← Quay lại trang sách

- 4 - GIAI THOẠI VỀ TÀI LÀM CÂU ĐỐI TẾT CỦA VUA LÊ THÁNH TÔNG

Lê Thánh Tông là con thứ của vua Lê Thái Tông (1433 -1442), do bà Ngô Thị Ngọc Dao (tức Quang Thục Hoàng thái hậu) sinh hạ vào ngày 20 -7 -1442, được tôn lên ngôi ngày 8 -6 - 1460 và ở ngôi cho đến ngày 30 -1 -1497 thì mất, hường thọ 55 tuổi. Sinh thời, vua Lê Thánh Tông là bậc tài kiêm văn võ, mưu lược trị nước được coi là sáng giá nhất thời Lê. Đời còn truyền tụng rất nhiều giai thoại về tài ứng đối của cây đại bút này. Dưới đây chỉ là vài mẫu nhỏ.

Trong thời gian ở ngôi, vua Lê Thánh Tông vẫn thường đi thăm dân. Khi thì tiền hô hậu ủng, kẻ tuỳ tùng rất đông đúc, nhưng cũng có khi chỉ vài ba người theo hầu, thậm chí, có lúc nhà vua còn bí mật cải trang để ra ngoài hoàng thành, cốt tự minh lắng nghe cho bằng được tiếng nói trung thực nhất của trăm họ.

Giáp tết năm nọ, nhà vua đóng giả một anh học trò, đi lang thang khắp các phố phường Thăng Long để coi câu đối tết của các nhà. Bấy giờ, nhà nhà đều treo câu đối tết, duy chỉ có một gia đình không đến nỗi nghèo nàn, lại ở ngay nơi phố xá đông đúc mà chẳng có lấy câu đối nào. Lân la tới hỏi chuyện mới hay, đó là nhà của bà goá phụ, sống bằng nghề nhuộm quần áo. Nghe tâm sự của bà, nhà vua liền sai lấy giấy bút ra và viết tặng đôi câu đối bằng chữ Hán (phiên âm) như sau:

Thiên hạ thanh hoàng giai ngã thủ

Triều trung chu tử tông ngô gia

Nghĩa là:

Màu vàng, màu xanh khắp thiên hạ đều từ tay mà ra,

Màu đỏ, màu tím trong triều, tất cả đều do nơi nhà ta hết.

Đôi câu đối này vừa treo lên thì Trạng nguyên Lương Thế Vinh có dịp tình cờ đi qua. Thấy khẩu khí của người viết câu đối có vẻ rất khác thường, ý như muốn tranh đoạt ngôi vị, Trạng nguyên Lương Thế Vinh lập tức tấu trình lên nhà vua. Nghe xong, nhà vua cười lớn, nói tác giả chính là mình. Chẳng dè, Trạng nguyên Lương Thế Vinh lại nghĩ, gia đình bà goá phụ làm nghề thợ nhuộm kia chẳng những được nhà vua vào thâm lại còn viết tặng cho đôi câu đối nữa thì hẳn là phúc đức của bà ta lớn lắm vì thế mà về sau, ông mới đem con gái của mình gả cho con trai của bà ta!

Chuyện khác kể rằng, giáp tết một năm nọ, vua Lê Thánh Tông giả một thường dân đi coi cảnh trưng bày ngày tết của các nhà quanh Thăng Long. Đến đâu nhà vua cũng thấy đèn hoa rực rỡ, duy chỉ có một gia đình ở nơi cuối hẻm vắng thì gần như chẳng hề trang trí gì. Thấy lạ, nhà vua bèn vào nhà hỏi rõ nguồn cơn. Thấy có khách lạ, gia chủ đón tiếp rất ân cần. Được hỏi vì sao trong nhà chẳng có câu đối tết nào, gia chủ liền thú thực rằng:

-Chẳng giấu gì bác, nhà tôi sống bằng nghề quá thấp hèn, cho nên, tết nhất gì cũng thế, chúng tôi chẳng dám nhờ ai viết hộ cho đôi câu đối.

Gia chủ bèn lẽn đáp:

-Dạ, đi nhặt phân, kể cả phân người, đem về bán lại cho dân trồng rau.

Nghe xong, nhà vua bèn sai mua giấy bút và viết tặng cho gia đình này một câu đối chữ Hán (phiên âm) như sau:

Ý nhất nhung y, năng đảm thế gian nan sự,

Đề tam xích kiếm, tận thu thiên hạ nhân tâm.

Nghĩa là:

Khoác tấm nhung y vào, có thể đảm đương việc khó của thế gian,

Cầm ba thước kiếm, thu hết lòng dạ thiên hạ.

Năm ấy, ai cũng cho đôi câu đối của gia đình này là hay nhất, vừa tả thực một cách tài ba, lại vừa hóm hỉnh thể hiện được khẩu khí cũng rất oai phong của mình.

Lại có một chuyện khác đại để như sau: cũng vào dịp giáp tết một năm nọ, nhà vua giả dạng một người thường đi dạo phố. Ngang qua một gia đình ở giữa phố, nhà vua thấy một bà cụ đang ngồi bán trầu cau. Cảm cảnh thân già, tết nhất đến nơi mà vẫn còn ngồi cần mẫn bán từng quả cau, lá trầu, nhà vua liền dừng lại hỏi chuyện. Và, hai người có vẻ rất tâm đắc với nhau. Sau khi quan sát quán hàng bé nhỏ của bà cụ, lại thấy trong nhà chưa có câu đối tết, nhà vua liền hạ bút, viết tặng đôi câu đối bằng chữ Nôm (phiên âm) như sau:

Nếp giầu quen thói kinh cơi, con cháu nương nhờ phúc ấm

Việc nước ra tay chuyển bát, bốn phương đâu đấy lại hàng.

Đôi câu đối chữ Nôm này, chỉ đọc sơ qua thôi cũng đã thấy gần như gồm đủ những thú mà thường ngày bà cụ vẫn bày ra trong quán, như: giầu (trầu), cơi (khay), nước, bát,... và đặc biệt nhất là mấy chữ bốn phương đâu đấy lại hàng, vừa nói được cái ý đông khách, lại vừa tỏ được khấu khí của người có tài kinh bang tế thế.

Tiếng đồn về đôi câu đối chữ Nôm vừa lạ vừa hay này chẳng mấy chốc đã vào đến tận triều đình. Các quan lũ lượt kéo nhau ra tận quán hàng của bà cụ để kiểm tra hư thực. Sau khi được tận mắt trông thấy, ai cũng muốn tìm cho ra tác giả nhưng tìm mãi vẫn không được. Nhân buổi chầu, họ tâu lên vua, song, chỉ thấy vua cười.

Và, chuyện thứ tư kể rằng, giáp tết một năm khác, vua Lê Thánh Tông về thăm quê cha đất tổ ở Thanh Hoá. Tới nơi chưa được bao lâu, nhà vua đã giả dạng người thường, đi dạo dọc theo bờ sông. Trên đường đi, nhà vua thấy có một cô gái nhan sắc mặn mà, đang cầm rá đựng gạo ra sông để vo. Vừa thoáng trông thấy gương mặt của cô gái, nhà vua đã... rạo rực trong lòng, một lúc sau đó, nhà vua mới đọc một vế đối bằng văn Nôm (phiên âm) như sau:

Gạo trắng, nước trong, mến cảnh lại càng thêm mến cả...

vế đối này tuy bỏ lững, nhưng ý tứ thì đã quá rõ ràng, thêm vào cho đủ chữ, có khi lại mất hết cả cái hay. Cô gái ấy chẳng dè cũng là người rất giỏi văn chương chữ nghĩa. Cô ngước nhìn nhà vua, mỉm cười, và khi đã vo xong rá gạo, cô bước lên, đọc ngay vế đối lại của mình, cũng bằng văn Nôm (phiên âm) như sau:

Cát lầm, gió bụi, lo đời đâu đấy hẵng lo cho...

vế đối lại của cô gái cũng bỏ lững một cách rất tế nhị và thông minh. Nghe xong, nhà vua rất lấy làm cảm phục, bèn hỏi thăm mới biết tên cô là Nguyễn Thị Hằng, con gái thứ của Nguyễn Đức Trung (người về sau được phong làm Trinh Quốc Công). Cô được đón về kinh đô, rồi được phong làm Hoàng hậu, và đó chính là thân mẫu của vua Lê Hiến Tông (1498 - 1504), vị vua thứ sáu của triều Lê.

NHỜ ĐÂU BÙI XƯƠNG TRẠCH ĐỖ ĐẠI KHOA?

Bùi Xương Trạch sinh năm Tân Mùi (1451) tại làng Định Công, huyện Thanh Đàm, nhưng trưởng thành lại ở thôn Bùi Đông, làng Thịnh Liệt. Nay, đất quê ông thuộc xã Thịnh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Khoa Mậu Tuất (1478), Bùi Xương Trạch đỗ Tiến sĩ. Sau, ông làm quan trải phong dần lên đến chức Thượng thư, quyền Chưởng Lục Bộ Sự, kiêm Đô Ngự Sử và Quốc Tử Giám Tế Tửu, Tri Kinh Diên Sự, hàm Thái Phó, tước Quảng Quốc Công. Ông mất năm Kỉ Sửu (1529), hưởng thọ 78 tuổi.

Bùi Xương Trạch là nguời khai mạch đại khoa cho dòng họ Bùi ở đất Thanh Trì. Con trưởng của ông là Bùi Trụ làm quan tới chức Thượng thư, con thứ của ông là Bùi Vĩnh đỗ Bảng nhãn năm 1532, làm quan đến chức Lại Bộ Tả Thị Lang, tước Mai Lĩnh Hầu. Và, các bậc đại khoa khác như Tiến sĩ Bùi Công Cầu, Tiến sĩ Bùi Bình Quân, Hoàng giáp Bùi Huy Bích,... đều là cháu chắt của ông.

Dã sử chép rằng, thân phụ ông là một Nho sinh học hành dang dở, tính thích tra cứu sách địa lí. Một hôm, nhờ may mắn mà ông được một thầy địa lí Trung Quốc chỉ cho một ngôi huyệt đại phát danh Nho. Ông liền táng hài cốt của tổ tiên vào đấy và đến đời con ông là Bùi Xương Trạch thì quả nhiên ứng nghiệm.

Trong Lịch triều hiến chương loại chí (Nhân vật chí), nhà bách khoa toàn thư của thế kỉ 19 là Phan Huy Chú cũng có chép lại mẩu chuyện nhỏ này, nhưng, điều đáng nói hơn là, lần theo lời truyền tụng của dân gian, ông đã ghi lại được mấy điều khá lí thú về thuở hàn vì của Bùi Xương Trạch. Nay, xin theo Phan Huy Chú và một vài lời truyền tụng dân gian khác, lược thuật như sau:

Gia đình Bùi Xương Trạch rất nghèo, có khi cơm không đủ ăn, áo cũng không đủ mặc. Ông thường nói, muốn thoát cảnh nghèo nàn thì nhất thiết phải chăm chỉ làm lụng, chịu khó dãi gió dầm mưa, đồng thời, lại phải biết tằn tiện dành dụm. Và, nói là làm, ông đã nêu một tấm gương sáng về sự cần mẫn lo toan việc ruộng nương đồng áng.

Sau ông lại nghĩ, muốn thoát khỏi địa vị thấp kém thì chỉ có một cách duy nhất, đó là học tập, thi cử và đỗ đạt. Không có cơ may được theo nghiệp đèn sách từ nhỏ thì phải lấy cái chí của tuổi trưởng thành mà cất công dùi mài kinh sử. Để đỡ gánh nặng cho gia đình, ông vừa làm vừa học. Bấy giờ, hễ ngơi tay cày là ông lại cầm lấy sách, do vậy, việc đồng áng vẫn chu tất mà việc học hành vẫn được chú ý đầy đủ. Người đương thời cho là hiếm ai vẹn lo trọn cả đôi đàng như ông...

Từ đồng ruộng trở về, dẫu mệt lả cả người, Bùi Xương Trạch vẫn miệt mài học cho đến tận khuya, vốn sinh ra trong một gia đinh rất nghèo, cho nên, làm bất cứ việc gì ông cũng đều tính toán cẩn thận. Tương truyền, hễ vào mùa có đom đóm bay, ông bắt đom đóm bỏ đầy chai rồi học bài bằng chính thứ ánh sáng đom đóm lập loè và yếu ớt ấy. Ngay cả việc đi thi của ông cũng khác thường: vì nhà ở gần trường thi, cho nên, hễ làm bài xong là ông lại chạy vội về nhà, không nỡ bỏ lỡ một ngày làm lụng nào ở ruộng vườn, đồng áng!

Thi Hội rồi thi Đình xong, sĩ tử nào cũng náo nức trông chờ ngày yết bảng, còn Bùi Xương Trạch thì lặng lẽ trở về lo việc đồng áng. Mọi người thấy bảng vàng có tên ông, vội chạy đến tận nhà để báo tin vui thì thấy ông đang... lúi húi đi cày ở ngoài đồng! Và, ông chăm chỉ làm cho đến lúc vào triều nhận chức mới thôi.

Ngay sau khi ông đỗ đạt, vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497) đã bổ nhiệm ông vào làm việc tại Hàn Lâm Viện. Năm 1489, cùng với Tiến sĩ Nguyễn Khắc Cung và Hoàng giáp Nguyễn Hán Đinh, Bùi Xương Trạch được nhà vua và triều đình tin cậy, giao việc đi sứ sang nhà Minh (Trung Quốc). Và ông đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ này. Năm 1493, được sự uỷ thác của vua Lê Thánh Tông, Bùi Xương Trạch đã viết bài Quảng Văn đình kí rất nối tiếng. Bài kí này được Phan Huy Chú trân trọng ghi lại trong bộ Lịch triều hiến chương loại chí lừng danh của mình.

Nhờ đâu Bùi Xương Trạch đỗ đại khoa? Chuyện về ngôi huyệt đại phát danh Nho bất quá chỉ là lời giải thích tầm thường trước ý chí phi thường của Bùi Xương Trạch, nó chỉ đủ để tạo thêm một chút li kì cho ra vẻ ngàn xưa mà không đủ để người đời hiểu được chí hướng của nhân vật lịch sử cụ thể này, nhiều con đom đóm góp lại cũng có thể tạo ra được một ngọn đèn. Đời vẫn hơn kém nhau ở chỗ, có ai đó trong thiên hạ biết bắt thật nhiều đom đóm để làm đèn như là Bùi Xương Trạch hay không mà thôi.

Muốn có cả một thành trì, trước phải biết cần mẫn xây từng viên gạch nhỏ. Muốn có trí tuệ lớn, trước phải biết miệt mài lượm lặt từng hiểu biết đơn giản đầu tiên. Như Bùi Xương Trạch, như bao bậc Tài hoa thiên cổ mà sử sách còn lưu danh...

BA LẦN NỐI DANH CỦA TRỊNH THIẾT TRƯỜNG

Trịnh Thiết Trường người làng Đông Lý, huyện Yên Định (nay là thôn Đông, xã Hạnh Phúc, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá), sinh và mất năm nào chưa rõ, chỉ biết ông là người của thế kỉ thứ 15. Chính sử cũng như dã sử xưa từng chép khá nhiều chuyện li kì về ông, dưới đây, xin dựa theo ghi chép của Đại Nam Nhất Thống Chí (tỉnh Thanh Hoá, tập Hạ, mục Nhân vật) để lược kể về ba lần nổi danh của ông như sau:

Lần thứ nhất, Trịnh Thiết Trường nổi danh khi còn là một đứa trẻ. Sách trên chép rằng, có một hôm, Trịnh Thiết Trường cùng lũ trẻ con trong làng thi nhau lấy đất sét nặn đồ chơi. Ông nặn con voi, xong bắt bốn con cua con gắn vào dưới bốn chân, khiến cho con voi đất có thể di động được, ai ai trông thấy cũng phải phục là ông sáng dạ. Mà quả là ông sáng dạ thật, chỉ cần vài lần nghe ai đó đọc sách là ông đã có thể thuộc lòng. Khi nhập trường, ông học một biết mười, ông đối rất trôi chảy. Người quê ông đương thời gọi ông là thần đồng.

Lần thứ hai, Trịnh Thiết Trường nổi danh khi đã bước vào tuổi lục tuần. Trước đó, tuy tiếng tăm uyên bác của ông đã lan rộng khắp nơi, Trịnh Thiết Trường vẫn không chịu đi thi. Ông sống tại quê nhà, mở trường dạy học, vui với công việc và học trò của mình, chẳng màng gì tới công danh. Nhưng rồi không hiểu trời xui đất khiến thế nào mà vào khoa Nhâm Tuất (1442) Trịnh Thiết Trường bỗng nổi hứng đi thi. Khoa ấy, ông cùng với người học trò xuất sắc của mình là Nguyễn Nguyên Chẩn (người làng Lạc Thực, huyện Thanh Lâm, nay là thôn Lạc Thực, xã Đồng Lạc, huyện Nam Thanh, tĩnh Hải Dương) cùng... lai kinh ứng thí. Thầy trò bàn nhau rằng, không đi thi thì thôi chớ đã đi thi thì quyết định phải chiếm cho được tam khôi (tức là đỗ Trạng nguyên, Bảng nhãn hoặc Thám hoa) mới chịu. Chẳng dè cả thầy lẫn trò đều chỉ đỗ Tiến sĩ. Khi vào dự yến tiệc vua ban, Trịnh Thiết Trường cùng học trò là Nguyễn Nguyên Chần tâu vua xin được trở về bản quán chứ không nhận chức tước gì cả. Vua Lê Thái Tông hỏi:

-Đỗ đạt khi tuổi đã cao, sao lại xin về? Hay là khanh không thích làm quan?

Trịnh Thiết Trường thưa:

-Thần nuôi chí đỗ vào hàng tam khôi, nay chưa được như thế nên xin được trở về để học thêm và thi lại.

Vua Lê Thái Tông cười nói với ông rằng:

- Khoa sau nếu đỗ vào hàng tam khôi, thì ta sẽ đem công chúa năm nay mới mười một tuổi mà gả cho.

Đến khoa Mậu Thìn (1448), đời vua Lê Nhân Tông, quả nhiên Trịnh Thiết Trường lại cùng với học trò là Nguyễn Nguyên Chẩn đi thi. Và lần này thì ông đỗ Bảng nhãn, tức là đứng ở bậc thứ hai trong hàng tam khôi, còn Nguyễn Nguyên Chấn thì lại đỗ Tiến sĩ thêm một lần nữa. Bấy giờ Trịnh Thiết Trường đã sắp bước sang tuổi bảy mươi mà công chúa (em vua Lê Thái Tông) thì mới mười bảy tuổi, nhưng theo lời hứa của vua cha, Lê Nhân Tông đã làm lễ cưới cho hai người.

Lần thứ ba, Trịnh Thiết Trường nổi tiếng khi nhận mệnh đi sứ. Năm Đinh Sửu (1457), triều đình Lê Nhân Tông cử phái bộ sứ giả sang Trung Quốc. Phái bộ sứ giả này gồm có chánh sứ là Trạng nguyên Nguyễn Trực (đỗ khoa Nhâm Tuất, 1442) và phó sứ là Bảng nhãn Trịnh Thiết Trường. (Cứ như ghi chép của chính sử thì phái bộ sứ giả này không có Nguyễn Trực, nhưng đây theo nguyên bản của sách nói trên mà lược dịch như thế -NKT). Đến nơi, triều đình nhà Minh tổ chức cho các sứ giả cùng tham sự một khoa thi đặc biệt. Khi vào làm bài thi được một lúc, Trịnh Thiết Trường nói nhỏ với Nguyễn Trực rằng:

- Phen này, chiếm giải nhất nhì chắc chỉ có tôi với bác mà thôi. Nhưng nói thật, văn tôi như rồng bay phượng múa, bác khó mà theo nổi. Chỉ tiếc rằng bác là Trạng nguyên, còn tôi là Bảng nhãn, nếu để văn tôi đè văn bác thì chẳng hoá ra là vua ta chọn người đỗ đạt không đúng hay sao. Vậy, hãy để tôi nghĩ cách khiến cho văn bác đóng trên văn của tôi.

Nguyễn Trực im lặng đồng tình. Trong bài làm của Trịnh Thiết Trường có câu: “Nam chi chu, Bắc chi mã’’ (nghĩa là: Thuyền phương Nam, ngựa phương Bắc). Chữ mã (馬) trong câu này, thay vì phải viết đủ bốn chấm ở dưới, ông chỉ viết có ba chấm mà thôi. Khảo quan cho rằng bài của Trịnh Thiết Trường đáng đỗ đầu, nhưng giận vì chữ mã chỉ có ba chấm, cho như thế là coi thường Trung Quốc, nên hạ ông xuống hạng hai và đưa bài của Nguyễn Trực lên hạng nhất. Đến khi sứ bộ ra về, họ còn lấy dây cột một chân trước của ngựa ông, khiến cho chân ấy phải co lên, ngựa không sao đi được, nhằm phạt cái lỗi viết chữ mã chỉ có ba chấm, đã thế lại còn hạ lệnh rằng, nếu không tìm cách cưỡi ngựa ấy về được thì sẽ bị giữ lại mãi mãi ở Trung Quốc. Trịnh Thiết Trường mỉm cười rồi lẳng lặng lấy gỗ đẽo một cái chân ngựa cùng kích cỡ với chân trước của con ngựa thật, xong, lấy dây cột vào, khiến cho ngựa có thêm một cái chân giả. Ông điềm nhiên nhảy lên lưng ngựa và vung roi quất thật mạnh. Con ngựa của ông tuy lúng túng nhưng vẫn chạy đi được với cái chân giả do ông đẽo. Mọi người thấy vậy thì vỗ tay tán thưởng. Quan lại thiên triều phục ông nhanh trí, bèn sai người đuổi theo, tháo chân ngựa cho ông để ông được ung dung mà trở về cùng với Trạng nguyên Nguyễn Trực.

Sau khi đi sứ về, Trịnh Thiết Trường được phong tới chức Hữu Thị Lang, tước Nghi Quận Công. Lúc mất, ông được truy tặng chức Thượng Thư Bộ Công.

Tuy thời điểm, địa điểm và mức độ khác nhau, nhưng, cả ba lần nổi danh của Trịnh Thiết Trường đều rất đáng để cho đời suy gẫm. Lần thứ nhất là lần có thật, một sự thật có ý nghĩa dự báo tương lai rất tốt đẹp cho Trịnh Thiết Trường. Lần thứ hai cũng là lần có thật, một sự thật rất hiếm hoi đã được sử sách xưa trân trọng ghi chép. Thoạt nghe, rất dễ tưởng rằng Trịnh Thiết Trường cao ngạo, nhưng, xét kĩ mới thấy rõ là ông giàu lòng tự tin, giàu bản lĩnh và ý chí. Thế mới hay, giữa cao ngạo và tự tin xem ra cũng có những nét khiến cho kẻ nông cạn có thể nhầm lẫn. Lần thứ ba rõ ràng là lần không có thật, nhưng, đây cũng chính là lần khiến cho đời rất tin và do vậy, cứ truyền tụng mãi không thôi. Vì sao ư? Đơn giản là vì Trịnh Thiết Trường thực sự có tài. Giả thử bấy giờ người ta đồn rằng, vua Trung Quốc phục tài Trịnh Thiết Trường đến nỗi phải ngã lăn từ trên ngai vàng xuống, gãy mất năm cái răng và rách cả môi, buộc phải cấp cứu đến bảy tiếng đồng hồ mới khỏi, thì bảo đảm là thiên hạ vẫn cứ tin như thường. Ngẫm mà xem!

VŨ TUẤN CHIÊU NHỜ VỢ MÀ ĐỖ TRẠNG NGUYÊN

Các bộ Đăng khoa lục đều cho hay rằng Vũ Tuấn Chiêu, người làng Nhật Chiêu, huyện Quảng Đức (nay là thôn Nhật Tảo, xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội), nhưng tổ tiên lại vốn người xã cổ Liễu, huyện Tây Chân (nay là làng Xuân Lôi, xã Nam Hùng, huyện Nam Ninh, tỉnh Nam Định). Ông sinh năm Bính Ngọ (1426), đỗ Trạng nguyên khoa Ất Mùi, niên hiệu Hồng Đức thứ sáu (tức năm 1475), đời vua Lê Thánh Tông, làm quan trải phong dần đến chức Lại Bộ Tả Thị Lang. Sinh thời, Vũ Tuấn Chiêu có hai lần nổi tiếng rất trái ngược nhau. Lần đầu là nổi tiếng dốt nát kém cỏi và lần sau là nổi tiếng thông minh. Chuyện nổi tiếng thông minh của Vũ Tuấn Chiêu thì sử sách đã chép, riêng chuyện nổi tiếng dốt nát và kém cỏi của Vũ Tuấn Chiêu thì chỉ thấy dã sử và thần tích để ở đền cổ Liễu chép mà thôi. Nay, xin theo thần tích ở đền cổ Liễu mà lược kể như sau:

Vũ Tuấn Chiêu mồ côi cha từ năm lên sáu tuổi. Bởi gia cảnh bần hàn, họ hàng thân thích cũng chẳng có ai, người mẹ liền bán nhà rồi đem miếng đất thổ cư ấy gởi cho hàng xóm là Trần Công, xong, đem con về tá túc bên ngoại. Năm Vũ Tuấn Chiêu ngoài hai mươi tuổi thì mẹ ông cũng qua đời. Vào một năm nọ, nhớ lời mẹ dặn, Vũ Tuấn Chiêu trở về cổ Liễu để thăm phần mộ tổ tiên. Bấy giờ, Trần Công đã già, vợ đã mất, sống nhờ một người con gái duy nhất, tên là Trần Thị Chìa. Thấy con gái đã đến tuổi lấy chồng mà Vũ Tuấn Chiêu lại chưa vợ, tính nết hiền lành, cho nên, Trần Công đứng ra tác hợp gia thất cho con gái của mình với Vũ Tuấn Chiêu.

Trần Thị Chìa là cô gái nết na chăm chỉ, một lòng lo phụng dưỡng cha và nuôi chồng ăn học. Được vài năm thì Trần Công qua đời, Trần Thị Chìa tường được nhẹ gánh hơn, chẳng dè, chồng học mãi mà chẳng tấn tới chút nào, đằng đẵng những hơn hai mươi năm mà rốt cuộc vẫn phải ngồi chung lớp với mấy đứa trẻ nhỏ mới nhập học. Thiên hạ lắm kẻ cười chê, nhưng, Trần Thị Chìa vẫn không chút nản chí, tháng ngày tần tảo, gánh gạo đến tận nơi chồng ở trọ để nuôi chồng. Mỗi lần đến trường là một lần Trần Thị Chìa lại cung kính đến chào thầy học của chồng. Một lần nọ, thầy giáo gọi hai vợ chồng Vũ Tuấn Chiêu và Trần Thị Chìa lại rồi nói:

-Vũ Tuấn Chiêu tuổi tuy đã lớn mà học hành thì kém cõi, cố gắng cũng chẳng thể khá hơn. Vậy, thầy cho về giúp vợ làm ruộng, đỡ đần để vợ bớt vất vả.

Thấy ý thầy đã quyết, Trần Thị Chìa đành phải chào thầy rồi trở về nơi chồng trọ, thu xếp mọi thứ để cùng chồng trở về quê. Về đến gần làng, vợ chồng đặt gánh nghỉ bên gốc cây ở cạnh chiếc cầu bằng đá bắt qua con rạch. Vũ Tuấn Chiêu thấy nóng bức, bèn cởi áo và lội xuống tắm. Thấy chân cầu bằng đá mã bị mòn vẹt, Vũ Tuấn Chiêu liền hỏi vợ:

-Tại sao chân cầu lại bị mòn như thế?

Người vợ đủng đỉnh trả lời:

-Đó là bởi nước chảy lâu ngày nên đá bị bào mòn đó thôi. Ai cũng nói rắn như đá và mềm như nước, nhưng cho dẫu nước mềm, nếu chảy mãi cũng có thể bào mòn được đá cứng, ở đời, trăm sự đều như thế cả, nếu bền chí thì nhất định sẽ có ngày thành công.

Vũ Tuấn Chiêu nghe xong thì chợt tỉnh ngộ, bèn chạy lên thay quần áo rồi bảo vợ trở về, còn mình thì quẩy gánh trở lại trường, xin thầy cho học lại. Thấy Vũ Tuấn Chiêu, thầy giáo ngạc nhiên hỏi:

-Con đã trở về rồi, sao còn trở lại? Hay là con có điều gì cần hỏi thầy chăng?

Vũ Tuấn Chiêu nói:

-Thưa thầy, con đã nghĩ kĩ lại rồi. Cứng như đá mà nước chảy mãi cũng phải mòn, nếu con bền chí học mãi thì nhất định cũng sẽ có ngày thành đạt. Con quyết chí có tên trên bảng vàng, trước là để khỏi phụ ơn thầy, sau là để khỏi uổng công vợ.

Thầy giáo cũng không tin là Vũ Tuấn Chiêu có thể học nổi, nhân có cơn mưa, bèn chán nản lắc đầu, đọc rằng:

—Mưa sa Hạ Vũ

Chẳng dè, Vũ Tuấn Chiêu lại ứng khẩu mà đáp ngay được rằng:

- Sấm động Xuân Lôi.

Nhờ lời đáp ấy, Vũ Tuấn Chiêu được thầy giáo cho vào học lại. Từ đó, ông học hành tấn tới rất nhanh. Nhưng, khi ông sắp sửa thành tài thì bà Trần Thị Chìa lâm bệnh mà qua đời, để lại cho ông một đứa con trai duy nhất. Một lần nữa, Vũ Tuấn Chiêu phải quay về quê ngoại, vừa lo tìm người thân tín để gởi con, vừa chuẩn bị sắm sửa cho việc thi cử. Và, như trên đã nói, khoa Ất Mùi (1475), ông đỗ Trạng nguyên. Năm ấy ông vừa 50 tuổi (tính theo tuổi ta). Khoa này, triều Lê lấy đỗ tất cả 43 vị Tiến sĩ, trong đó có một Trạng nguyên là Vũ Tuấn Chiêu, một Bảng nhãn là ông Nghĩa Đạt và một Thám hoa là Cao Quýnh.

Cắt nghĩa về sự thành đạt của Vũ Tuấn Chiêu, người đời xưa nay vẫn có khá nhiều ý kiến khác nhau, tuy nhiên không có ý kiến nào lại bỏ qua vai trò đặc biệt quan trọng của vợ ông là bà Trần Thị Chìa. Người phụ nữ ấy đã một lòng một dạ vì chồng, gian nan không quản, thất bại không sờn lòng, lời thị phi của chúng bạn cũng không thèm để ý đến, lòng vàng đá ấy thật đáng kính lắm thay!

Nước chảy đá mòn! Triết lí của bà Trần Thị Chìa thật giản dị mà sâu sắc. Để trở thành Trạng nguyên, Vũ Tuấn Chiêu phải học không biết bao nhiêu sách vở, nhưng, bài học lớn lao nhất, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng nhất, lại chính là bài học từ câu nước chảy đá mòn mà vợ ông đã dạy ông.

Sau, dân cổ Liễu lập đền thờ Vũ Tuấn Chiêu. Cửa đền có bức hoành phi với ba chữ sơn son thếp vàng: Trạng nguyên từ (đền thờ Trạng nguyên). Dân thờ người tài vì muốn mạch nhân tài của mình không bao giờ dứt. Song không có đền thờ riêng bà Trần Thị Chìa thì kể cũng đáng tiếc lắm. Tài ba và đức độ của bà vẫn mãi mãi toả sáng trong kí ức bất diệt của muôn đời đó thôi. 

BA LẦN NỔI DANH TRONG THỜI HÀN VI CỦA BINH BỘ THƯỢNG THƯ LƯƠNG HỮU KHÁNH

Thời Lê Trung Hưng, Binh Bộ Thượng Thư Lương Hữu Khánh là một trong những bậc đại thần giàu mưu lược. Đời vẫn truyền tụng rất nhiều giai thoại về Lương Hữu Khánh, và dưới đây là phần lược thuật những giai thoại về ba lần nổi danh của ông, thấy ghi trong Đại Nam Nhất Thống Chí (tỉnh Thanh Hoá, tập Hạ, mục Nhân vật).

Lương Hữu Khánh là con trai của Bảng nhãn Lương Đắc Bằng (1472 —?), người làng Hội Triều, huyện Hoằng Hoá (nay thuộc thôn Hội Triều, xã Hoằng Phong, huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá). Sinh thời, Lương Đắc Bằng là người thanh liêm, chính trực, làm quan trải phong dần tới chức Lại Bộ Thượng Thư. Khi ông mất, con trai ông là Lương Hữu Khánh còn ở tuổi ấu thơ.

Sử cũ cho hay, năm mới lên mười tuổi, Lương Hữu Khánh đã nổi danh ăn khỏe. Hầu nhu lúc nào ông cũng cảm thấy đói. Đến bữa, mẹ ông thường phải nhường phần cho ông ăn. Một hôm, Lương Hữu Khánh thưa với mẹ rằng:

-Tiên quân nhà ta là bậc làm quan trong sạch, chẳng để lại gì đủ để cho con no, vậy, xin mẹ cho con được tự ý ra đi kiếm sống.

Nói rồi, ông từ giã mẹ ra đi. Một lần nọ, ông tình cờ qua sông chung một chuyến đò với khoảng dăm sáu nhà sư. Thấy ông có vẻ như đang đói, các nhà sư lấy ra mấy phần oản mời ông ăn. Ông nói:

- Tôi nhịn đói đã mấy ngày nay, mấy phần oản này thì có thấm thìa gì? Ăn có khi chẳng bõ dính răng.

Nhà sư cao niên nhất nghe vậy thì cười và ôn tồn nói:

-Nếu chỉ nội trong chuyến đò ngang này mà anh làm được bài thơ Nho tăng đồng chu (Nhà Nho và nhà sư cùng đi chung thuyền) thì sang đến bờ bên kia, chúng tôi sẽ tặng anh hết số phẩm oản này.

Lương Hữu Khánh chẳng cần nghĩ ngợi, ứng khẩu đọc ngay một bài thơ bằng chữ Hán và một bài thơ bằng chữ Nôm, khiến cho các nhà sư phải tấm tấc khen mãi. Họ đưa cho ông đến khoảng sáu bảy chục phẩm oản, thế mà chỉ trong chốc lát, ông ăn hết sạch. Các nhà sư tặng ông một quan tiền và nói:

-Anh thật là người có tài. Sau này nếu chẳng may khói lửa xảy đến, anh hãy nên tìm chốn Bồ Đề mà nương tựa, may ra sẽ có thiện duyên.

Một lần khác, Lương Hữu Khánh gặp một cụ bà lang thang kiếm người làm. Vừa trông thấy ông, cụ bà đã mừng rỡ hỏi ngay rằng:

-Nhà tôi có năm mẫu ruộng chiêm, nước ngập sâu mà cỏ mọc cũng rất nhiều. Tôi đang thuê người dọn giúp mà chẳng ai dám nhận. Anh có cách gì giúp tôi được không?

Lương Hữu Khánh đáp:

-Cụ cứ chuẩn bị tiền công và cơm ăn cho mười người, đến trưa thì mang ra đồng, mọi việc đâu sẽ vào đó hết.

Nói xong, ông theo cụ bà đi nhận đất. Cụ bà vừa đi, Lương Hữu Khánh đã mượn dụng cụ, lội xuống ruộng làm ào ào chừng quá nửa buổi là xong. Sau khi đem trả dụng cụ, ông trèo lên cây nằm ngủ, ngáy vang cả một vùng. Cụ bà mang cơm và tiền công ra, Lương Hữu Khánh nhận tiền và im lặng ngồi ăn một lúc hết sạch cả mười phần cơm.

Chuyện thứ ba kể rằng, năm lên 18 tuổi, Lương Hữu Khánh đến theo học Trạng Trình Nguyễn Bĩnh Khiêm (1491 -1585). Trạng Trình vốn là học trò của thân phụ Lương Hữu Khánh, vì thế, Lương Hữu Khánh được tiếp đón rất chu tất. Bấy giờ, học trò của Trạng Trình đông có đến hàng mấy ngàn người, nhưng trong đó, chỉ có Phùng Khắc Khoan (1528 - 1613) là nổi tiếng thông minh và hay chữ hơn cả. Nhưng, từ khi có Lương Hữu Khánh, ngôi vị giỏi hạng nhất của Phùng Khắc Khoan lập tức bị lung lay.

Thế rồi triều đình mở khoa thi, cả Lương Hữu Khánh lẫn Phùng Khắc Khoan đều ra ứng thi. Tương truyền, văn bài của ông lẽ ra phải được xếp hạng nhất, nhưng chẳng hiểu vì sao mà quan trường lại đẩy ông xuống hạng nhì, vì thế, ông lấy làm buồn nản, không vào dự tiếp khoa thi Đình như bao nhiêu sĩ tử khác. Ra phố, ông kiếm được 60 bát gạo với hai con cá biển khá lớn, liền thổi cơm kho cá rồi trải chiếu, ngồi ngay dưới gốc cây, vừa ăn vừa nói:

-Thế này thì có kém gì mâm cao cỗ đầy?

Khi ấy, có một viên quan đi chầu triều về ngang qua, thấy ông có tướng mạo lạ, bèn tặng ông năm quan tiền và khuyên ông nên ra làm quan, nhưng ông chỉ một mực chối từ.

Sau, Phùng Khắc Khoan đỗ Hoàng Giáp (tức là chỉ đỗ hàng thứ tư, nhưng vì ông nối tiếng tài hoa xuất chúng, cho nên, đời vẫn tôn ông là Trạng nguyên). Nghĩ tình đồng môn, Phùng Khắc Khoan liền sai người đi đón hai mẹ con Lương Hữu Khánh về tư dinh của mình, săn sóc bạn và phụng dưỡng mẹ của bạn rất chu tất. Cảm ơn nghĩa ấy, ông ra làm quan cùng với bạn, dần dần được phong tới chức Binh Bộ Thượng Thư.

Thế là, ngay trong thời hàn vi, Lương Hữu Khánh đã có đến ba lần nổi danh. Lần thứ nhất là nổi danh ăn khỏe. Lần thứ hai là nổi danh làm khỏe. Lần thứ ba là nổi danh học tài. Nếu chỉ dừng lại ở lần nổi danh thứ nhất, ông bất quá cũng chỉ là... phường “giá áo túi cơm”. Nếu dừng lại ở lần nổi danh thứ hai, ông bất quá cũng chỉ là... đám “vai u thịt bắp". Phải đợi đến lần nổi danh thứ ba, ông mới thực sự là... con trai của Bảng nhãn Lương Khắc Bằng, là học trò của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Sau, con ông là Lương Khiêm Hanh cũng đỗ Tiến sĩ (khoa Kì Sửu), 1589), xứng thay!

Ở đời, ai mà chẳng muốn nổi danh, khác chăng thì chỉ là nổi danh như thế nào mà thôi. Nếu bạn cho tôi biết cách bạn muốn nổi danh, tôi sẽ nói ngay với bạn rằng, bạn thuộc hạng người nào. Chắc chắn là như thế.