VI. BÀ TÚ XƯƠNG
TRÊN đây không đầy nửa thế-kỷ, ở xã-hội ta còn có một hạng đàn-bà mà công-việc gánh-vác gia-đình là một cái trách-nhiệm, một cái bổn-phận – hay nói cho đúng, vì trách-nhiệm có hàm một ý-nghĩa cưỡng-bách ở trong – hơn thế nữa, công-việc nuôi chồng, nuôi con, đã thuộc về phong-tục. Người đàn-bà khi lấy chồng, đã nhận ngầm cái gánh nặng ấy, nhận một cách vô tư, thản nhiên. Anh chồng chỉ chờ người ta nuôi cho lưng dài vai rộng, để mà « ăn no lại nằm ». Tôi nói gì? nằm thì còn hay lắm, vì như Tú Xương, thì chẳng bao giờ chịu nằm, mà khi chiếu hát, khi ca-lâu, ngoài cái tiền cho ông ăn sướng mặc sang, lại còn phải cung-cấp cho ông đi đập chầu, uống rượu và đãi-đằng anh em.
Ở trong một thời-đại sùng-thượng khoa-mục, và chỉ những người có khoa-mục mới được người ta sùng-thượng, mỗi người vợ đều có mối hy-vọng tối cao là lấy cái vinh-dự ở nơi đỗ-đạt của chồng. Nhà danh-nho Lê Quí Đôn đã rõ cái tâm-sự, cái nguyện vọng duy-nhất của người thiếu-nữ Việt-nam xưa, trong một bài văn-sách, có mấy đoạn như thế này:
« Còn trong trần-lụy, anh đồ là vị vũ chi giao-long ; may khoa thi mà danh chiếm bảng vàng, tức hôm nọ chi hàn-nho, hôm nay đã ông Cử, ông Nghè chi đài-các. Ví em mà phận đẹp chỉ đào, thì trước voi anh, sau võng thiếp, cũng thỏa đời ư võng-giá chỉ nghênh-ngang ;
« Chưng thủa hàn-vi anh đồ là ẩn sơn chi hổ báo, gặp vận thái mà ân vua sắc báu, tức là ngày xưa chi hàn-sĩ, ngày nay đã Tham quan Thượng chi phong lưu. Ví em mà duyên ưa lá thắm, thì anh quan cả, thiếp hầu bà, cũng sướng kiếp ư ngựa xe chi đủng-đỉnh ».
Vì thế mà người đàn-bà nào cũng vui lòng chạy ăn chạy mặc, nuôi chồng, nuôi con, cực-khổ bao nhiêu cũng không quản. Vì thế mà sinh ra chế-độ đàn-bà làm việc thế đàn-ông, mà ta đã xét thấy ở nửa thế-kỷ trước trở lên. Cũng như sau năm 1900, nho-học không dùng nữa, khoa-cử bị bãi bỏ, người ta xoay về chữ Pháp, học ít lương nhiều ; công-danh dễ đạt, thì lại sinh ra hạng đàn-bà dựa lưng chồng như ta đang thấy ngày nay. Năm mươi năm sau, tức là cái phục-thù cho năm-mươi-năm trước. Có ai trách các bà ngày nay là ký-sinh-trùng của những đức phu-quân, các bà cử việc giở sử ra mà nói: « Ròng-rã luôn mấy thế-kỷ trước, chúng tôi đã làm-lụng thế các ông. Bây giờ chúng tôi mới nghỉ mệt chưa đầy nửa thế-kỷ, đã chi mà các ông xét nét với phàn-nàn? »
Giả sử có vợ ai mắng chồng như thế, nghĩ đến bà Tú Xương, chỉ nghĩ đến bà Tú Xương, người này cũng nên cúi đầu yên-lặng.
Bà Tú Xương?
Có những người đàn-bà sinh ra để mà cầm thanh kiếm, cưỡi cổ voi, quản-đốc hàng vạn hùng binh, đánh thành này, thâu lũy nọ. Những vị cân-quắc anh-hùng ấy danh-tiếng lẫy-lừng trong lịch-sử. Lại có một hạng phụ-nữ – mà ta đừng tưởng rằng hạng này nhiều hơn – sinh ra chỉ để cầm cán chổi, coi bầy lợn, xem công-việc ngỡ là không oanh-liệt không vinh-dự bằng, nhưng kể ra công-trạng họ đối với tiền-đồ, với tổ-quốc, với văn-minh, không phải là nhỏ, thua đâu. Thế mà hạng người ấy, không ai thèm đếm xỉa đến. Vì sao lại có sự thiếu-sót bất công ấy? Vì sao lại có cái thiên-vị ấy? Tấm lòng sùng-thượng của người đời lắm khi cũng còn sai-lạc hoặc cẩu-thả lắm thay!
Đó là những tư-tưởng nó đến trước hết trong trí tôi mỗi khi tôi nghĩ đến bà Tú Xương.
Sinh-trưởng trong một cảnh thôn-dã êm-đềm, trong bầu không-khí trong-sạch bao-bọc làng Phù-nghĩa, thuộc huyện Mỹ-lộc (Nam-định), bà Tú Xương là một người có tất cả các đức-hạnh của người đàn-bà theo lý-tưởng Khổng-giáo. Có mà không tự biết. Cái hay, cái cao-thượng là ở chỗ đó.
Về dung-mạo, ta thử tưởng-tượng một người thiếu-phụ mặt-mày không có cái vẻ đẹp lộng-lẫy nguy-nga như các tiểu-thư ở chốn đài-các thị-hành, nhưng cũng rất dịu-dàng, rất đoan-trang, rất tươi-tắn. Vì làm-ăn lam-lũ, người ấy đã mất nét diễm-lệ thướt-tha ; không có cái thân-hình dong-dỏng, ẻo-lả « bồ-liễu », nhưng cũng không vì thế mà hóa ra thô-tháp, quê-kệch. Trái lại, nước da bao giờ cũng giữ được màu non-nớt, trắng-trẻo, mịn-màng. Chiếc hoa dại mọc ngoài đồng-nội, giữa một vùng quang-đãng bao-la, cho dẫu phải dãi-dầu vời nắng, mưa, sương, gió, bao giờ cũng hơn chiếc hoa yểu-điệu, thanh-bai, sặc sỡ, trồng trong chậu hay trong bồn.
Vả chăng, chính nhà thi-sĩ cũng đã có vẽ bức chân-dung của vợ. Ta hãy nghe:
« Mặt nhẫn-nhụi, chân tay trắng-trẻo, ai dám chê rằng béo rằng gầy ; Người ung-dung, tính-hạnh khoan-hòa, chỉ một-bệnh hay gàn hay dở. Đầu sông bãi bến, đua tài buôn chín bán mười ; Trong họ ngoài làng, vụng lẽ chào dơi nói thợ… »
Nếu như ông Tú Xương chỉ rặt những « áo hàng tàu, khăn nhiễu tím, quần tố-nữ, bít-tất tơ » và những « giày đôn chân diện, ô tây tay cầm », nếu ông Tú Xương chỉ lăn-lóc ở trong chốn hồng-lâu tửu-điếm, thì người thiếu-phụ kia lại « thắt lưng bó que, săn váy quai cồng » lặn-lội ở đầu ghềnh cuối chợ, buôn tảo bán tần, để gánh-vác gia-đình thế cho ông Tú.
Người ấy lấy chồng, không phải vì tham những bã vinh-hoa như ông Lê Qui Đôn đã tả ; không, người ấy nuôi chồng, nuôi con, là vì phận-sự, vì nghĩa-vụ, không ham-muốn, không mong-ước, vì ai chứ ông Tú Xương, thì cả năm đến tối, chỉ một việc ăn-chơi, nay đây, mai đó, ông có thiết gì đến sự học-hành.