← Quay lại trang sách

XIII. MỘT CÁI ÁN NẶNG CHƯA TỪNG CÓ TRONG CÁC HÌNH-LUẬT

TÔI không nhớ đọc ở sách nào, hay nghe một người nào kể lại cái câu chuyện hình-phạt dưới Âm-ty, câu chuyện tuy khôi-hài, huyền-hoặc nhưng cũng đủ mô-tả một cái thực-trạng một cách xác-đáng rõ-ràng. Câu chuyện ấy như thế này:

Anh chàng nọ lúc sinh thời phạm nhiều tội ác. Sau khi chết, phải ra đối-nại trước tòa-án Diêm-vương. Tập hồ-sơ nặng-nề, trầm-trọng lắm. Cưa xương, róc thịt, nung lò lửa, thả vạc dầu, cho đến tất cả các thứ gia-hình ghê-gớm nhất mà ta có thể tượng-tượng, thảy còn nhẹ đối với những tội ác anh ta đã gây nên. Bắt anh ta phải chết lại một lần nữa, chẳng hóa ra làm cho anh ta sung-sướng đi mất!

Các ông mặt sắt đương còn bới óc suy-nghĩ, thì có một ông đứng dậy tâu rằng: « Hạ-thần có cách này mới xứng-đáng tội-trạng của bị cáo-nhân: là cho hắn sống lại ».

Mọi người đều kinh-ngạc. Ông ta cứ điềm-nhiên, thủng-thỉnh: « …Cho lấy người vợ thật sây con… »

Lại nghe tiếng ừ-è hai bên mình tỏ ý bất phục. Ông ấy nói tiếp: « …và cho thi đỗ Tú-tài ».

Đến đây thì cả cử-tọa, từ quan Chành-án là vua Diêm-vương, cho đến tên lính hầu là thằng Quỉ-sứ đều cười rộ lên để nhạo-báng ông quan đã tuyên cái án kỳ-quặc ấy. Ông ta phải giảng rằng trên nước Việt-nam, đỗ tú-tài vẫn chưa được bổ-dụng, mà danh-vọng một ông Tú đủ bắt ông ta không được làm một việc lao-động cỏn-con nào ; thêm nỗi đông con thì tất cả nhà phải ôm nhau nhịn đói. Lúc bấy giờ ai nấy mới hiểu rõ, đâm ra cười rũ-rượi, lần này hẳn cái cười vui-sướng tán đồng.

Trần tế Xương cũng là một ông Tú-tài thất-nghiệp, cũng phải cái nạn đông con, suốt đời chỉ lao-đao lận-đận, đau-khổ như đang chịu cái hình-án vừa kể ở trên. Và tôi chắc rằng các bạn cũng như tôi, hễ đã biết qua đời ông Vị-xuyên, hẳn đều có cái hội-ý bất kính ấy.

Là một nhà nho-sĩ, lấy bình-thường mà nói, cái hy-vọng tối-cao, cái hy-vọng duy-nhất là sự thi đỗ làm quan. Thế mà ông Tú Xương, trong hơn hai mươi năm trời, luôn tám khoa, đều hỏng cả, họa chăng chỉ được một cái bằng Tú-tài nho-nhỏ, nó càng hại ông, ngăn-trở ông trong việc sinh-nhai lao-động.

Hẳn có người cho thế là hèn-nhát, trách ông đã mang tấm thân tu-mi nam-tử, chẳng nuôi vợ con thì chớ, lại còn làm con ký-sinh-trùng, ăn-chơi phá-hoại. Tôi tưởng lời quở-trách ấy khi quá đáng, và có oan cho kẻ lưu-lạc giang-hồ.

Sinh ra trong một xã-hội mà bao nhiêu công-việc lao-động đều về phần-đàn-bà và bọn đàn-ông ngu lỗ, trong một thời-đại mà người ta rất trọng, chỉ trọng một cái nho-học, ai đã lỡ làm nho-sinh, tức là đã nhận ngầm cái địa-vị « ăn lại nằm » ; không được kiếm tiền bằng các dùng quản bút và học-lực của mình.

Sự ở nể, thành-thử đã thành một cái vinh-dự. Ai ra làm việc lao-động, tức là đã nhận lấy tiếng đê-nhục về mình, đã chịu đón rước những sự khinh-dể vì ngu-xuẩn, vì dốt-nát, vì u-mê. Con nhà nho không được nắm cái cày, cái cuốc. Dư-luận đối với họ rất là cay-nghiệt, nghiêm-khắc. Trong lúc địa-vị quan và dân phân-biệt nhau như trời với vực, dư-luận không chịu để cho một người hôm qua còn đẩy con trâu ngoài đồng ruộng, mà hôm nay lên cầm cân pháp-luật, làm chúa-tể cho hàng nghìn, vạn, ức người. Cái thời-kỳ Y Doãn, Điền Đang đã xa lắc, xa lơ, tịt mù trong lịch-sử.

Ra giữ một địa-vị danh-vọng, phải là một người đã sẵn có danh-vọng.

Cái tình-thế ấy đã bắt-buộc bọn văn-nhân phải mặc áo lụng-thụng, để búi tóc, cho móng tay ra dài cuốn đuôi heo. Thậm chí có kẻ không biết làm gì, phải tự trồng lên da giống bệnh ghẻ, để gãi cho qua, ngày tháng. Các bạn cười, vì các bạn không đồng sống một thời-kỳ với họ. Họ đã dành cái bệnh mà chúng ta cho là ghê-tởm ấy, làm vật sở-hữu, quí-báu, tốt-đẹp của mình.

Cho nên dù ông Tú Xương có liều chịu chưn bùn tay lấm mà làm-ăn, trước dư-luận bao giờ cũng chực sẵn để mỉa-mai, dày-vò, vùi-lấp những người khốn-nạn ; ông cũng chẳng có gan nào. Dẫu cho ông có phát cáu tự bảo:

« Hán-tự chẳng biết Hán,

Tây-tự chẳng biết Tây

Quốc-ngữ cũng mù-tịt,

Thôi thôi về đi cày!… »

Chẳng qua là trong lúc bực chí mà nói vậy thôi, chớ biết khổ, nhà thi-sĩ cũng đành bó tay chịu khổ.

Cảnh-ngộ này cũng giống như cảnh-ngộ của nhiều nhà quí-phái nước Pháp về thế-kỷ thứ XVII, XVIII. Ôm những bức tường đổ nát của cái lâu-đài thiên-cổ mà cha ông để lại từ mấy mươi đời và một cái danh nhà to-tát lẫy-lừng, những người khốn-nạn ấy đành nhịn đói, chờ chết, chớ không thể ra dành với đám thường dân những công-việc bằng tay!