XIV. NHỮNG ĐOẠN CUỐI CỦA ĐỜI MỘT THI-SĨ
ÔM một chức tú-tài vô-dụng, một cái hư-danh nó vùi-lấp nhà thi sĩ vào cảnh khốn-đốn như chúng ta vừa thấy, ông Tú Xương chỉ mới chịu có nửa phần trong cái hình-án cay-nghiệt kia! Ông còn phải đau-khổ nữa.
Thì bà Tú, trong khoảng mười mấy năm trời, hết sinh đứa này, lại có thai đứa khác. Mỗi lần ở cữ thì công-việc buôn-bán lại phải bỏ dở. Rồi để cho bà được chạy ngược chạy xuôi, ông Tú phải chăm-nom đến cả bầy con dại.
Gia-chi-dĩ còn một chiếc nhà tranh nho-nhỏ, vài ba thước vườn hoang, bởi vì quá tin một người bạn, ông Tú Xương đứng bảo-lĩnh một món nợ mà người kia không thể trả được, hay là không muốn trả, vườn nhà ông bị chủ nợ tịch-biên:
« Văn-chương ngoại hạn quan không chấm,
Nhà cửa giao canh nợ phải bồi.
Tin bạn hóa ra người thất thố,
Vì ai nên nỗi chịu lầm vôi! »
Than ôi! Còn đâu là những khi ngất ngưởng ở Hàng Thao, Phố Mới, ở những tửu-điểm cao-lâu? Thời-gian có đi, nhưng cảnh gia-đình của thi-sĩ càng ngày càng bối rối, thê-thảm. Vào khoảng năm 1900, ta không còn thấy cái anh chàng xinh trai vui-vẻ hay rong chơi, hào-phóng ngông-cuồng như lối xưa nữa! Tuy thi-sĩ chỉ vào độ ba mươi, nhưng những vết phong-trần đã in lên trán thông-minh mẫn-tiệp kia nhiều đường nhăn, làm mất cả vẻ vô tư bướng-bỉnh của tuổi thanh-niên. Những bài thơ sau này là những tiếng than-thở thiết-tha, đau-đớn của một kẻ lỡ thời, bây giờ chỉ cầu lấy một cuộc đời tầm-thường, hẩm-hút, có đủ miếng ăn nuôi nhau, chứ đâu dám ước-mong những địa-vị phong-lưu sang-trọng?
« Biết thân thưở trước đi làm quách,
Chẳng ký, không thông, cũng cậu bồi! »
Nói là than-thở, nghĩa là ta hiểu thế, ta nghe giọng văn, ta cảm thấy như thế, chớ những tiếng than-thở ấy không phải thi-sĩ nói ra để cầu cho ai thương-hại đến mình. Đại-trượng-phu không khinh-dể gì bằng sự mình phải làm cái vật để người ta thương-hại. Nhưng đã là một văn-hào, có thiên-chức biểu-diễn những tư-tưởng của tâm-hồn, làm tay nhạc-sĩ gắn lên giây Ly-tao những âm-điệu réo-rắt trong cõi lòng của mỗi vật có tri-giác vẫn có ; hễ đã có một mối cảm-khái xúc-động tâm-can, tức là phải thổ-lộ ra ngoài, đó là một sự cần. Như thế ta phải thấy rõ rằng những câu văn thống-thiết cảm-động kia không phải là những lời kêu gào đê-tiện của một kẻ van-lơn người ta đến cứu giúp mình.
Trong những lúc quẫn-bách, về lối sau này, nó cứ đeo-đuổi hoài con nhà thi-sĩ cho đến ngày lâm-chung, ông Tú Xương tịnh không lên tiếng oán trời, trách người, vẫn nhìn cảnh-ngộ bằng một con mắt thản-nhiên, điểm-tĩnh, nhẫn-nại, như một khắc-kỷ triết-gia. Hoạ chăng, người ngoài cuộc có biết được đôi ba điều, những điều ông chịu để cho biết, những điều ấy, ông nói ra bằng những giọng trào-phúng, khôi-hài, như để nhạo-báng hay để che lấp vẻ thảm-thiết ảo-não của tâm-hồn đau-đớn. Những câu thơ sau này chỉ muốn cho ta, cùng ông, nhếch một nụ cười gằn. Nhưng than ôi! cho dẫu chưa được là tri-kỷ của thi-nhân, chúng ta cũng không đến nỗi không thấu rõ cái chỗ khổ-tâm chan-chứa ấy. Lắm lúc đêm đông, canh tàn gió lạnh, những cơn « chớp bể mưa nguồn », những khi mình cảm thấy mình như hiu-quạnh, bị lừa bỏ trên cõi đất này, mà âm-thầm ngâm một vài câu trong bài « THAN NGHÈO » hay « ĐAU MẮT », tấm lòng ta chỉ thấy xót-xa rầu rầu và giọt lệ cảm-tình như sắp tràn lên hai mí!
« Cái khó theo nhau mãi thế thôi,
Có ai hay chỉ một mình tôi.
Bạc đâu ra miệng mà mong được,
Tiền chửa vào tay đã hết rồi.
Van nợ lắm khi tràn nước mắt,
Chạy ăn từ bữa toát mồ-hôi!
Biết thân thủa trước đi làm quách,
Chẳng ký, không thông, cũng cậu bồi ».
Ai đã từng chủ-trương gia-đình ; ai đã đi mưa về gió, làm-lụng để kiếm cho đàn con-cái miếng ăn không thể bỏ qua ; ai đã từng mắc phải cái nạn vay lãi « một vốn bốn lời » đến kỳ ước-hẹn, tiền không có mà chủ nợ cứ đòi, van đứt cuống cổ, lạy gãy đầu gối, mà chúng chẳng mủi lòng ; những người ấy hẳn thấy cái hay của mấy câu thơ giản-dị, tầm-thường này:
« Van nợ lắm khi tràn nước mắt,
Chạy ăn từ bữa toát mồ-hôi! »
Thật là những câu thơ ngâm lên thấy « tràn nước mắt » ra được.
Nhà cửa cầm ; vườn đất bán ; thi mỗi khoa mỗi hỏng ; vợ mỗi năm mỗi đẻ ; bây giờ nếu có phải lưu-lạc giang-hồ, chỉ vì để kiếm kế tha phương cầu thực mà thôi, chớ không phải để ăn-chơi phá-tán như ngày xưa nữa ; cái đoạn đời-sau cùng của một nhà văn-hào nước Việt-nam thật đã chua-cay!
« Bố ở một nơi con một nơi,
Bấm tay tháng nữa hết năm rồi.
Văn-chương ngoại hạn quan không chấm,
Nhà cửa giao canh nợ phải bồi. 11
Tin bạn hóa ra người thất thố,
Vì ai nên nỗi chịu lầm vôi!
Ba-mươi-mốt tuổi đà bao chốc,
Lặn suối trèo non đã mấy hồi! »
Bây giờ hình như mỗi năm là ông làm một bài thơ tự thán, để đánh dấu trong quãng đời tân-khổ. Bài trên này là ông làm về tiết lập đông năm tân-sửu (1901).
Năm quí-mão (1903) ông lại có bài:
« Ta chửa trang xong cái nợ ta,
Lẽ đâu chịu nợ mãi ru mà?
Đường con bu nó một năm một,
Tính tuổi nhà thầy ba lẻ ba,
Mở mặt quyết cho vua-chúa biết,
Mua danh kẻo nữa mẹ-cha già,
Khoa này ta học khoa sau đỗ,
Chẳng những Lương Đường mới thủ-khoa ».
Cách vài năm sau, lại có bài:
« Kể đã ba mươi mấy tuổi rồi,
Tôi ngồi tôi nghĩ cái thằng tôi.
Mấy khoa hương-thí không đâu cả,
Ba luống vườn hoang bán sạch rồi,
Gạo cứ lệ ăn, đong bữa một,
Vợ quen dạ đẻ, cách năm đôi.
Bắc thang lên hỏi ông trời nhẻ
Trêu-ghẹo người ta thế nữa thôi! » 12
Thức ăn của nhà thi-sĩ thì rặt những:
« Cơm hai bữa cá kho rau muống ;
Quà một chiều khoai lang lúa ngô ».
Còn cách mặc thì ba mùa tám kiếp vẫn một tấm áo « lạnh làm mền, nực làm gối » mà thôi:
« Bức sốt nhưng mình vẫn áo bông,
Tưởng rằng ốm nặng hóa ra không.
Một tuồng rách rưới con như bố.
Ba chữ nghêu-ngao vợ chán chồng.
Đất biết bao giờ xoay vận đỏ,
Trời làm cho bỏ lúc chơi ngông.
Tìm chùa tìm cảnh ta tu quách!
Cửa Phật quanh năm vẫn áo sồng ».
Nói đến gia-đình thì:
« Người bảo ông cùng mãi
Ông cùng chỉ thế thôi ;
Vợ lăm-le ở vú,
Con tấp-tểnh đi bồi,
Khách hỏi nhà ông đến?
Nhà ông đã bán rồi! »
Thế đấy! Cái nghèo ấy là cái nghèo đặc, nghèo không còn chỗ mà nói bóng-gió, nói « khẩu-khí » nữa. Nó không như cái nghèo của ông Nguyễn công Trứ than-thở kêu-rên đủ điều, rốt cục tính lại hóa ra còn có cả rượu uống, có cả bài chơi, mùa-màng còn để dành, thậm chí còn cả lợn nuôi trong máng. 13