← Quay lại trang sách

XV. CÁI CHẾT CỦA TÚ XƯƠNG

NĂM bính-ngọ, Thành-thái thứ 18 (1906) ông Trần tế Xương hỏng khoa thi chót. Mấy năm trước, người ta đã bảo ông đổi tên đi, để thử thời-vận, như người thua bạc đổi chỗ ngồi. Tuy về việc thi-cử, tài học của mình vẫn có kể, nhưng cái ngẫu-nhiên, cái đen đỏ vẫn chiếm một phần quan-trọng ở trong. Cũng không nghe hẳn, nhưng cũng không bỏ hẳn, ông đổi chữ « Tế » lót ở giữa tên ra chữ « Cao ».

Nhưng mà vận xui lại hoàn xui, khi còn Tế Xương đã hỏng, khi thành Cao Xương cũng hỏng nốt. Những bài thơ dưới đây thật là những tiếng gọi não-nùng thảm-thiết của một người tuyệt vô hy-vọng, đành chịu để cho chút năng-lực cuối cùng tản-mác bay. Thế thì rồi cái Chết phải đến, cái Chết nó đã chực sẵn đâu đấy, vội-vàng lôi cuốn tấm thân tàn!…

« Trách mình phận hẩm lại duyên ôi!

Đỗ suốt hai trường hỏng một tôi.

« Tế » đổi làm « Cao » nên sự thế

« Kiện » trông ra « Tiệp » hỡi trời ôi!

Mong gì nhà nước còn thi nữa,

Biết rõ anh em chẳng chắc rồi.

Ví phỏng còn thi còn học mãi,

Hao cơm tốn vải, hại mà thôi! »

Sự thi hỏng đối với ông Tú như là cái việc đã định rồi, nó không còn làm lạ ông nữa, mà hình như ông đã biết chắc-chắn trước. Cho nên khi bảng chưa yết, ông đã dặn vợ dặn con rồi ; ông dặn rằng:

« Ngày mai tớ hỏng tớ đi ngay,

Cúng giỗ từ đây nhớ lấy ngày.

Học đã sôi cơm nhưng chửa chín,

Thi không ngậm ớt thế mà cay,

Sách đèn phó mặc đàn con trẻ,

Thưng đấu nhờ tay một mẹ mầy.

« Cống hỉ », « mét xì » thông mọi tiếng,

Chẳng sang Tàu, tớ cũng sang Tây! »

Trần tế Xương mất ngày rằm tháng chạp năm bính-ngọ – Thành-thái thứ 18 (29-1-1907) thọ được 37 tuổi.

Ngày ấy, nhà quê ngoại ở làng Đệ-tứ, huyện Mỹ-lộc có giỗ. Trời mưa, tiết lạnh. Ông Tú phải đi bộ từ Nam-định về. Đường xa sức yếu – tuy ông mới 37 tuổi – cái tuổi bình thường hùng-dũng lực-lưỡng trong quãng đời người, nhưng ông thì thật là suy-nhược, vì trăm nghìn nỗi cay-đắng chịu đã bấy chầy, vả lại có lẽ ông mắc phải bệnh đau tim, sinh ra từ buổi chơi-bời lêu-lổng:

« Một chè, một rượu, một đàn-bà,

Ba cái lăng-nhăng nó khuấy ta? »

nên khi đến nơi nhà giỗ, sau những câu chuyện hàn-huyên lấy lệ, trao-đổi với bà-con xa gần cùng họp ở đấy để dự lễ, sau khi uống một vài chén rượu cho ấm bụng, ông xin lên từ-đường, tạm nghỉ lưng trong khi đợi giờ cúng. Ai hay đó là cái điềm những con vật kỳ-linh, biết giờ tận số, lui vào chốn thanh-tịnh, uy-nghiêm, thâm-bí, để chết cho yên, để che con mắt kẻ phàm-trần thấy được cái mầu-nhiệm của linh-hồn khi rời nơi gió-bụi! Lúc người nhà vào gọi dậy, thì Tú Xương đã mất tự bao giờ!

Như thế là xong đời một thi-sĩ Việt-nam!

Bà Tú Xương hẳn có khóc vì mất chồng.

Con ông Tú Xương có đau-đớn vì mất cha.

Bà-con có buồn-rầu vì mất một người thân-thuộc.

Ai nấy chắc có cảm-động vì cái chết bất ngờ.

Nhưng không ai cảm-động buồn-rầu, đau-đớn, không ai khóc vì mất một nhà đại-thi-hào, vì nước Việt-nam thiệt một bậc vĩ-nhân đã tô-bồi cho nền văn-học thêm tinh-hoa, thêm rực-rỡ!

« Ông sinh không ai biết.

Ông chết không ai hay ».

Cái sự-nghiệp văn-chương của ông để lại cho chúng ta, cho nước Việt-nam, là một cái di-sản quí-báu vô ngần. Cái chức-vụ của người dân Việt-nam, đã được hạnh-phúc hưởng lấy, là phải tôn-sùng, phải phụng-sự đấng vĩ-nhân quá vãng đã cho mình cái phần hương-hoa vô giá kia, như kẻ thừa-tự phải tôn-sùng, phụng-sự tổ-tiên vậy.

Thế mà, trên, những người cầm quyền-chính không bao giờ thèm để ý đến những thứ quốc-bảo ấy – cái ấy đã đành – nhưng, dưới, sĩ-thứ cũng tịnh không có chút gì để tỏ lòng kính-mến, khâm-phục, hâm-mộ cái thiên-tài của một người xuất chúng, siêu quần, hoặc để tỏ rằng chúng ta không phải toàn là những kẻ vong ân bội nghĩa! Không, chúng ta không làm gì hết!

Hoặc-giả có người muốn bẻ, chỉ cho tôi cái miếu thờ ở làng Bưởi, và bảo đọc cái linh-vị Thành-hoàng ở trong. Tôi xin đáp rằng: sự cung-hiến đền thờ làng Bưởi cho vong-linh nhà thi-sĩ Trần tế Xương, chẳng qua là một sự ngẫu-nhiên, do một nguyên-nhân huyền-hoặc, vô lý, không quan-hệ gì đến cái chân giá-trị của thi-nhân.

Làng Bưởi gần Hà-nội có xảy ra việc chẳng lành – theo lối nói của bọn dị-đoan ngu-lỗ, người ta gợi là làng ấy động. Tình-cờ thế nào lại có ông tiên-chỉ, ý hẳn cũng có đôi chút duyên văn-tự đối với nhà thi-sĩ Vị-xuyên, mơ mộng làm sao lại thấy ông này hiện hồn về bảo cho biết phải làm nhà thờ ông ta thì làng mới được yên. Bọn hào-mục tin chuyện chiêm-bao ấy, bèn lập đền thờ.

Xem thế, thì chỉ vì một mục-đích ích-kỷ, nhỏ-mọn mà người ta thờ ông, thờ để được bình an vô sự, chớ không phải vì niệm cái công-ơn của ông đối với văn-chương! Phương chi, làm như thế là họ đã hủy-báng ông một cách thậm tệ: họ cho ông cũng đồng một tâm-địa như họ, không đời nào hiểu được chữ xả thân, hy-sinh, họ tưởng có làm lợi cho ông (lập đền thờ) thời đáp lại ơn, ông mới cho yên-ổn!

Than ôi! Nếu ông có linh-thiêng, chắc ông phải hổ-thẹn, mỗi khi trông thấy cái đền thờ mình, và ngậm ngùi cho đồng-bào ông lắm! Nếu ông hẳn có phép thần-thông làm cho làng hết động, tôi chắc rằng ông sẽ dùng ngay phép ấy mà phá-hoại cái biểu-hiệu của sự sùng-bái vị-kỷ, đê-hèn ấy trước đã.

*

Công-việc của nhà phê-bình đến đây đã gần hết. Tôi chỉ mong-ước hai điều:

Thứ nhất, chính-phủ để tâm đến nền văn-học nước nhà, bắt-chước cách khuyến-khích của các nước văn-minh, để riêng một công-quỹ dựng cho các đại-văn-hào đã làm cho nền quốc-văn tốt-đẹp ra, như nhà thi-sĩ Vị-xuyên, những tượng đồng, bia đá, những tấm bằng ghi-nhớ công-ơn. Hoặc là ngân-sách của các tỉnh, các thành-phố đã sản-xuất ra những bậc vĩ-nhân, nên dự-định số tiền dùng về việc ấy.

Thứ hai là trong quốc-dân, những người yêu văn, lập những hội văn-học, lấy việc tôn-sùng các bậc danh-sĩ đã qua đời làm tông-chỉ, rộng thì thờ các ông đã nổi danh trong nước, hẹp thì thờ riêng ông mà mình yêu-chuộng hơn hết (vì tôi có thể yêu-chuộng một ông mà anh không yêu-chuộng) luôn luôn chăm lo truyền-bá văn-chương và tư-tưởng của ông ấy.

Riêng về phần Tú Xương, đã sẵn có đền ở làng Bưởi, nếu ta lấy đó dùng làm cơ-sở cho « hội người yêu-chuộng ông Tú Xương » cho việc thờ-phụng kia – thờ-phụng một cách khác kia, chở không phải thờ vì cái thủ lợn, miếng phao câu và mâm xôi đậu – là cứ hàng năm đến những ngày kỵ-giỗ, hoặc chính ngày làng thường làm lễ tế ông, phải tổ-chức những cuộc diễn-thuyết, nói về thân-thế, về văn-chương, về tư-tưởng của ông, để khuyến-khích lòng yêu văn – cũng là một cách yêu nước ; thờ-phụng các nhà thi-sĩ – chớ không phải là thờ-phụng cái ông thành-hoàng có tài huyền-hoặc làm cho làng khỏi động.

Trong khi đợi những điều nguyện-vọng kia được thành-hiệu, tôi xin trình các bạn tập phê bình này, mà tôi đã trân-trọng kính tặng cho vong-linh nhà thi-sĩ tôi yêu ; một tác-phẩm sơ-sài, hèn-mọn, càng sơ-sài, càng hèn-mọn, khi đem so-sánh với cái văn-nghiệp quí giá của Tú Xương, nhưng đó là một tang-chứng để tỏ tấm lòng biết ơn của một kẻ hậu sinh đối với tiền-bối.