← Quay lại trang sách

VII. MỘT VỊ THIÊN-THẦN

SAU khi ông Tú đã tiêu hoang cái hương-hoa sơ-sài của cụ thân-sinh để lại cho phần riêng ông, thì bà Tú phải ra công chu-cấp cho tất cả gia-đình. Bây giờ không còn mong nhờ lấy một chút hoa-lợi gì nữa, thì những cái ăn, cái mặc, cái dạy-dỗ đàn con, việc làng, việc họ, giỗ kỵ, tết nhất, bà phải trông-nom, lo-lắng hết thảy. Cho đến mỗi khi ông Tú đi thi, ngoài đồ lương-thực, bầu xiểng gánh theo, bà Tú lại còn phải tặng cho ông những món tiền « tiễn chưn » để phòng khi cách đò trở giang, đổ gánh chè, bể bánh tráng, chẳng hạn.

Hình như khi lấy nhau, hai người đã làm tờ hợp-đồng với nhau, đã cắt riêng phần việc cho nhau, ví-dụ như bà Tú thì lo việc kiếm tiền để tiêu-dụng trong nhà, còn ông Tú thì giữ việc… đi chơi. Chỉ có thế, ông mới tự-đắc và ích-kỷ tuyên-bố rắng: « Tiền-bạc phó cho con mụ kiếm ».

Phải, công-việc của ai nấy lo. Việc ông, ông làm, thế nào xong, mặc kệ ông. Còn việc bà, đấy! bà phải lo-liệu lấy: « Tiền-bạc phó cho con mụ kiếm… »

…Kiếm cả tiền để ông đánh cờ, phỗng kiệu, thậm chí tiền để ông đem vãi ở xóm chị em, trong khi cao-hứng, khi vì tình, vì rượu, vì thơ, ông đã dở mê dở tỉnh!… Thế rồi, xong cuộc truy-hoan, tan sòng đen-đỏ, ông trở về nhà, tiền hết sạch, bệnh mang vào, bà Tú lại chạy thầy, chạy thuốc, săn-sóc cho chồng, không bao giờ hở môi than-vãn một tiếng:

« Thua bạc ra đi với mẹ nhà,

Bệnh gì chẳng bệnh, bệnh tiêm-la!

Quá vui đến nỗi ra người dại,

Lỡ bước cho nên nhắm mắt qua ».

Khi ấy, bè-bạn xa dần, ở bên giường, chỉ còn bà Tú lo-lắng, ngồi thức suốt khắt thâu canh, cứ nửa đêm ra đặt bàn giữa sân, hương, đèn, hoa, chuối, rồi lẳng-lặng, kính-cẩn, chân-thành, bà khấn-vái trời đất, cầu cho ông Tú mau bớt bệnh:

« Im-ỉm thâu đêm lại thẳng ngày,

Bệnh đâu có bệnh lạ-lùng thay.

Thuốc-thang nghĩ lại chua mà đắng,

Đường mật xem ra ngọt hóa cay.

Lắm bệnh bạn-bè đi lại ít,

Nặng lòng họ mạc hỏi-han đầy.

Chỉ bền một nắm tâm-hương-nguyện,

Thuốc thánh bùa tiên ắt chẳng chầy ».

Nén tâm-hương-nguyện ấy bằng mười thuốc thánh bùa tiên. Trên giường bệnh, ông Tú vẳng nghe lời cầu-khẩn tha-thiết và ngây-thơ của kẻ tình-chung, ở giữa trời đêm im-lặng, bất giác một giọt nước mắt nóng-sốt tràn lên mí mắt ; nhà thi-sĩ thấy khoan-khoái trong lòng.

Có khi ham theo thú vui hay là bận công-việc ở phương xa, suốt năm ông không về, mãi đến ngày Tết mới lò-mò vác ô về xông nhà, thì ông đã thấy: « Đi đẹt ngoài sân tràng pháo chuột ».

của các cậu bé, trong khi bà Tú đang chăm-chúi treo một bức tranh mới mua hồi chiều ở hàng Mã chợ Vị-hoàng: « Trang-hoàng trên vách bức tranh gà ».

Ở căn giữa, đã bày la-liệt những đồ cúng Hành-khiến ; khói hương vừa thắp, bốc lên nghi-ngút ám mờ những ngọn đèn dầu lạc phập-phồng trong mấy đĩa đất nung xanh. Trên chiếc ghế hương-trát, ngay dưới bức tranh quệt-quạc kia, một chậu thủy-tiên sành nho-nhỏ những chồi non đã rẽ cát nhú lên, như còn ngơ-ngác với chỗ xán-lạn ngạt-ngào! Chung quanh, hình như bao-bọc một bầu không-khi ấm-áp, đằm-thắm yêu-thương, khác hẳn với cảnh lưu-lạc giang-hồ trong mấy tháng đã qua. Bà Tú đã bảo Bột hay Bành lấy nửa bầu rượu để riêng không cúng, đem dọn cho ông.

Rồi bà Tú bày ra trước mặt chồng một tập giấy hồng đơn, nhấp-nháy vô số chấm nhủ-kim. Uông hay Bái gì đấy đã mài sẵn một nghiên mực đầy và mum cái quản bút to nhất, thường ông Tú cất tận trên bàn thờ, sau chiếc bài-vị của cụ tự thừa. Bỗng ông Tú ngừng chén rượu mới cất lên, xây lại hỏi bà Tú. Bà chỉ vào hai cột chính ở căn giữa, mải còn trơ mặt gỗ đen xám, nhiều chỗ lớn đã bị mọt ăn làm nhiều lỗ thủng trắng-phao. Ông cả cười, trải giấy ra, viết vào hai vế đối. Công-việc mau lắm, chỉ trong chốc-lát là xong. Ông trương lên cho bà Tú xem và hỏi ý-kiến của bà. Bà đọc qua, nhìn chồng ; rồi một nụ cười tươi sung-sướng nở trên cặp môi son không sáp. Ông Tú cũng nhìn vợ, nhìn như nhìn một người lạ, xưa nay chưa từng biết mặt, rồi bỗng-nhiên, không hiểu vì sao, ông thấy bà đẹp-đẽ bội phần, tươi-tắn hơn cả các cô ả ở hàng Thao hoặc phố Mới mà hằng ngày ông thường bắt hát những bài « Nợ phong-lưu » hay « Nhân sinh thích chí » của ông. Phải chăng là vì ông ham-mê trăng-gió, giang-hồ, lâu ngày không nhìn đến mặt vợ hóa quên?

Câu đối ấy là câu đã in trên con số mục thứ nhất để tiêu-biểu cho cái lãng-mạn của ông: « Cực nhân-gian chi phẩm-giá, phong-nguyệt tình hoài ; Tối thế-thượng chi phong-lưu, giang-hồ khí cốt ».

Lại có lúc ông ăn-chơi quá độ ở chốn phồn-hoa, sau những cuộc « vui ra phá », sau những:

« Truyện nở như pháo rang,

Truyện dai như chão rách.

Đổ cả bốn chưn giường,

Xiêu cả một bức vách… »

Bỗng ông chạnh nhớ đến người hiu-quạnh, lam-lũ suốt đời không biết cái thú gì, ông tự lấy làm đê-hèn ; ích-kỷ, vội-vàng khăn gói ra về. Có lẽ trong đời ông, chỉ có lúc ấy là ông thấy mình đầy tội, và có ý rụt-rè, kiêng-nể vợ. Nhưng ở trước sân, ông Tú lại đã thấy bà Tú vui-tươi, mừng thấy mặt chồng, chớ không trách chồng vì lâu ngày vắng mặt. Bấy giờ ông Tú cảm-động quá. Lòng khâm-phục lại càng tăng khối yêu-thương. Ông bắt tay vợ. Hai người nhìn nhau, như một cặp uyên-ương sắp-sửa vào giờ hợp cẩn. Rồi ông Tú ngậm-ngùi ngâm bài thơ « TẶNG BÀ TÚ », cái bài nhờ đó mà danh thơm bà, nghìn năm sau vẫn còn lưu lại với thế-gian:

« Quanh năm buôn-bán ở mom sông,

Nuôi-nấng năm con với một chồng.

Lặn-lội thân cò khi quãng vắng,

Eo-sèo mặt nước lúc đò đông.

Một duyên hai nợ âu đành phận,

Năm nắng mười mưa dám quản công.

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,

Có chồng hờ-hững cũng như không ».

Lúc bấy giờ bà Tú hiểu ngay là đức phu-quân muốn hối-quá. Bà thấy cái chỗ ông Tú vẫn biết ơn mình. Rồi bà quên hết cả mọi sự lao-lực hàng ngày, sung-sướng rằng được một ông chồng, xem bộ bạc-bẽo, nhưng vẫn rất có tình.

Khi ông Tú đọc hết hai câu cuối, bà sẽ đưa mắt nguýt yêu ông, cười tình, tỏ ý khiêm-tốn, không nhận công. Nhưng ở trong hai mắt bà, thoắt sáng quác lên, ông nhác thấy mối tự-đắc chính-đáng, mối ái-tình hăng-hái, mối hạnh-phúc vô hạn của bà:

« Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,

Có chồng hờ-hững cũng như không ».

Những lúc ấy chẳc hẳn là những lúc sung-sướng nhất trong quãng đời nặng-nhọc vất-vả của bà Tú. Nhưng than ôi! Nó tồi làm sao! ngắn-ngủi làm sao! Vi tiếng gọi của cảnh giang-hồ lãng-mạn, không bao lâu, đã khêu-gợi cho lòng nhà thi-sĩ phiêu-lưu,những mối nhớ-nhung, xa xăm, đâu đâu, ông lại cất bước ra đi!

Phê-bình thân-thế bà Tú Xương, tôi tưởng câu sau này không phải là quá-đáng:

Bà Tú Xương không phải là một người đàn-bà. Bà là một vị thiên-thần trời sai xuống, không phải để giúp ông Vị xuyên trên bước đường danh-lợi, mà để cho nước Việt-Nam một nhà đại thi-hào.

Sau khi nghe tin bà mất trong năm 1931, ông Á-nam Trần tuấn Khải có làm một bài thi viếng. Bài thi ấy như sau:

« Hơn sáu mươi năm đất Vi-hoàng,

Vợ hiền, mẹ đức đã treo gương.

Nếm chung trời Việt trăm cay-đắng,

Vững với non Côi một mối-giường,

Bia miệng đá lừng tranh khốn phạm,

Nếp nhà không thẹn tiếng văn-chương,

Tấm thân tuy thác, danh nào thác!

Hồn có thơm lây chốn suối vàng! »