IV. ÔNG TÚ XƯƠNG
VÀO khoảng cuối thế-kỷ thứ mười-chín trong làng thơ Bắc-Việt, ít ai không biết, mặt cái anh chàng đẹp trai. 6
« Quanh năm phong vận, áo hàng tàu, khăn nhiễu tím, ô lục-soạn xanh, quần tố-nữ, bít-tất tơ, giày gia-định bóng… » lẩn-quẩn ở mấy chỗ hàng Thao, phố Mới, chốc chốc lại ngước mặt lên trời nhìn đám mây xanh mà cười một mình ; nụ cười có khi khinh-khỉnh như ngạo đời, thị người, lại có khi xinh-tươi như đưa tình cho một bóng yêu trong mộng!
Cái con người phong-lưu, hay trông vào, ai cũng tưởng phong-lưu ấy, đã tự vẽ cái hình-ảnh của mình trong một bài tự-thuật như thế này:
« Ở phố hàng Nâu có phỗng sành,
Mặt thì lơ-láo, mắt thì lanh,
Vuốt râu nịnh vợ con bu nó,
Quắc mắt khinh đời cái bộ anh.
Bài-bạc kiệu-cờ cao nhất xứ,
Rượu-chè trai gái đủ tam-khoanh.
Thế mà vẫn tưởng là ta giỏi,
Cứ việc ăn-chơi chẳng học-hành ».
Hoặc là bài:
« Chẳng phải quan mù chẳng phải dân.
Ngơ-ngơ ngẩn-ngẩn hóa ra đần.
Hầu con trà-rượu ngày sai vặt
Lương vợ ngô-khoai tháng phát dần.
Có lúc vảnh râu ai phụ-lão,
Cũng khi lên mặt dạng văn-thân.
Sống lâu, lâu để làm gì nhỉ?
Lâu để mà xem cuộc chuyển-vần ».
Hoặc ở trong bài « PHÚ THẦY ĐỒ », trong ấy bức chân-dung của ông tự phác-họa ra lại càng rõ-rệt:
« Xem thầy con nhà phong-nhã ở chốn thị-thành.
Râu rậm như chồi, đầu to tầy dành.
Cũng lắm phen đi đó đi đây, thất điên bát đảo.
Cũng lắm lúc chơi liều chơi lĩnh, tứ đốm tam khoanh ».
Con người ấy, nên nói ngay bây giờ, không phải sinh ra để hưởng những sự phong-lưu sung-sướng như ta có thể tưởng lầm. Người ấy đã chịu mọi sự thống-khổ nặng nhất ở đời! Những lời ông ta nói, những việc ông ta làm, đều là mâu-thuẫn với sự thực-tế, với cảnh-ngộ gia-đình ông, với thân-thế ông. Đó là những điều mà chúng ta sẽ thấy rõ trong những mục sau này.
Ông Tú Xương, kể về cái tính ăn-chơi liều-lĩnh, thì thật không ai dám bì:
« Khi túng toan lên bán cả trời,
Trời rằng thằng bé nó hay chơi.
Cho hay công nợ âu là thế,
Mà cũng phong-lưu suốt cả đời.
Tiền-bạc mặc thây con mụ kiếm,
Ngựa-xe chẳng có lúc nào ngơi.
Có năm ba chữ nhồi trong ruột,
Khéo khéo không mà nó lại rơi! »
Cái tính gàn-dở, bướng-bỉnh ấy đã bắt ông làm cái đích cho lời mỉa-mai của thiên-hạ ; câu ca-dao sau này đã chứng thực sự đó:
« Vị-xuyên có bác Tú Xương,
…Quanh năm ăn quịt chơi lường mà thôi ».
Nhưng nào ông ta đã lấy những điều ấy làm nhục? Chẳng những thế, ông lại còn cho là đúng với tính-tình của mình, và chứng-nhận cái thực-trạng ấy trong một bài phú đắc:
« Vị-xuyên có Tú Xương,
Dở dở lại ương ương.
Cao-lâu thường ăn quịt,
Thổ-đĩ lại chơi lường! »
Nghiện gì thì nghiện, chớ đến nghiện món cao-lâu thì thật không phải là người tầm-thường!: « Nghiện chè nghiện rượu, nghiện cả cao-lâu ». (PHÚ THỊ HỎNG)
Cái bệnh nghiện ít có ấy, nặng cho đến nỗi nghe ai rao hàng là ông muốn ăn ngay, không thể nhịn thèm được.
« Sực chúc mầy rao đã điếc tai,
Tiền thời không có biết vay ai?
Mầy ơi! bán chịu tao vài bát,
Sáng mai tao trả một thành hai ».
Nhưng mà nói ăn chơi là nói vậy, chớ cái liều-lĩnh, bướng-bỉnh ấy chẳng qua là để cho khuây những nỗi đau-thương trong một tấm lòng ưu thời mẫn thế.
Là một thi-sĩ, cốt-khí đa cảm, đa sầu ; nỗi nước, nỗi nhà, đã phải trông thấy những điều không như nguyện ; lại thêm chung-đụng với một xã-hội đê-hèn, ích-kỷ, những chuyện chướng tai gai mắt là chuyện xảy ra hằng ngày, hằng giờ, người có tính-khí khẳng-khái ngang-tàng, sao cho khỏi trông đời bằng một con mắt bi-quan, ân-hận.
Chính ở nơi sinh-trưởng của ông, ở chốn chôn nhau cắt rốn, nơi người ta thường phải có nặng cảm-tình hơn đâu hết, mà đối với ông, cũng chỉ là một chỗ tụ-họp của những điều ô-trọc ti-tiện, của những cái xấu từ hình-thức cho đến tinh-thần:
« Ở phố hàng Song thật lắm quan,
Thành thì đen kịt. Đốc thì lang.
Chồng chung vợ chạ, kìa cô Bố,
Đậu lại quan xin, nọ chú Hàn… »
Thành đây là ông Phòng Thành, coi việc vi-cảnh ở thành-phố Nam-định, tên là Pháo, vốn là một kẻ không học-hành gì, nguyên từ Hà-nội xuống Nam làm ăn, lần lần trở nên giàu-có, rồi nhờ được quan trên thương-yêu, cho làm hộ phố, lên đến chức Phòng Thành. Người ông ta đen thủi, đen thui, có lẽ cũng là dấu-vết còn lại của thời nắng-mưa dầm-dãi. Đốc tức là ông Đốc-học Thiều coi trường Nam-định ; ông này mặt-mày có nhiều vết lạng trắng, trông không ra dạng vẻ một nhà nho phương phi đạo mạo. Cô Bố thì lẳng-lơ dâm-đãng ; chú Hàn thì lòn-lỏi đê-hèn. Bao nhiêu những người chung quanh mình toàn là thế cả, thì bảo nhà thi-sĩ làm sao cho khỏi bực mình.
Cho nên sau những lúc « vui cười ra phá » tạm thời, gượng-gạo, chỉ tiếp theo, than ôi những cơn đau-đớn vì nhân-tình:
« Trời không chớp bể với mưa nguồn
Đêm nảo đêm nao tớ cũng buồn.
Bối-rối tình duyên cơn gió thoảng
Nhạt nhèo quang-cảnh bóng trăng suông! »
Còn nói về vấn-đề kim-tiền, thì lại càng chán-ngán:
« Vì chưng chẳng có hóa ra hèn,
Hổ với anh em chúng bạn quen,
Thuở trước chơi-bời còn quyến-luyễn.
Bây giờ đi lại dám mon-men?
Giàu-sang âu-yếm tình quen-thuộc,
Bần-tiện thờ-ơ dạ bạc-đen.
Ví khiến trong tay tiền-bạc có,
Nói dơi, nói chuột, chán người khen! »
Khi mình có thì họ làm ra mặt thân để « cài » mình, khi nhắm thế không ăn nhờ gì mình được nữa, thì họ lộ vẻ khinh-khi, nếu không trở mặt phản hẳn:
« Người bảo ông điên, ông chẳng điên,
Ông thương ông tiếc hóa ông phiền,
Kể yêu, người ghét, hay gì chữ,
Đứa trọng thằng khinh cũng vị tiền!
Ở biển ngại-ngùng cơn tới lạch
Được voi tấp-tểnh muốn đòi tiên.
Khi cười, khi khóc, khi than-thở,
Muốn bỏ văn-chương, học võ-biền! »
Tuy vậy kẻ đại trượng-phu bao giờ cũng đại lượng, đem bụng yêu người, thương người thì có, chớ không biết trách người, căm người. Đối với những tiểu-nhân, chỉ: « Những là thương cả cho đời bạc ».
Chớ: « Nào có căm đâu đến kẻ thù ».
Có chăng chỉ có kẻ sinh ra một tính ngạo đời, không tin ở sự tốt-đẹp, hay-ho của đời nữa. Mà hay-ho gì, tốt-đẹp gì được, cái đời ngu-ngốc, giả-dối, a-dua, lòng riêng chỉ lo cầu cho nhau vạn cái rủi-ro khổ-sở, mà ở đầu môi, mút lưỡi thì vẫn nhao nhao chúc cho nhau những phước nọ duyên kia!
« Lẳng-lặng mà nghe nó chúc nhau,
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu
Phen này ông quyết đi buôn cối,
Thiên-hạ bao nhiêu đứa giã trầu!
Nó lại mừng nhau cái sự giàu,
Trăm nghìn vạn mớ để vào đâu?
Phen này ắt hẳn gà ăn bạc!
Đồng rụng đồng rơi lọ phải cầu.
Nó lại mừng nhau cái sự sang
Đứa thì mua tước, đứa mua quan.
Phen này ông quyết đi buôn lọng,
Vừa chửi vừa rao cũng đắt hàng. 7
Nó lại mừng nhau đẻ lắm con,
Sinh năm đẻ bảy được vuông tròn.
Phố-phường chật hẹp người đông-đúc,
Bồng-bế nhau lên nó-ở non ».
Tóm lại, thuần là những lời vô lối, không đâu, biết không thể nào thành hiệu được, mà chúng cũng cứ giả-dối chúc cho nhau. Chớ nếu công-việc mà xoay-xở theo lời mình ước-nguyện được, thì chi bằng chúc như thế này:
« Bắt-chước ai, ta chúc mấy lời
Chúc cho khắp hết cả trên đời:
Vua, quan, sĩ, thứ, người muôn nước,
Sao được cho ra cái giống người! »
Như thế mới có ích cho nhau hơn!
Trông đời bằng một con mắt bi-quan, cay-nghiệt như Trần tế Xương, tưởng không còn ai hơn nữa. Nhưng mà, trái với mọi người, cái tính-tình lãng-mạn, phóng-đãng của nhà thi-hào nó bắt ông Tú Xương không làm một bậc đạo-đức giả, luân-lý quèn, họ vẫn chẳng làm gì nên chuyện, mà đi đâu cũng thở ra những giọng yếm thế vô nghĩa-lý, hay là, tệ hơn nữa, họ đi ở ẩn ra ngoài xã-hội, như các vai chính trong truyện tàu xưa.