IX. VĂN-CHƯƠNG TÚ XƯƠNG
TRƯỚC một cảnh-ngộ khổ-não thương-tâm, người ta có ba cử-chỉ khác nhau: một là phát tức nổi điên, muốn lấy cái sức lau-sậy của mình mà đánh-đổ cảnh-ngộ, dù đã biết sức mình chẳng làm gì nó được ; hai là đành bó tay chịu thua, mà kêu-gào than-khóc, như để cầu-cứu một mãnh-lực uy-linh gì không bao giờ đến ; ba là hiểu thấu tất cả cái hư-vô của tài-lực mình, của sự khóc-lóc than-vãn, nhìn cảnh-ngộ bằng một con mắt nhẫn-nại, khắc-kỷ, hoặc hơn nữa, chỉ dùng một giọng cười để chế-nhạo cảnh-ngộ mà chơi.
Người ta đọc văn Tú Xương, thấy ông chuyên dùng một giọng khôi-hài trào-phúng, có thể tưởng lầm ông là một người sung-sướng phong-lưu. Nhưng sự thực thì ông chỉ là người đứng vào « cái ca » thứ ba đã kể trên mà thôi vậy.
Ông Tú Xương suốt đời lao-đao lận-đận, buồn-rầu vì thân-phận vô duyên, đau-đớn vì nhân-tình bạc-bẽo, Xem như:
« Kìa cái đêm nay mới gọi đêm!
Mắt giương không ngủ bụng không thèm.
Tình này ai tỏ cho ta nhỉ!
Tâm-sự năm canh một ngọn đèn ».
Lại với:
« Trời không chớp bể với mưa nguồn,
Đêm nào đêm nao tớ cũng buồn,
Bối-rối tình-duyên cơn gió thoảng
Nhạt-nhèo quang-cảnh bóng trăng suông ».
Cái khổ-tâm của ông ê-chề như thế thì những câu hài-hước, những giọng phong-lưu đã chiếm phần quan-trọng nhất trong văn-nghiệp của ông, chẳng qua là những tiếng cười gằn, « cười ra nước mắt », để che-lấp cái « khóc sợ thêm hổ ngươi » đó mà thôi!
Những quang-cảnh ruộng đâu bể biếc, vật đổi sao dời thường khiến cho người có tâm-huyết, cho kẻ ưu thời hay lo-phiền buồn-bực, mặc dầu những quang-cảnh ấy không có một tí ảnh-hưởng nào đối với mình, mặc dầu đó chỉ là những điều trông thấy mà thôi: « Những điều trông thấy mà đau-đớn lòng! »
Nhân thuở ấy, một khúc của con sông Nam-định, vì có đất bồi, hoa cạn dần, gặp lúc thành-phố đang mở-mang, nhà-nước cho đổ cát dựng nhà-cửa lên ở – ngay chỗ xưa kia là bến đò ngang. Chỉ có từng ấy việc mà đủ làm cho nhà thơ ngậm-ngùi than-thở, tiếc mối sự-thế đã qua! Bốn câu thơ sau đây rõ là một tiếng kêu thống-thiết:
« Sông kia rày đã nên đồng!
Chỗ làm nhà-cửa, chỗ trồng ngô-khoai,
Vâng nghe tiếng ếch bên tai,
Giật mình tỉnh dậy, tưởng ai gọi đò! »
Bạn đọc xem qua những bài thơ chép trên cũng đủ thấy rằng thơ Tú Xương nhẹ-nhàng lưu-loát, ngâm lên có một nhạc-điệu êm-ái du-dương. Thơ Tú Xương không có vẻ đài-các như thơ của bà Huyện Thanh-quan, vẻ hùng-tráng như thơ Nguyễn công Trứ, không gò-gẫm như của Lê Thánh-tông, hay yêu-quái như của Hồ xuân Hương. Nhưng cái mà Tú Xương có, mà ít ai có, là cái bình-dị, cái tự-nhiên. Trong thơ ông, không bao giờ ông để cho người ta thấy sự dụng công của ông, mặc dầu nhiều chỗ ta biết rằng không dụng công thì không bao giờ nên được thế. Cái tài là ở chỗ kín-đáo ấy. Thơ Vị-xuyên là một lối thơ cẩu-thả, hay nói cho đúng là có cái dáng-dấp cẩu-thả.
Thơ Vị-xuyên là một lối thơ cẩu-thả. Lời nói ấy không phải là một lời chỉ-trích có thể di-hại đến danh-tiếng ông, mà chính là một lời khen. Trong văn-giới Việt-nam, phi một người có biệt-tài, Tam-nguyên Yên Đổ, tôi chắc không còn ai có lối văn cẩu-thả thần-tình ấy. Đối vời Trần tế Xương, cũng như Nguyễn Khuyến, tư-tưởng trong óc ra thế nào được dùng ngay thế ấy, lanh-lẹ tươi-tắn, không trau-chuốt, không gọt-đẽo: không dụng công. Hơi văn đi ra như một luồng nước chảy xuôi giòng, êm, khoẻ, mau. Ta thử nhắm mắt lấy đại một bài, bài « GỬI ÔNG ẤM ĐIỀN » chẳng hạn:
« Tôi hỏi thăm ông đến tận nhà ;
Trước nhà có miếu có cây đa.
Ruộng-vườn đất-cát vừa ba thước,
Nửa lá tre pheo kể mấy tòa.
Mới sáu bận sinh đà sáu cậu,
Vừa hai dinh ở có hai bà.
Nhác trông mốc thếch như trắng gió:
Ông được phong-lưu tại nước da! »
Thật là tự-nhiên, tươi, và khéo. Bài « LẤY LẼ » sau này cũng vậy, mà ở đây, ta lại càng được thưởng-thức lối trào-phúng thâm-trầm kín-đáo,nó là cái biệt-tài của ông Tú Vị-xuyên:
« Cha kiếp sinh ra phận má hồng,
Khéo thay một nỗi lấy chồng chung.
Mười đêm chị giữ mười đêm cả…
Suốt tháng em nằm suốt tháng không.
Hầu-hạ đã cam phần cát-lũy,
Nhặt-khoan còn ỏi tiếng Hà-đông,
Ai về nhắn bảo đàn em nhỏ:
- Có ế thì tu, chớ! chờ chung! » 9
Cách đặt câu xuôi, êm như vậy, mà các vế đối lại chỉnh, rất chỉnh, đó là chỗ xuất chúng của nhà thi-sĩ Nam-thành. Xem như bài « CÔ TÂY ĐI TU »:
« Rứt cái mề-đay ném xuống sông,
Thôi thôi tôi cũng mét-xì ông.
Âu đành chùa đó, âu đành phật,
Cũng chẳng con chi, cũng chẳng chồng.
Chớ thấy câu kinh mà gọi kệ,
Ai ngờ chữ sắc hóa ra không!
Tôi đây cũng muốn như cô nhỉ ;
Cái nợ trần-duyên rũ chửa xong ».
Ta thấy hơi văn lưu-loát, đi luôn một giây từ đầu đến cuối, như kể chuyện, như văn xuôi! Đến hai câu 5, 6, thì thật là tài-tình. Nói theo cách Tây, ông Tú Xương dùng chữ cũng như anh phường-xiếc vứt-ba-quả dùng những quả của mình:
« Chớ thấy câu Kinh mà gọi Kệ.
Ai ngờ chữ Sắc hóa ra Không ».
Luôn trong một hơi, thảnh-thơi, tự-nhiên, như vô tình mà nói, ông đã khéo dùng những chữ kinh, kệ, sắc, không của nhà Phật để chọi nhau.
Giá-trị bài sau này cũng không kém gì bài « CÔ TÂY ĐI TU » ở trên. Nhân cái tình-hình quan-tước ở ta, ông Tú Vị-xuyên gửi một bài thi khuyên bỡn một ông bạn xuất thân phó-bảng, huấn-đạo ở một huyện nhỏ, nên bỏ giáo-giới mà vận-động ra hành-chính! Lời lẽ trào-hước đủ chứng-tỏ các cách tệ-lạm của quan-trường nó như đã thành những lệ án, những phong-tục ăn sâu vào cuộc sinh-hoạt của một dân-tộc, ai nấy phải lấy làm thường:
« Tri-huyện lâu nay giá rẻ mà!
Ví vào tay tớ quyết không tha!
An sơn tông giống người keo thực,
Bồ thủy xưa nay, của kiết à?
Đất nhị dễ thường lươn rúc ở
Lửa nồng nên phải chuột đùn ra!
Ông mà giữ tính kiêu-kỳ mãi,
Huấn-đạo, nguyên ông Huấn-đạo già! »
Hay nhất là chỗ thi-nhân đã tìm ra hai tiếng tĩnh-tự « nhị » và « nồng » đối chọi với nhau, mà chính hai tiếng ấy lại là hai tên địa-dư, để chỉ núi Nùng, sông Nhị, mà thường các bậc thi-hào năng dùng để đối với nhau, tức là ông Tú Xương đã đối cả chữ lẫn nghĩa, cả tiếng và cả ý!
Cũng như trong bài « ÔNG CÒ » trong ấy châm-chích các ông Cẩm quá nghiêm-khắc và những luật vi-cảnh của thành-phố:
« Hà-nam danh-giá nhất ông Cò.
Trông thấy ai ai chẳng dám ho.
Hai mái trống tung đành chịu dột,
Tám giờ chuông đánh phải nằm co ;
Người quên mất thẻ âu trời cãi,
Chó chạy ngang đường có chủ lo ;
Ngớ-ngẩn đi xia may vớ được ;
Chuyến này ắt hẳn kiếm ăn to ».
Mới đọc qua một dạo, thấy câu nào nghĩa xuôi câu nấy, không có chữ gì lắt-léo, ta có thể bỏ qua không cần gì nghĩ-ngợi cả. Ta có ngờ đâu hai chữ « trống tung » dùng để chỉ sự hư-hỏng đổ-nát của mái nhà tranh, lại chọi với hai chữ « chuông đánh » chỉ luật thành-phố, tám giờ tối, nghe hiệu chuông là không ai được ra đường, chọi xang-xác như hai lưỡi gươm của những tay thầy võ. Thật là kín-đáo. Thật là đột-nhiên. Thật là thần-diệu.
Trong văn-nghiệp Tú Xương về cách đối mau mà chỉnh thì ta thấy nhan-nhản những câu thần-tình không kém gì mấy câu trên:
« Cho hay công nợ âu là Thế,
Mà cũng phong-lưu suốt cả Đời.
Chết riêng có lẽ mình anh Nhỉ!
Sống bận ra chi lũ chúng Mầy!
Tiễn chưn cô mất hai tiền lẽ,
Sờ bụng thầy không một chữ gì.
Ra phố khăn ngang quàng lấy mặt,
Vào trường quần rộng xắn lên khu.
Có mẹ hãy còn vui gượng lại,
Không chồng hồ dễ sống chi lâu.
Mái tóc giáp-thìn đà nhuộm tuyết,
Điểm đầu canh-tí chửa phai son.
Một tuồng rách-rưới con như bố,
Hai chữ nghêu-ngao vợ chán chồng ».
Thế mà chưa thần-tình bằng hai câu sau này, trong bài phú « THẦY ĐỒ »: « …Văn có hay đã đỗ làm quan, võng điều võng tía ; Võ có giỏi đã ra giúp nước, khố đỏ… khố xanh… »
Nhà thi-sĩ thật đã khéo tìm ra bốn chữ « khố đỏ khố xanh » lại tả được cái tình-trạng của nước ta về phương-diện quân-bị. Tưởng là võ giỏi để ra làm nguyên-soái, thống-chế, binh-bộ, tổng-trưởng, để trứ-tác những bộ quân-pháp, binh-thư, ai ngờ giỏi cho lắm cũng chỉ để sung vào những ngạch lính khố xanh, khố đỏ,! Thật là tự-nhiên, châm-phúng, và nhất là xác đáng, hợp với sự thực! Cái hay không thể nào tả hết!
Về lối thơ lục-bát, lối hát ả-đào, câu văn nào cũng lưu loát, êm-đềm, tiêu-tao. Ta hãy nghe bài hát sau này:
« Ta lên ta hỏi ông trời,
Trời sinh ta ở trên đời mà chi,
Biết chăng hay chẳng biết gì.
Biết ngồi nhà hát biết đi ả-đào,
Biết thuốc lá, biết chè tàu,
Cao-lâu biết vị, hồng-lâu biết mùi ».
Hơi văn nhẹ-nhàng khoẻ-khoắn, cũng giống như bài hát « CHÚ MÁN »:
« Phong-lưu nhất ai bằng chú Mán,
Trong anh em chúng bạn kém thua xa,
Buổi loạn-ly bốn bể không nhà,
Răng chẳng nhuộm, vợ chẳng lấy, lượt là chẳng mặc.
Mán chỉ đủ tiền tiêu vặt,
Khi cà-phê, khi nước đá,
Khi thuốc lá,
Khi đủng-đỉnh ngồi xe.
Sự đời Mán chẳng buồn nghe! »
Mán đây không phải là chỉ người Mán, người Mường. Ấy là tên một anh đã từng sống ở Nam-định, đồng thời với Tú Xương, hình như làm nghề hạ heo, hoạn heo gì đấy thì phải. Mán có tính khờ-dại, thật-thà, tự-nhiên, vui-vẻ, và thuộc về hạng người « vô sự » như ta thường gặp ở cấp hạ lưu, triết-lý mà không tự biết, và đạo-đức một cách vô tình.