← Quay lại trang sách

XI. LỐI THƠ KHẨU-KHÍ

CÁC nhà văn-hào ta xưa nay hay bắt-chước nhau làm một thể thơ gọi là thơ khẩu-khí, nghĩa là trong ấy hơi văn, lời nói tỏ rằng tác-giả có khí-tượng lớn-lao. Đến phải vịnh một vật gì, dù là vật đê-tiện tồi-tàn, họ cố tìm những câu bóng-bẩy cao-xa, làm thế nào cho vật ấy hóa ra uy-linh cao-quí. Nhân thể bọn văn-nhân xưa có cách phê-bình rất hàm-hồ, vô-lý: chỉ nghe giọng văn, họ tự phụ đoán biết tương-lai số-mệnh người làm ra văn.

Người ta đã biết Cao bá Quát bị chém chết. Thế là những việc-ông ta làm khi còn học-trò, hay khi đã làm quan ở Triều-đình Huế, nhất nhất đều bị họ dấn cho cái khẩu-khí làm giặc. Sau khi ông và Cao bá Đạt chia nhau đỗ đầu và thứ nhì khoa thi Hương năm 1831, vua Minh-mệnh có ra một câu đối: « Nhất bào song sinh, nan vi huynh nan vi đệ ».

Ông Quát ứng khẩu đối: « Thiên tài nhất ngộ, hữu thị quân hữu thị thần ».

« Các quan trong triều đều bằng vào cái khẩu-khí ở trên mà đoán trước rằng sau này ông sẽ là một tay đáo để ». Hay ít ra, ông Nguyễn tường Phượng khảo-cứu thấy vậy, rồi diễn-thuyết ở Hà-nội, ông nói lại như vậy 10. Phần tôi trong vế đối ấy, tôi không thấy chỗ nào là có khẩu-khí tỏ ra « một tay đáo để » cả. Trái lại, tôi tưởng rằng đó là một lời nịnh rất khôn-khéo, rất thần tình, rất « mẫn tiệp », tỏ ý muốn làm đẹp lòng vua, khác nào những câu nịnh hót của những cận-thần triều vua Louis XIV. Bằng-chứng ở chỗ ông Quát sửa câu đối ở điện Thái-hòa:

« Thần khả báo quân ân,

Tử năng thừa phụ nghiệp ».

Mà ông đổi làm:

« Quân ân thần khả báo,

Phụ nghiệp tử năng thừa ».

Thì ông rõ là một người hết sức giữ-gìn thượng-hạ tôn-ti, yêu trật-tự, kính-trọng lề cũ lối xưa, nhất-thiết trung-thành với chính-thể quân-chủ, đây là khẩu-khí của một kẻ phản-nghịch Triều-đình?

Cập-kỳ ông dấy loạn bị bắt, nhốt trong cũi, ông có ngâm hai câu:

« Một tấm ván lim ngồi thế Đế,

Hai vòng xiềng sắt đứng thời Vương ».

Hai câu ấy, tôi đố ai dám khen là có khẩu-khí đế-vương, tuy ai cũng đã thấy rõ-ràng những « Đế » cùng « Vương » cả đấy? Vì sao? Là vì ai cũng biết rằng chỉ mấy phút sau là ông ta đã bị « một lát gươm đưa bỏ mẹ đời ».

Lại như hai câu người ta bảo của Lý công Uẩn đã ứng khẩu, khi còn nhỏ, bị thầy học trói co chưn suốt đêm, để phạt tội lười:

« Dạ thâm bất cảm tràng thân túc,

Chỉ khủng sơn-hà xã-tắc điên! »

(Đêm khuya không dám dan chưn duỗi,

Chỉ sợ sơn-hà xã-lắc xiêu!)

Ở đây, người ta lại quả quyết là giọng văn có khí-tượng đế-vương! Kể cũng không lạ, vì người ta biết nhà Lý đã lên ngôi Nam-đế. Nếu Lý công Uẩn chỉ là một anh sãi nối nghiệp thầy Vạn Hạnh, hẳn không ai đếm-xỉa đến làm chi, hoặc không bao giờ có câu ấy nữa. Nhưng ở chỗ này ta không cần biết câu chuyện khẩu-khí ấy thực hay hư. Ta chỉ hỏi: gọi khẩu-khí là khẩu-khí ở chỗ nào? Sơn-hà xã-tắc là cái gì ở đấy mà sợ duỗi chưn đổ xiêu đi? Ở trong một phòng học, bất quá chiếc ghế, bộ ngựa, cái yên, mấy chồng sách là cùng. Hoặc nữa, nói cho hết lý, giả-sử trò Uẩn lười kia bị buộc gần một non-bộ, có đủ núi, đủ sông, nhưng những vật ấy sao dám gọi là xã-tắc?

Nếu cứ thế mà gọi là khẩu-khí, thì anh hay tôi đều có thể nói nghìn vạn cái khẩu-khí hơn.

Trên kia là chuyện khẩu-khí đế-vương. Bây giờ lại có thứ khẩu-khí khiêm-tốn thực-thà hơn: người làm thơ chỉ mong giật lấy cái bằng Hương-cống (cử-nhân) cỏn-con, làm một viên quan nho-nhỏ, rồi dần dần, nhờ thời-gian, nhờ vận đỏ, lên đến chức trọng quyền cao. Vịnh bài thơ « MÈO BẮT CHUỘT » anh ta nói:

« Chí quyết phen này vồ lấy cống,

Rồi lên đài-các sẽ nghêu-ngao! »

Nhưng chín mươi phần trăm bài thơ khẩu-khí đều thổ-lộ ra giọng một bậc trung-thần, suốt đời chỉ mong đem tài thao-lược báo đền ơn vua nợ nước, và một con chó đá, thi-nhân cũng cố sao cho ra khí-tượng một ông quan dốc lòng thờ chúa! Ta xem đây:

« Quyền trọng ơn trên trấn cõi ngoài,

Cửa nghiêm chềm-chễm một mình ngồi.

Quản bao sương-tuyết chi nào kể,

Khéo giữ cao-lương cũng chẳng nài.

Mặc khách thị-phi dương tráo mắt,

Những lời trần-tục biếng vào tai.

Một lòng thờ chúa nghìn cân nặng,

Bền-vững ai lay cũng chẳng rời ».

Các bạn có biết vì sao mà như vậy không? Những bài thơ ấy đích là của mấy anh đồ kiết-xác, riêng mình đã không có tư-tưởng tự-do, cao-thượng, lại sống vào một thời-đại quân-chủ chuyên-chế, phi cách xu-nịnh chính-phủ đương thời, thì khó mong chen chưn vào trường danh-lợi. Mà cái nguyện-vọng duy-nhất của kẻ nho-sĩ là làm một ông quan. Cho nên, trước khi làm được, họ đua nhau làm thơ khẩu-khí, để có dịp trải mật phơi gan cho người ta biết, để rao to cả bốn phương trời là mình một lòng trung-thành, bình sinh quyết chí giúp nước phò vua.

Sự nịnh-hót vô cớ ấy đã thành một cái lệ, một cái phong-tục. Trong khoa-cử, như về món văn-sách chẳng hạn, bất luận đầu đề ra thế nào, cho dẫu trước muốn nói trời đất gì gì, văn bài của học-trò sau hết phải kết-luận bằng những lời khen-ngợi những triều vua hiện tại, mà bao giờ cũng phải cho là thịnh-trị thái-bình. Cũng như các vè, các truyện, đoạn đầu phải để dành cho việc tán-tụng nhà vua.

Tôi lại nhớ đến lối hát tuồng cổ của ta, trong ấy các tài-tử, mỗi khi ở giữa sân-khấu, hát đến chữ gì hình-dáng về vua chúa, thì phải chấp hai tay đưa lên ngang mày, tỏ ý sùng-thượng, kinh-cẩn, thậm chí nói đến những chữ Hoàng-gia, Trào-ca, Nhà vàng, Bệ-ngọc, v.v… họ đều phải chấp tay đưa lên cả.

Nay hãy nhắc lại mấy nhà thi-sĩ có tiếng xưa kia: như Lê Thánh-tông chẳng hạn. Ông này đã nổi tiếng thơ hay vì những khí-tượng đế-vương đài-các. Nhưng tiếng ấy, tôi tưởng là lạm-hưởng mà thôi, vì các cách khẩu-khí như trên đã giải, đã là những điều cần phải vứt bỏ đi, thì còn gì trong thi-văn Hồng-đức nữa?

Ta thử lấy vài câu trong bài vịnh « BỒ NHÌN ». Sau khi mở đầu bằng một giọng diệu vũ dương uy, một câu xướng của anh tướng phiên hay kép núi trong tuồng cổ:

« Quyền trọng ra uy, trấn cõi bờ!

Vốn lòng vì nước, há vì rưa?… »

Tác-giả tả hình-dung, nói rõ tài tiễu-trừ muông chim, tính khinh-thị người, gọi chẳng thèm thưa (gọi mà thưa được, họa chăng có tác-giả đội nón mang tơi, thân hành ra đứng làm con bồ-nhìn) rồi tác-giả kết-luận một cách vô ý-thức:

« Mặc ai nhảy-nhót đường danh-lợi,

Ơn nước đầm-đìa hạt móc-mưa ».

Thật là sáo! Sáo đặt! Tôi sẽ nói ra thế nào ở mục sau.

Còn như tả một thằng ăn-mày mà làm nó thành ra một nhà triệu-phú, ngao-du khắp thiên-hạ để thưởng-ngoạn phong-cảnh ; ra một người, mà về cảnh-ngộ, ai nghe cũng chỉ mong được đến như thế là cùng, thì còn chân-lý ở đâu, nhân-đạo ở đâu nữa? Lê Thánh-tông há lại ác-nghiệt tàn-bạo đến thế ư? Tôi không quá lời. Ta xem đây:

« Chẳng phải ăn đong, chẳng phải vay.

Lộc trời để lại được ăn-mày,

Hạt châu chúa cất trao ngang miệng.

Bệ ngọc tôi từng đứng chấp tay,

Nam bắc đông tây đều đến cửa,

Trẻ già trai gái cũng kiêng thầy.

Đến đâu sẵn có lâu-đài đấy!

Thu cả càn-khôn một túi đầy! »

Phong-lưu tài đởm như vậy thì không hiểu cái anh dân nước Tề trong sách Mạnh-tử kia điên gì lại không chịu nói thật quách với hai chị vợ rằng mình được làm đến ăn-mày, chẳng oai hơn là cứ hằng-ngày xách bị đi xin, tối về nói dối là đi thăm ông Công nọ, ăn-ở nhà ông Khanh kia cho hèn chức-phận mình đi?

Nếu ta đem bài thơ ấy đọc cho bọn ăn-mày nghe, phỏng như hiểu được, họ không khỏi mắng cho. Họ sẽ gân cổ bảo:

« Nói bậy! Này các ông xem: da bọc xương, suốt đời không ăn được một bữa no, trời rét lạnh đứt ruột, nằm ở đầu cầu xó chợ, không chiếu, không chăn, không áo! Nam, bắc, đông, tây phải đi mòn chưn mỏi gối, chỉ để xin lấy miếng cháo thừa, mảnh giẻ rách. Trẻ già trai gái có kiêng, chỉ vì họ gớm, họ rẫy-ruồng, họ coi chúng tôi như những tên phong, tên hủi ; họ sợ thối, sợ tanh. Hay là họ sợ trộm mất của của họ đi. Các ông giàu-sang ở trong cửa kín lầu cao, đã hết thức chơi đâu mà đem chúng tôi ra nhạo-báng, làm trò cười? Vô nhân-đạo! Vô lương-tâm! »

Nếu trong cả nước, ai nấy đều bỏ địa-vị mình để giành cho kỳ được cái địa-vị sang-trọng, đáng ganh như địa-vị người ăn-mày mà Lê Thánh-Tông đã tả, thì không biết là ông sẽ là ông vua gì trong cái giang-sơn hiển-hách của vị anh-hùng đất Lam-sơn đã để lại cho?

Nói tóm lại, lối văn khẩu-khí là một lối văn giả-dối, và người làm ra nó đã lợi-dụng một đời ngu-độn, khờ-khạo, dễ lường-gạt, để loè bằng những cái trá-ngụy, để người ta phải kiêng-nể mình, kính-trọng mình khi nghĩ đến địa-vị, đến cảnh-ngộ bông-lông bịa-đặt sau này của mình! Lối văn khẩu-khí che-lấp sự thực, bôi lọ chân-lý một cách xấc-xược, tàn-bạo, cẩu-hạnh.

Trần tế Xương, một nhà thi-sĩ tự-do, mà cũng rơi vào cái tệ ấy. Tiếc thay!