X. MỘT NHÀ TRÀO-PHÚNG
NHƯNG mà cái ưu-điểm của Tú Xương chính là ở nơi trí mẫn-tiệp, tài trào-phúng của ông như trong tập này đã nhiều lần nhắc đến.
Chúng ta có thể nói rằng do tính ưa trào-phúng của một dân-tộc mà biết cái trình-độ văn-minh của dân-tộc ấy. Hay nói cách khác, một nước càng có nhiều người biết trào-phúng bao nhiêu thì nước ấy lại càng văn-minh bấy nhiêu. Hoặc-giả có người bảo lời tôi nói là quá-đáng, tôi xin họ đợi đến khi trong nước đều biết trào-phúng, hay ít ra đều có thể lãnh-hội hết thảy những câu nói, những bức tranh trào-phúng, khi ấy hãy nên trách cùng không.
Phần đông người Việt-nam chưa biết yêu, biết chuộng lối hài-hước mà họ cho là trái với tính-cách người lớn. Chẳng qua là khối óc họ chưa mở-mang để lãnh-ngộ nổi cái thâm-thúy cái thướt-tha của một lời nói khôi-hài. Chỉ có những tên pha trò trên sân-khấu tuồng cổ, nói lên những câu không nghĩa hay diễn lại những lớp bông-lơn rởm mà cha anh chúng nó đã diễn từ một thế-kỷ nay và người nghe cũng đã nghe từ nhỏ đến lớn ; chỉ có những tên hát bội sắm vai quân canh, giả say rượu và giả đi tiểu-tiện ngay trên đầu bạn, hay những thẳng hề đóng trò trìa hỏi vợ nằm nơi đẻ được mấy con ; chỉ có những cái vô ý-thức ấy, họ mới không cho là trẻ con, và mới làm cho họ cười vỡ bụng! Họ chẳng qua lại như con ếch trong ngụ-ngôn bao giờ chưa ra khỏi giếng, thì còn tưởng trời bằng dĩa, và vẫn vui lòng chịu như vậy.
Bây giờ ta không còn lạ gì mà thấy tài ông Tú Xương không được mấy ai thưởng-thức.
Những năm-mươi-năm về trước, chúng ta đã có một nhà thi-sĩ trào-phúng thâm-thúy như Tú Xương, thật là một việc vinh-dự hạnh-phúc cho quốc-văn. Thế mà lúc bấy giờ chẳng ai biết theo gương nối gót, để mở-mang óc thông-minh, trí mẫn-tuệ, mà sự ích-lợi là làm cho dân-trí thêm vui-tươi, thêm lanh-lẹ, thêm yêu đời, yêu sự sống, thêm dễ hấp-thụ văn-minh ở ngoài: thêm mau tiến-hóa!
Những câu chuyện cỏn-con đã xảy ra trong đời Tú Xương do tài hài-hước của ông, những câu ứng-đối thần tình trong thời giao-du rất rộng của ông, chắc hẳn là nhiều lắm, mà một phần đã bị người ta không hiểu, nên không truyền-tụng được ; còn một phần lại bị họ bỏ qua, không để ý, vì họ không yêu-chuộng trào-phúng khôi-hài! Ngày xưa, quân Mọi ở Nam Phi-châu, tình cờ nắm được một viên ngọc-thạch trong tay, liền vứt phăng giữa sa-mạc mà đi!
Họa chăng trong áng thi-văn còn sót lại một đôi bài để chứng-tỏ cái sự-nghiệp mà vì ngu-dại như lũ mọi Nam Phi kia chúng ta đã làm mai-một đi nhiều.
Đọc những bài ấy, ta có thể tưởng-tượng ra những cảnh, những « xen » rất linh-hoạt, rất hoàn-toàn về các ngón chơi khăm, về tài mẫn-tuệ của nhà thi-sĩ Nam-thành.
Một ông huấn-đạo ở Mỹ-Lộc (Nam-định) cùng lên Hà-nội chơi với hai ông bạn đều là khoa-giáp xuất-thân, rủ nhau chụp một bức ảnh để làm kỷ-niệm. Về Nam, các ông tìm Vị-xuyên, kéo nhau ra quán đánh chén và cốt để cậy nhà thi-hào đề cho một bài vào ảnh. Cạn chén đầu, ông Huấn Mỹ-lộc mở khăn vải điều lấy ra tấm hình mà ông đã kính-cẩn và kỹ-lưỡng gói vào như ảnh của bà Cửu-thiên huyền-nữ hay của ba ông tướng Tàu: Quan công, Quan Bình và Châu Xương. Vị-xuyên nhìn thấy ba bạn khăn áo chỉnh-tề, bệ-vệ ngồi ngang nhau, người nào cũng lưng thẳng, ngực phồng đủ cả hai tay, mười ngón, trông rất chăm-chỉ nghiêm-trang. Bỗng ông nhếch một nụ cười. Ba ông đồ bấy giờ mới giật mình. Không nói ra, ai nấy đều hiểu là mình vừa làm một chuyện hớ! Cậy Tú Xương đề ảnh, chỉ tỏ làm cái đích cho ông bắn những mũi tên độc kia. Ba ông muốn rút lui, nhưng đã chậm quá rồi. Lanh như con hổ vồ mồi ông Tú đã cầm bút vạch ngay sau lưng bốn hàng chữ nôm. Ba ông bạn châu đầu lại, lo-lắng mà tọc-mạch, đọc lên như thế này:
« Cử Thăng, Huấn Mỹ, Tú Tây-hồ,
Ba bác chung nhau một cái… đồ!
Mới biết trời cho sum-họp mặt,
Thôi đừng chê nhỏ lại cười to! »
Ba ông bấm bụng ôm ảnh ra về.
Tú Xương thường hay liều-lĩnh ; không tiền mà vẫn về chơi xóm ả-đào. Người ta trọng-đãi ông, vì ông là một nhà thi-sĩ tao-nhã, ăn-nói vui-vẻ, lại hay cho chị em nhiều bài hát ý-vị thâm-trầm. Nhưng mà hát chịu mãi thì cũng bất tiện cho chị em, vì bà chủ hẳn không ưa lắm. Mối tình của khách giang-hồ có chăng chỉ đối với bạn hồng-nhan, thừa đâu đến bà chủ, để bắt bà chịu những thiệt-thòi ấy? Và chăng đối với hạng người ấy, tình là cái mồi để câu một thứ khác, kêu hơn, nặng hơn kia: tiền. Cho nên người ta đã quyết-định phải đến lượt ông Tú chịu thiệt một bữa. Bữa ấy là bữa ông mất cái ô tây:
« Hôm qua anh đến chơi đây,
Giày đôn anh diện, ô tây anh cầm.
Rạng ngày sang trống canh năm,
Anh dậy em vẫn còn nằm trơ trơ.
Hỏi ô? Ô mất bao giờ!
Hỏi em? Em cũng ẫm-ờ không thưa!
Sợ khi rày gió mai mưa
Lấy gì đi sớm về trưa với tình! »
Hay nhất là sự ông đã hiểu vì sao ô mất, và ai lấy ô. Những cử-chỉ khả nghi của người bạn một đêm: « Anh dậy em vẫn còn nằm trơ trơ… »
Với lại: « Hỏi em? Em những ẫm-ờ không thưa? »
đủ chứng cho ông rõ. Nhưng nhà thi-sĩ không cần để ý đến chuyện nhỏ-nhặt ấy ; thương-tiếc, tức-giận, sợ bà Tú hay chăng? Nào ai biết! Nhà-thi-sĩ chỉ than một câu, nó tình-tứ biết bao? ý-vị biết bao?
« Sợ khi rày gió mai mưa,
Lấy gì đi sớm về trưa với tình! »
Thật là cứu được cả sĩ-diện, mà tỏ ra một người si, ngoài chữ tình, không thèm kể một vật gì, dù là một cái ô tây cũng vậy!
Lần khác, để chế-diễu ông Đốc-học trong tỉnh, chính ông Đốc có những vết lang ở cổ đã được nói đến ở một trang trên, thi-nhân chỉ lơ-lửng tặng cho một bài thất-ngôn tứ-tuyệt, văn-khí khoan-hòa, tư-tưởng tao-nhã, mà nghiệm ra thật « đau quá đòn thù, rát hơn lửa bỏng » nữa:
« Ông về đốc-học chửa bao lâu,
Cờ bạc giong chơi rặt một màu.
Học-trò chúng nó tội gì thế?
Đến nỗi cho ông vớ được đầu? »
Lại xem bài sau này làm tặng một ông phòng-thành tên Pháo, ông Phòng « Thành đen kịt » ấy, mới biết rằng về những món tiểu-xảo, ông Tú Xương chẳng thiếu món nào:
« Tượng, tượng, xe xe phá lẻ rồi,
Sĩ điều sĩ trắng chẳng thành đôi.
Đố ai biết ngỏ quân nào kết?
Mã đã chui rồi tốt cũng chui ».
Ai thạo cờ tam-cúc, đọc lên đủ hiểu ông nói cái gì rồi! Thật là một bài đố ngộ-nghĩnh mà ông Thành Pháo giá có xem đến, tất phải phục lăn cái trí xảo-quyệt của vị thi-sĩ Nam-thành.
Tam-nguyên Yên Đổ là bậc cự-phách trong làng thơ thuở bấy giờ, đọc đến bài này cũng phải thán-phục lắc đầu mà than rằng: « Vị-xuyên thật có thi-tài quán thiên-hạ, tiếc vì không có phận mà thôi! »
Lại xem như hai câu rốt của bài « ÔNG CÒ » đã chép ở mục trên, thật là châm-phúng một cách cay-nghiệt độc-địa có thể làm chết điếng người đi:
« Ngơ-ngẩn đi xia may vớ được,
Chuyến này ắt hẳn kiếm ăn to! »
Hoặc là hai câu rốt của bài « GỬI ÔNG ẤM ĐIỀM » sau khi đã hết sức ca-tụng cảnh-ngộ phong-lưu của bạn, nào là:
« Ruộng vườn đất cát vừa ba thước,
Nứa lá tre pheo kể mấy toa… »
Cùng là:
« Mới sáu bận sinh đà sáu cậu,
Vừa hai dinh ở có hai bà… »
Mà ông lại còn hạ một câu ác-hại như thế này, nó càng có vẻ tự-nhiên bao nhiêu, càng thành-thật, mộc-mạc bao nhiêu, lại càng cay-chua thấm-thía bấy nhiêu:
« Nhác trông mốc thếch như trăng gió,
Ông được phong-lưu tại nước da! »
Vị-xuyên còn có tài hạ những câu thơ không tục một tí nào để diễn những ý-nghĩ hết sức tục. Thí-dụ như bài chế cậu công-tử kia ở Nam-thành, đồng thời với ông, mặc dầu cha đã qua đời rồi, mà cậu vẫn cứ lên mặt, thường thường đi đâu cũng có tráp, điếu, lính hầu vênh-vang tự-đắc. Có bà mẹ cậu hay đi lễ-bái ở chùa Phù-lương mà lại dan-diu tư-tình cùng chú tiểu chùa ấy. Ghét mặt, Vị-xuyên làm hai câu thơ chế cậu Ấm kiêu-căng nọ:
« Thôi đừng điều tráp vênh-vang nữa,
Thằng tiểu Phù-lương nó « chửi » mầy! »
Thật là kín-đáo mà mạnh-mẽ, tao-nhã mà cay-độc gớm-ghê! Người ta không có thể thần-tình hơn nữa!
Ngót nửa thế-kỷ sau, chúng ta họa chăng mới có một người, một thôi, theo đòi « trường trào-phúng » của Trần tế Xương đã thiết-lập ra: tôi muốn nói đến tác-giả cuốn GIÒNG NƯỚC NGƯỢC, Tú Mỡ! Thế là chưa kể rằng chúng ta ngày nay được bao nhiêu khoa-học âu-tây mở-mang trí-não, cách lập ngôn theo phương-pháp luận-lý khôn-khéo ra thế nào, những tư-tuởng mới-mẻ sinh theo luồng sóng văn-minh mới, rộng-rãi, cao-xa, thâm-thúy, phức-tạp đến thế nào?
Xem thế, ta phải hiểu tài ông Vị-xuyên, một người sống ở thế-kỷ trước!