← Quay lại trang sách

V. MỘT NHÀ ĐẠO-ĐỨC KHÁC ĐỜI

SINH vào giữa buổi giao-thời, trong ấy mỗi sự-thay cũ đổi mới, nhà nho-sĩ coi như là một lát búa bửa vào bức thành thế-đạo, Tú Xương không thể không đau-đớn bởi những chuyện đương thời. Lúc bấy giờ, ở trong xã-hội, cái địa-vị được trọng-vọng nhất, cái địa-vị có thể đưa đến cho chủ-nhân-ông đủ mọi điều-kiện vật-chất sung-sướng, ấy là địa-vị ông Phán của nhà-nước Bảo-hộ:

« Nào có hay gì cái chữ nho,

Ông Nghè ông Cống cũng nằm co.

Chi bằng đi học làm ông Phán

Tối rượu sâm-banh sáng sữa bò ».

Nhưng mà những ông Phán ấy là những ông gì, tài học các ông ra thế nào?: « Á, ớ, u, ư, ngọn bút chì!… »

Thì ra chỉ có thế, nhưng mà từng ấy kẻ cũng đã ghê-gớm lắm:

« Muốn sống phải chăm mài bút sắt,

Cho mau chớ chậm đổ hòn chì.

Đỗ đầu hết thảy-nhà ông ký,

Phần của nhà Nho: có một ly! »

Tình-thế xã-hội như vậy, kẻ trượng-phu phải lấy một cái nhân-sinh-quan nào mà ở với đời?

Không kêu-rên hão, không than-khóc huyền, lại cứ lăn-lóc vào cuộc đời ; đời buồn, vẫn cố vui, đời bạc, vẫn không phụ, đời chán, vẫn thương-yêu ; nhà thi-sĩ đã lấy châm-biếm, lời diễu-cợt làm khí-giới để chống-chọi với mọi mối kich-thích của đời, và nhà thi-sĩ trở nên mạnh-dạn cứng-cỏi, quay lại công-kích đời, tự mình gây sự với đời.

Không có phái nào, cánh nào trong xã-hội mà không có cái mũi tên của thi-sĩ hài-hước bắn tới.

Như Phật-giáo và những người tuyên-truyền Phật-giáo thì bị ông miệt-thị lắm, tuy ông cũng như tất cả các nhà thâm nho, không phải là không hiểu thấu được cái cao-siêu, cái thuần-túy của tôn-giáo Thích-ca. Xét ra, sở-dĩ ông có những tư-tưởng phản giáo như vậy là vì ông thấy rằng đạo-lý có hay-ho gì mà người thực-hành giả-dối thì cũng vô-ích.

Mà còn gì giả-dối bằng những thầy sãi, vừa tu-hành đạo Phật, vừa chủ-trương đồng-bóng là cái phái mê-tín dâm-ô của phường vô-loại? Ta hãy nghe nhà thi-sĩ tả những cái nhí nhắc ghê-tởm của hạng người ấy trong bài: « ÔNG SƯ VÀ MẤY Ả LÊN ĐỒNG »:

« Chẳng khốn gì hơn cái nợ chồng,

Thà rằng bạn quách với sư xong.

Một thằng trọc tuếch ngồi khua mõ,

Hai ả tròn xoe đứng múa bông.

Thấp-thoáng bên đèn lên bóng cậu,

Thướt-tha dưới án nguýt sư ông.

Chị em thỏ-thẻ đêm thanh vắng:

Chẳng sướng gì hơn lúc thượng đồng! »

Lại tu-hành mà còn miệt-mài ở chốn trần-ai tục-lụy như cái sư ông chùa Cuối kia, cho đến nỗi pháp luật – phải can-thiệp để mời vào tu nốt – không phải ở chùa nữa đâu – mà ở trong một nhà pha, thì chi bằng đừng tu mà đừng làm bậy:

« Quảng-đại từ-bi cũng phải tù

Hay là sư-cụ vụng đường tu?

Tụng kinh cứu khổ ba trăm quyển.

Ý hẳn còn quên một phép phù! »

Trước những cảnh-tượng chán-nản ấy, mà còn thấy những cô con-gái rủ-rê nhau vào chùa học đạo cùng các sãi, thì ai dám tin rằng có một ngày kia, những vị cân-quắc anh-hùng ấy sẽ thành chánh-quả cả? Chẳng qua chỉ để thương, để tiếc, để ganh cho bọn mày râu phàm-trần:

« Con gái nhà ai dáng thị-thành,

Cớ chi nỡ phụ cái xuân-xanh.

Nhạt màu son phấn, sau màu đạo,

Mở cánh từ-bi, khép cánh tình,

Miệng đọc nam vô quên chín chữ,

Tay lần bồ-tát phụ ba sinh.

Tiếc thay thục-nữ hồng-nhan thế,

Nỡ cạo đầu thề với quyển kinh ».

Hình như Vị-xuyên có một mối ác-cảm riêng đối với thầy tu mà khi nào ông cũng gọi là « trọc đầu » như trong bài « ÔNG SƯ VÀ MẤY Ả LÊN ĐỒNG » ta vừa đọc ở trên, đã có câu: « Một thằng trọc tuếch ngồi khua mõ… »

Khi vui nói thế cho đành, đến khi buồn, tẻ ngắt tẻ ngơ, không có ý gì khôi-hài cả mà thi-nhân cũng không quên châm-chích con người vô hại ấy:

« Ngủ quách sự đời thây kẻ thức,

Bên chùa chú trọc đã hồi chuông ».

Có người bảo rằng mối ác-cảm ấy của Vị-xuyên chỉ sinh ra từ ngày ông vay nợ một nhà sư mà không được. Nhưng tôi tưởng rằng một bậc chí-khí ngang-tàng như Trần tế Xương không bao giờ nhỏ bụng đến thế, mà trái lại, sự thất-bại của ông trong việc vay sư, có lẽ chính vì cái tính khinh-thị cửa thiền của ông đã khiến cho nhà sư nào đó ghét mặt mà không cho vay, cái đó cũng không biết chừng.

Dù thế nào mặc lòng, bài « VAY NỢ SƯ » sau này 8 thật là một bài châm-chọc cay-nghiệt đáo để:

« Ông bám ông ăn đứa trọc đầu,

Đầu không có tóc, bám nào đâu?

Nghĩ mình nghiện nặng, cho nên kiết,

Đành nó ăn chay, ý hẳn giàu.

Một vốn bốn lời mong có lãi,

Năm liều bảy tính cũng không câu!

Thế mà không được, buồn cười nhỉ!

Không được thì ông lại xuống tàu ».

Cái tính ưa chế-nhạo nhà sư không phải chỉ riêng ông Tú Xương mới có. Một nhà thi-sĩ cùng thuộc một phái với ông (phái thi-gia trào-phúng) Tam-nguyên Yên Đổ, cũng hay bỡn thầy tu lắm. Ông có bài « VINH SƯ »:

« Đầu trọc lóc bình vôi,

Nhẩy tót lên chùa ngồi.

Y à kinh một bộ,

Lốc cốc mõ ba hồi.

Cơm chẳng thèm ăn cá ;

Ăn rặt oản, chuối, xôi.

Không biết câu tình-dục,

Đành chịu tiếng bồ-côi! »

(Yên Đổ)

Đã bỏ sự giáo-lý tinh-thần mà cho là giả-dối, đã thấy cái gì cũng chán-nản đến nghi-ngờ, nhà thi-sĩ lấy cuộc ăn-chơi thích chí làm mục-đích khuông-khoa cho cuộc sống dở của mình. Đối với Vị-xuyên, cái thú vui là ở nơi sự chơi ả-đào, tức là cái thú của nhà sang-trọng, của người thượng-lưu, học-thức, riêng dùng một môn văn-chương ; nó có thể gọi là thú tinh-thần trong thú vật-chất. Nhà thi-hào hằng ngày vẫn ca-ngợi điều đó trong nhiều bài tuyệt bút:

« Nhân sinh quí thích chí,

Còn gì hơn hú-hí với cô-đầu.

Khi vui chơi, năm ba ả ngồi hầu,

Chén rượu cúc, đánh chầu đôi ba tiếng.

Tửu hậu khán hoa nhàn bất yếm,

Hoa tiền chước tửu hứng vô nhai.

Thôi ai ơi! chơi lấy kẻo hoài,

Chơi cũng thế, mà không chơi thì cũng thế!

Của trời đất xiết bao mà kể,

Nợ công-danh biết thế nào xong,

Chơi cho thủng trống tầm bông ».

Cho nên, hễ khi nào ông ta rỗi-rãi buồn tình, thì đã lại lần mò xuống hàng Thao, phố Mới:

« Hôm nay rỗi rãi buồn tình nhỉ,

Thử xuống hàng Thao đập ngón chầu ».

Đã lại cô đầu. Rồi còn cô đầu mãi:

« Cái thú cô đầu nghĩ cũng hay,

Cùng nhau dan-díu bấy nhiêu ngày.

Năm canh to nhỏ tình ma-chuột,

Sáu khắc mơ-màng chuyện nước-mây.

Êm-ái cung đàn xen tiếng hát,

La-đà kẻ tỉnh dắt người say.

Thú vui chơi mãi mà không chán,

Vô tận kho trời hết lại vay ».

Cái quan-niệm « Vô tận kho trời » ấy đã sinh cho nhà văn-hào cái tính hào-phóng, bướng-bỉnh, không kể ngày mai ; nhưng nói cho đúng, kho vô tận ấy nào phải của trời đất gì đâu? Mà chính ông Tú Xương cũng đã bao phen nhận thấy ở chỗ nào rồi! Kho vô tận ấy, chính là bà Tú Xương vậy!