nhiêu mầm tham vọng. Ông Vĩnh Phan có giao quyền quản trị cho cả hai người cháu không? Hay ông chỉ giao cho một trong hai người mà ông tin cậy hơn? Hay ông giao phó cho người mà đã hai mươi năm nay từng là cánh tay phải của ông, người đó đã từng cùng ông chỉ huy khu nhà máy lớn này, có thẩm quyền hơn ai hết để cho công cuộc không phải đình đốn.
Khi ông gọi cháu ruột ông là ông Thế Đô về, ai cũng tưởng rồi ông cho làm thừa kế. Nhưng năm ngoái, khi ông Cát Minh, con người chị ruột của ông, tốt nghiệp ở trường Bách Khoa ra, ông lại tìm về làm với ông. Người ta mới ngã ngửa ra, biết là đoán nhầm, ông Vĩnh Phan chưa chọn ai kế nghiệp mình vì ông vẫn dành chỗ đó cho con trai ông. Mặc dầu có bất hòa giữa cha con ông, ông vẫn thương nhớ con ông và ông vẫn đợi.
Ông Ích Môn liệu có trở về không? Không ai đoán được vì người ta không biết ông ta đã chết hay còn sống. Chỉ có một người vẫn được nhận tin ông Ích Môn là cha Bảo. Nhưng cha Bảo đã từ trần hai năm nay rồi. Vì thế ngày nay, chắc không ai biết tin ông Ích Môn nữa. Riêng ông Vĩnh Phan, ông tin rằng thế nào mai mốt con ông sẽ trở về. Còn những người được lợi trong cái chết của ông Ích Môn thì lại khác. Họ quyết rằng ông Ích Môn đã chết. Họ vận động ngấm ngầm để trở nên là chủ tình thế, cái ngày mà hung tin đưa về làm cho ông Vĩnh Phan phải uất mà chết.
Em ơi! Em sống ở bên cạnh ông Vĩnh Phan. Em được ông thương yêu. Bây giờ em đã hiểu tại sao em phải kín đáo và dè dặt với bà mẹ ông Cát Minh, bà này thế nào chả vận động cho con bà và tìm cách chống lại những cạnh tranh với con bà. Nếu em tử tế với bà Bá Tôn, em sẽ bị bà mẹ Thế Đô ghét. Trái lại, nếu em tử tế với bà này - thế nào bà cũng sẽ đến - em sẽ bị bà Bá Tôn thù. Nếu em được lòng cả hai bà đó, em sẽ chuốc vào mình sự thù oán của kẻ đang kình gờm hai bà đó.
Vì những lẽ ấy, ta khuyên em hết sức thận trọng. Nói rất ít. Khi người ta hỏi mà bắt buộc em phải trả lời thì em cứ nói những câu lảm nhảm, vẩn vơ. Em phải biết trong đời, nhiều khi phải làm ra ngu dại hơn là tỏ vẻ quá thông minh, đó là trường hợp của em và em càng tỏ ra ngu xuẩn bao nhiêu tức là em thông minh bấy nhiêu.