← Quay lại trang sách

XII. NHỮNG VẾT BẨN TRÊN BỨC TƠ

TÚ XƯƠNG, một kẻ hàn-nho, suốt đời đau-khổ, có khi cũng lấy giọng đài-các, khẩu-khí. Cái ấy không hay gì cả, nhất là không hay cho danh-tiếng, cho vinh-dự ông. Trong bài « GỬI CHO BẠN Ở TÙ », ông đã rơi vào lối tầm-thường, ông đã bắt-chước người ta nói khoác, ông làm mất cái chân-tướng của ông, chân-tướng tự-do, cường-trực:

« Cái cách phong-lưu lọ phải cầu,

Bỗng đâu gặp những bạn đâu đâu?

Một ngày hai bữa cơm kề cửa,

Nửa bước ra đi lính phải hầu.

Trong tỉnh mấy tòa quan biết mặt,

Ban công ba chữ gác ngang đầu.

Nhà vuông thong-thả nằm chơi mát,

Vùng-vẫy tha hồ thế cũng âu ».

Tôi muốn ép-uổng tự bảo rằng bài ấy chẳng qua để diễu một người bạn, và Tú Xương xưa nay vẫn có tính khôi-hài, ông muốn bông-đùa với bạn, mong giải khuây nỗi buồn người tù trong khám, thì bài ấy, nếu chẳng có ích, cũng không đến nỗi hại.

Nhưng không! Chúng ta không nên tha thứ những cái sáo đặc, những điều nhỏ-nhen, đê-hèn, tiểu-nhân, nhất là khi nó sản-xuất do một kẻ nổi tiếng trượng-phu ngang tàng.

Thì còn chán gì bằng nghe những ý-tưởng trong hai câu:

« Một ngày hai bữa cơm kề cửa,

Nửa bước đi ra lính phải hầu… »

nó chứa rặt những ý-tưởng trưởng-giả, lười-biếng, ty-tiện, nguyện-vọng bình sinh của người hèn-nhát

Lại như: « Trong tỉnh mấy tòa quan biết mặt… »

Thì có vinh-quang gì sự quan trên biết mặt! Cái tâm-địa ấy, ta phải đánh đổ đến kỳ cùng.

Còn dùng mấy chữ: « Ban công ba chữ (!) gác ngang đầu » để chỉ cái gông mang ở cổ, thì thật là vô nghĩa-lý…

Tôi rất phiền lòng mà thấy những vết nhơ-bẩn ấy trong sự-nghiệp hiển-hách của Trần tế Xương! Trong lịch-sử văn-học, ta không cần có những hai Lê Thánh-tông, những thi-văn khẩu-khí như tập Hồng-đức, nó đương nhiên đã bày ra một thể văn ngộ-nghĩnh, đặc-biệt cho văn-giới nước nhà, không có nước nào có nữa. Nhưng chừng ấy vừa đủ, đã đủ lắm.

Như trên kia đã nói, hễ một người làm mất bản-tướng mà rơi vào chỗ vi-tiện thường tình thiên-hạ, tức là người ấy làm mất luôn cái chân giá-trị của mình, vì bao giờ cũng vậy, cái hay, cái quí chỉ vì hiếm, vì khác tất cả mọi vật, mới là hay, là quí.

Vịnh bài thơ « TÁT NƯỚC », Trần tế Xương đã đè dẹp cái chân-tướng ngang tàng của ông mà dùng một điệu văn ngàn vạn anh đồ hủ đều dùng. Thoạt mới vào đã là mấy câu sáo:

« Giấc mộng Nam-kha khéo chập-chờn,

Giữa trời riêng một cảnh giang-sơn.

Cỏ cây vui mắt nằm yên ngủ,

Sấm sét bên tai dạ chẳng chồn ».

Tả những cảnh không nhất-định, trong những thời-kỳ không nhất-định, đương ở một cảnh yên-vui, mà phóc ngay qua chuyện giông-tố, sấm-sét, để nhảy về một chỗ mát-mẻ êm-đềm:

« Chênh-chếch đèn trăng soi trước bóng,

Hiu-hiu quạt gió phẩy bên sườn ».

rõ là cách đóng tiếng ghép vần cho đủ âm-điệu, không kể gì đến ý-nghĩa, đến luận-lý. Hai câu sau này mới thật là sáo đặc:

« Bởi vì NỖI NƯỚC nên ra sức,

Bao quản phong-trần mảnh áo đơn ».

Cả bài, trừ câu thứ bảy ra không nói gì đến việc tát nước, và đều thích-hợp cho tất cả các việc làm đêm ngoài đồng-nội như chăn trâu, soi ếch, canh dưa, chơm cá, v.v…

Cái khéo vặt trong bài này, là ở nơi chữ NƯỚC dùng hai nghĩa, nghĩa bóng và nghĩa đen: cũng là khẩu-khí đấy!

Trên kia chúng ta đã thấy câu của Lê Thánh-tông, trong bài « BỒ NHÌN »: « Ơn NƯỚC đầm đìa hạt móc mưa ».

Nếu dư công tìm-tòi, ta sẽ thấy hàng vạn câu dùng chữ NƯỚC một cách điếm-đàng như thế:

« Một trận ra oai trong NƯỚC lặng! »

(cũng tương-truyền của Lê Thánh-tông, CÁI ĐIẾU)

« Ai biết trời đem lộc NƯỚC cho ».

(Nguyễn công Trứ, ĐI ĐƯỜNG GẶP MƯA)

« Lòng này chung một NƯỚC mà thôi ».

(Nguyễn công Trứ, VỊNH CÁI ĐIẾU)

« Thế vững tam sơn chăm việc NƯỚC ».

(Yên Đổ, VỊNH HỎA LÒ ĐUN NƯỚC)

« Bóp lòng mà chịu hai dòng NƯỚC ».

(Tương an Vương, ĐI THUYỀN)

« Ngồi trên NƯỚC không ngăn được NƯỚC ».

(Tương-truyền của vua Duy-tân, CHƠI ĐÒ)

« Biết đâu nghiện NƯỚC vậy mà say ».

(Phan sào Nam, SAY NƯỚC)

« Khốn nỗi chết mầy thì chết NƯỚC,

Nặng lòng thương NƯỚC phải thương mầy ».

(Phan sào Nam, THAN VỚI CON GÁNH NƯỚC)

« Yêu NƯỚC nên ta nhớ NƯỚC hoài ».

(Lữ Đông, NGHIỆN NƯỚC TRÀ)

« Tha hồ giông-tố liều theo NƯỚC ».

(Thế Nhu, CÁI THUYỀN)

Lại còn câu chuyện đãi tiệc của ông Ích Khiêm ai lại không nhớ. Hồi ấy quốc-sự rối tung, biến ở trong, loạn ở ngoài, người chí-sĩ nhìn thời-cuộc phải căm-giận đau phiền. Một hôm nọ, ông Ích Khiêm làm tiệc đãi cả bá quan văn võ. Đồ ăn rất mặn. Tiệc xong, ai nấy đều gọi nước uống. Nhưng đợi mãi cũng không có. Thì ra ông Khiêm đã ra lệnh cấm dọn nước, để ông có cớ mắng người nhà:

« Chúng bây là đồ vô-lại! Lo mặc cho sướng, lo ăn cho no, chớ không tưởng gì đến Nước! Chém tất cả những quân vô dụng ấy cho ta! »

Chúng ta vừa thấy mỗi một chữ NƯỚC mà người ta dùng tràn-đìa như vậy, thi phỏng cách dùng còn giá-trị gì? Bài thơ « TÁT NƯỚC » thật không xứng đáng chút nào với thiên-tài lộng-lẫy của nhà thi-sĩ Vị-xuyên.