- 5 - THUỞ HÀN VI CỦA TRẠNG NGUYÊN TRẦN SÙNG DĨNH
Thời vua Lê Thánh Tông (1460 -1497), ở làng Đồng Khê, huyện Thanh Lâm (nay là xã An Lâm, huyện Nam Thanh, tỉnh Hải Dương) có hai anh em ruột cùng đỗ đại khoa, đó là Trần Năng (đỗ Hoàng Giáp và Trần Sùng Dĩnh (đỗ Trạng nguyên). Trần Năng là anh, sinh năm Ất Sửu (1445), còn Trần Sùng Dĩnh là em, sinh năm Ất Dậu (1465). Do lớn hơn em những 20 tuổi, Trần Năng có vai trò rất lớn trong việc góp phần nuôi dạy em ăn học. Nhất nhất mọi việc lớn nhỏ, hễ Trần Năng mà đã nói là Trần Sùng Dĩnh phải vâng lời.
Người đời truyền tụng rằng, sinh thời, Trần Năng là người rất hiếu thảo và chăm chỉ. Ngày ngày, ông vừa đi học, vừa tận tuỵ lo toan đủ mọi thứ việc giúp đỡ gia đình, vậy mà đêm nào ông cũng cố chong đèn học bài đến quá nửa đêm mới chịu thôi.
Ngay từ thuở còn nằm nôi, Trần Sùng Dĩnh đã quá quen thuộc với tiếng học bài sang sảng của anh trai. Và, ông đã thuộc lòng những bài học ấy tự lúc nào không hay. Lúc mới lên năm tuổi, Trần Sùng Dĩnh đã nhớ vanh vách hàng chục bài trong Kinh thi, đồng thời, đã có thể nhận biết được rất nhiều mặt chữ Hán. Người địa phương đương thời ai cũng cho ông là bậc thần đồng. Gia đình ông, mà đặc biệt, anh ông là Trần Năng, thấy ông sáng dạ hơn người nên đã dốc sức chăm lo cho ông ăn học. Hi vọng rằng ông sẽ sớm rạng danh với đời.
Trần Năng tự lấy sự miệt mài chăm chỉ của mình làm chuẩn để bắt em theo, nhưng, cách học của Trần Sùng Dĩnh lại hoàn toàn khác. Khi đến trường, Trần Sùng Dĩnh lắng nghe một cách say sưa như nuốt từng lời thầy. Chỗ nào không hiểu hoặc hiểu chưa thật đầy đủ, ông ghi chép lại và quyết hỏi cho bằng được mới thôi, về nhà, ông chỉ lẩm nhẩm xem lướt qua một lần nữa, xong là chạy đi nô đùa với lũ trẻ cùng trang lứa trong làng. Điều ấy khiến cho cả gia đình ông rất lo lắng. Một hôm, Trần Năng tức giận, gọi em lại mà mắng rằng:
-Em học cái lối gì mà cứ rong chơi như thế? Rõ là chỉ tổ uổng cơm cha mẹ mà thôi.
Trần Sùng Dĩnh cãi:
-Đưa chữ vào đầu cũng như đổ thóc vào thúng. Thúng mà muốn chứa được nhiều thóc thì phải lắc, đầu mà muốn chứa được nhiều chữ thì phải chạy nhảy cho nó nén xuống.
Trần Năng nghe em nói vậy thì lại càng tức hơn nên mới mắng tiếp:
-Chớ có lí sự. Cả nhà chưa ai từng nghe tiếng em đọc sách bao giờ.
Trần Sùng Dĩnh cũng chẳng vừa, lập tức biện hộ một cách rất lém lỉnh rằng:
-Ở trường, em đã phải nuốt từng chữ của thầy, về nhà, anh cứ bắt em đọc to như thế, chữ của thằy cứ theo tiếng đọc của em mà bay ào ào ra hết, thử hỏi là em còn có thể giữ được chữ nào nữa hay không? Vả lại, em học là học cho em, dại gì đọc to cho người khác thuộc để rồi mình thì không.
Trần Năng cho là em có ý nói cạnh nói khoé (vì ông có tật hễ học bài là đọc thật to), cho nên, đã tức lại càng thêm tức. Ông bắt Trần Sùng Dĩnh phải nằm dài trên giường để chuẩn bị đánh roi. Trần Sùng Dĩnh vừa khóc vừa nói:
-Anh có giỏi thì cứ thử tài em. Em mà học hành lôi thôi thì anh đánh sau cũng đâu có muộn, việc gì cứ ỷ thế làm anh để muốn đánh là đánh.
Trần Năng nghe nói cũng thấy có lí, liền cầm sách bắt em trả bài. Trần Sùng Dĩnh đọc vanh vách, đọc xong lại còn nói:
-Con vẹt còn học thuộc được, huống chi là con người. Cái khó là sau khi thuộc rồi, người ta có nghĩ thêm được điều gì mới hơn không thôi. Chỗ này thì con vẹt không thể nào làm đuợc.
Nói xong, Trần Sùng Dĩnh say sưa giảng giải thêm rất nhiều điều mới lạ, khiến cho Trần Năng phải ngơ ngác về tài học của em mình. Từ đó, không một ai lo lắng gì về chuyện học hành của Trần Sùng Dĩnh nữa. Khoảng hơn mười tuổi, tiếng tăm của Trần Sùng Dĩnh đã rất lớn. Năm 1479, tức là lúc mới vừa 14 tuổi, Trần Sùng Dĩnh đã đỗ đầu ở trường Hương. Năm Đinh Mùi, niên hiệu Hồng Đức thứ 18 (tức là năm 1487), khi vừa mới 22 tuổi, Trần Sùng Dĩnh đã đỗ Trạng nguyên. Khoa ấy, vua Lê Thánh Tông lấy đỗ đến 60 người, nhưng trong số đó, không có anh ông là Trần Năng! Phải đến khoa Quý Sửu, niên hiệu Hồng Đức thứ 24 (tức là năm 1493), Trần Năng mới đỗ Hoàng giáp. Xét về thứ bậc, Hoàng giáp là bậc thứ tư, cao hơn Tiến sĩ, nhưng thấp hơn Thám hoa và Bảng nhãn, càng thấp hơn Trạng nguyên. Khi đỗ Hoàng giáp, Trần Năng đã 48 tuổi!
Sau khi đỗ Trạng nguyên, Trần Sùng Dĩnh được vua Lê Thánh Tông bổ làm quan rồi được thăng dần lên đến chức Hộ Bộ Thượng Thư. Khi mất, ông được dân làng tôn làm phúc thần. Trần Năng sau khi đỗ cũng được bổ làm quan nhưng chỉ được thăng tới chức cao nhất là Lại Bộ Tả Thị Lang (dưới Thượng Thư một bậc) mà thôi. Khi mất, Trần Năng mới được triều đình truy tặng chức Thượng Thư chớ khi còn sống, ông chưa bao giờ được phong tới chức này.
Hai anh em, hai thứ bậc đỗ đạt, hai địa vị cao thấp, nhưng, cả hai đều là người tài, đặc biệt là Trần Sùng Dĩnh. Một nhà mà như thế, kính thay!
NHỜ ĐÂU LÊ TƯ ĐỖ HOÀNG GIÁP?Phạm Duy Quyết người làng Mộ Trạch, huyện Đường An (nay là thôn Mộ Trạch, huyện Cẩm Bình, tinh Hải Dương), ông là em ruột của Trạng nguyên Nguyễn Khắc Kính (đỗ khoa Ất Sửu, 1505). Thuở còn tấm bé, Phạm Duy Quyết đã nổi danh thần đồng, thông minh hơn thiên hạ, nhưng đồng thời, Phạm Duy Quyết cũng khét tiếng tự phụ, từng nếm cảnh chua chát của sự... hỏng thi. Mãi đến khoa Tân Mùi (1511), Phạm Duy Quyết mới đỗ Hoàng Giáp (tức là đỗ thứ tư, sau Trạng nguyên, Bảng nhãn và Thám hoa, nhưng trên Tiến sĩ). Nhờ đâu Phạm Duy Quyết đỗ Hoàng giáp? Hẳn nhiên là không phải nhờ ở tính tự phụ của ông rồi. Sách Công dư tiệp kí (quyển 1) chép chuyện ông thi cử như sau:
“Trong khoa thi Hội năm Ất Sửu (1505), cả hai anh em cùng ứng thí. Giữa kì làm bài thứ nhất, Phạm Duy Quyết quên sách, bèn lân la hỏi anh. Nguyễn Khắc Kính nói:
-Kì này có tôi và chú cùng thi, nếu tôi lại chỉ cho chú thì còn bảo thi cử với ai nữa.
Phạm Duy Quyết tức giận nói:
-Thôi thì khoa này tôi cho anh chiếm giải trước vậy.
Nói xong, ông liền gỡ phăng lều chõng ra về. Tới nhà thì đã đến canh ba, ông không dám gọi cửa mà nằm ngủ ngoài hiên. Lúc ấy, thân mẫu của ông đang nằm ngủ trong nhà, mơ thấy thần nhân bảo:
-Hoàng hiên đang có ông Hoàng giáp, sao không mở cửa đón vào?
Bà sực tình, nghĩ rằng hai con mình đang đi thi Hội, đang ở kinh đô, vậy thì Hoàng giáp nào đang ngủ ngoài hiên? Bà mở cửa để coi thì thấy một người đang ngủ lăn trước hiên nhà mình, liền đánh thức dậy, lúc ấy mới hay là cậu Tư, con trai của mình. Bà hết sức ngạc nhiên, còn Phạm Duy Quyết thì kể lại đầu đuôi câu chuyện thi cử. Nghe xong, bà nói:
-Đó là tại con học chưa đến nơi đến chốn. Từ nay con phải cố gắng hơn nữa.
Ông nghe lời mẹ dạy, vội đi vào nhà, đốt đèn mở sách mà học. Bà thấy thế, mỉm cười nói rằng:
-Bởi mới hỏng thi nên nhất thời tức khí mà học, chỉ sợ không được như vậy mà thôi.
Ông thưa:
-Thưa mẹ, từ nay về sau mẹ sẽ thấy con cứ thế này mãi mãi.
Từ đấy, ngày cũng như đêm, hầu như không lúc nào ông rời quyển sách. Còn anh ông là Nguyễn Khắc Kính, từ khi đỗ Trạng nguyên, được nhà vua cho giữ chức Giảng Quan trong Quốc Tử Giám. Không ít Giám Sinh đã nhờ ông mà thành đạt. Phạm Duy Quyết ra kinh đô, đón đường mà nói với các Giám Sinh rằng:
-Ta chính là bồ chữ, các anh muốn hỏi gì, cứ đem sách tới đây ta chỉ cho.
Giám Sinh phần nhiều đã nghe tiếng ông nên cũng muốn thử xem tài học của ông ra sao, bèn kéo nhau tới nơi ông ở là khu Chợ Dừa (nay thuộc nội thành Hà Nội -NK.T) để hỏi kinh sách. Họ hỏi tới đâu, ông trả lời tới đó, cứ thế thao thao bất tuyệt. Có người đem cả sách vở của Trung Quốc và của chư tử ra hỏi, ông cũng giảng giải tinh tường, khiến cho ai cũng phải khiếp phục, kéo nhau đến chỗ ông. Quốc Tử Giám vì thế mà vắng người. Anh ông là Nguyễn Khắc Kính thấy vậy thì can:
-Chú có tài học, lo gì không đỗ cao mà lại đi làm cái chuyện vô ích này. Tôi thấy việc này quan hệ đến giáo hoá của triều đình, chú đình chỉ đi thì hơn.
Ông nghe lời anh, lập tức trở về quê nhà. Đến khoa Tân Mùi (1511), ông đỗ Hoàng giáp và rất lấy làm hận vì không chiếm được khôi nguyên. Sau, ông ra làm quan, được thăng tới chức Lại Bộ cấp Sự Trung thì mất.”
Đến đây, xin được trở lại câu hỏi đặt ra từ đầu, đó là: Nhờ đâu Phạm Duy Quyết đỗ Hoàng giáp? Không ai phủ nhận là Phạm Duy Quyết có tài bẩm sinh, nhưng, cái tài bẩm sinh của Phạm Duy Quyết bất quá chỉ là cái tài của một... cậu bé. Phạm Duy Quyết nổi danh thần đồng, song Phạm Duy Quyết cũng nổi danh tự phụ. Nếu không được anh ông là Nguyễn Khắc Kính hai lần nghiêm khắc phê phán, thì cái còn lại của Phạm Duy Quyết chắc chỉ là sự tự phụ hợm hĩnh mà thôi. Phạm Duy Quyết có người mẹ thật tuyệt vời. Trong nghệ thuật động viên và khích lệ con học tập. Bà quả là một điển hình đáng để cho đời đời noi theo. Thế ra, học vị Hoàng giáp của Phạm Duy Quyết là kết quả học tập của Phạm Duy Quyết, cộng với kết quả uốn nắn nghiêm khắc của anh ông là Trạng nguyên Nguyễn Khắc Kính, và cộng với kết quả của nghệ thuật động viên, khích lệ khôn khéo của mẹ ông.
Với những người có chút tài nhưng lại hay tự phụ, nếu chẳng được cộng thêm những điều cần thiết như Phạm Duy Quyết đã được cộng thêm, đời họ chỉ còn là hiệu số của những phép trừ, xót xa và thê thảm. Đơn giản là như thế mà thôi.
VÌ SAO DÒNG HỌ NGUYỄN Ở HUYỆN ĐÔNG NGÀN ĐẠI PHÁT DANH NHO?Dòng họ Nguyễn ở huyện Đông Ngàn (nay thuộc huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc) có đến mấy chục người đỗ đạt cao. Tiến sĩ Vũ Phương Đề trong bộ sách nổi tiếng của ông viết vào khoảng nửa đầu thế kỉ thứ 18 là Công dư tiệp kí, cho rằng, tất cả đều nhờ ở đại đức của tiên tổ dòng học này là cụ Phạm Duy Quyết Xin giới thiệu một đoạn trong sách nói trên, kèm theo lời chủ ngắn ngủi rằng: Phạm Duy Quyết là họ chứ không phải tên.
Cụ (Phúc Mại) dựng nhà tại xã Đông Lâu, thuộc tình Hà Bắc cũ -NKT) và sống bằng nghề nấu rượu. Gia đình hàng xóm gần nơi cụ ở có cây bồ đề lâu năm, một hôm, chẳng may bị bão đánh đổ nên cụ đến xin mua để lấy củi nấu rượu. Khi đào gốc, cụ thấy có ba hũ bạc, bèn lẳng lặng đem về giấu kín không cho ai biết. ít lâu sau, cụ dời nhà đi chỗ khác ở.
Bỗng độ ba, bốn năm sau, chẳng dè có người từ bên Tàu sang, tìm đến chỗ chôn bạc của tổ tiên xưa, thấy dấu cũ còn đó, lỗ chôn bạc cũng còn đó mà các hũ bạc thì đã biến mất. Họ hỏi những gia đình bên cạnh thì ai ai cũng đoán rằng cụ nấu rượu năm trước đã lấy mất rồi. Họ bèn đến thẳng nhà cụ, xuất trình gia phả cùng các thứ giấy tờ rồi thưa:
- Tổ tiên chúng tôi ngày trước có chôn ít bạc ở đấy, nay chúng tôi đến lấy, chẳng ngờ số bạc đó đã về tay cụ rồi. Chúng tôi chẳng dám trách cứ gì, chỉ xin cụ nghĩ lại, bởi vì nay mai chúng tôi đã phải trở về quê hương mà tiền lương đã cạn, mong cụ cảm thương mà giúp cho chút ít lộ phí. Chúng tôi nguyện chẳng dám quên ơn.
Phần cụ Phạm Duy Quyết, từ khi đào được kho bạc cho tới lúc ấy vẫn đem giấu kín một nơi chứ chưa hề đụng tới, chẳng rõ trong đó có bao nhiêu. Mở gia phả rồi kiểm tiền, thấy đúng con số đã ghi, cụ liền giữ người Tàu ấy lại, tiếp đãi ân cần rồi nói:
-Số bạc kia quả là tôi đã đào được nhưng vẫn cứ giấu kín chưa hề tiêu mất chút nào. Nay chú sang đây tức là của lại trở về chủ cũ của nó. Tôi xin trả hết chứ chẳng giữ làm gì.
Người Tàu nghe cụ nói vậy, lòng như mở cờ nhưng cũng chẳng dám nhận ngay, bèn hỏi:
-Thưa cụ, thấy hũ bạc này đúng là của tổ tiên chúng tôi để lại, nhưng, nay Trời đã trao cho cụ thì tức là của cụ. Cụ ban cho chút ít để làm lộ phí đã là may mắn lắm rồi, chúng tôi đâu dám nhận lại tất cả như thế.
Nói vậy, nhưng cụ vẫn dứt khoát không nghe. Người Tàu đề nghị chia đôi, họ một nửa, cụ một nửa, nhưng cụ vẫn không chịu. Cụ nói:
-Tôi nào phải là người không biết quý tiền bạc, chí vỉ bạc đó không phải của mình, chẳng qua Trời sai tôi giữ lại để đợi chủ đó thôi. Chú cứ nhận đủ số đem về thì hơn.
Người Tàu biết không thể nào ép được, bèn nhận bạc đem về. Tới quê nhà, gặp ai ông ta cũng kể chuyện cụ già nước Nam đức độ. Bấy giờ, có thầy địa lí rất giỏi, nghe chuyện cũng khen cụ là đấng hiếm có, rồi than rằng:
-Tiếc là ta đã già chứ ví thử còn trai tráng, thế nào ta cũng quyết tìm hộ người ấy một ngôi huyệt tốt để báo ơn.
Người Tàu nghe thầy địa lí nói thế thì khấn khoản mời đi, nhưng thầy địa lí đã quá già. Thầy nói:
-Ta có hai môn đệ cũng là học được bí truyền, thôi thì ta sai họ đi với bác vậy.
Cả ba cùng sang nước ta, tìm đến nhà cụ bán rượu, nhưng lúc ấy cụ đã mất được hơn một năm. Họ biện lễ phúng điếu rồi ra đi, mãi đến vài ba tháng mới quay trở lại và nói với người con trai lớn của cụ rằng:
-Truớc đây, chúng tôi chịu ơn của cụ rất nhiều mà không có cách gì để báo đáp lại. Nay, tôi mời được hai thầy địa lí cùng sang đây và đã tìm được mấy ngôi huyệt tốt. Ngôi thứ nhất có núi chầu về, sau sẽ phát đế vương nhưng chỉ được một đời là hết. Ngôi thứ hai hình đoá sen, phát được một đời là Phò mã. Vậy, cậu nhận ngôi nào?
Người con trai của cụ (Phạm Duy Quyết) đáp:
-Chúng tôi ở nơi thôn đã, không dám hi vọng cao xa, chỉ mong được ngôi nào đời đời phát văn Nho là đủ.
Hai thầy địa lí đáp:
-Vậy thì có khó gì, chẳng cần tìm đâu xa cho mệt. Tôi thấy thôn nhà ta đây cũng có long mạch từ xã cẩm Chương kéo đến, đi uốn khúc như con hoàng xà, đến xã Vịnh cầu thì ngóc lên, đột khởi thành hai cái gò, gò lớn bằng phẳng, gò nhỏ hơi cong cong. Thầy cả cho rằng huyệt kết ở gò lớn, còn thầy hai không tin, bèn lặn lội tìm mãi rồi quả quyết là huyệt kết ở cái gò nhỏ. Hai thầy không ai chịu, bèn hoạ lại kiểu đất, sai người đem về Trung Quốc để hỏi sư phụ của mình. Sư phụ coi bản đồ, nói:
-Đó là kiếu hoàng xà thính cấp (nghĩa là con hoàng xà lắng nghe tiếng của con nhái), mà lúc lắng nghe thì tinh thần tập trung hết ở lỗ tai, vậy thì khí huyết ở lỗ tai. Hai cái gò đất là hai cái tai. Gò lớn mà phẳng là cái tai đã bị điếc, còn như cái gò nhỏ mà hơi cong là gò có khí huyết tụ lại, tức là tai lành. Huyệt ở cái gò nhỏ.
Sau khi nhận được lời chỉ bảo của sư phụ, hai môn đệ lập tức bảo người con trai của cụ, cải táng thi hài cụ vào cái gò nhỏ. Ngôi huyệt ấy toạ lạc ở hướng cẩn (tức hướng Đông Bắc -NK.T), trông ra hướng Khôn (hướng Tây Nam -NKT).
Đến đời thứ ba (cháu nội -NKT) có ông Nguyễn Văn Huy đỗ Thám hoa khoa Kỷ Sửu (1229) thời nhà Mạc, làm quan đến chức Thượng thư rồi về trí sĩ. Con thứ ba của Nguyễn Văn Huy là Nguyễn Trọng Quýnh đỗ Hoàng giáp khoa Đinh Mùi (1547), tức là vào thời Vĩnh Định (vua Phạm Duy Quyết Nguyên), sau cũng làm quan đến chức Thượng thư. Người em của ông Nguyễn Trọng Quýnh là Nguyễn Đạt Thiên, mới mười tám tuổi đã đỗ Hoàng giáp khoa Kỷ Mùi (1559), niên hiệu Quang Bảo nhà Mạc, sau làm quan đến chức Đô Khoa cấp Sự Trung. Em của Nguyễn Trọng Quýnh và Nguyễn Đạt Thiện là Nguyễn Hiển Tích cũng đồ Tiến sĩ khoa Ất Sửu, niên hiệu Thuần Phúc thời Lê trung hưng (tóc năm 1565 - NK.T), sau làm quan đến chức Thị Lang...
Sách trên còn thống kê thêm một loạt những bậc danh Nho thuộc hàng chắt, hàng chiu của cụ Phạm Duy Quyết, nhưng thiết nghĩ, trích dịch ngần ấy kể cũng đã đủ kính nể lắm rồi. Chẳng hay, hậu duệ của cụ Phạm Duy Quyết hiện thời ra sao, cũng chẳng hay, đọc đến đoạn này, bạn sẽ nghĩ gì về đức lớn của những người làm cha, làm mẹ?
THẦY TRÒ CÙNG DỰ THI, TRÒ ĐỖ TRẠNG NGUYÊN, THẦY ĐỖ HOÀNG GIÁPNăm Nhâm Tuất, niên hiệu Quang Bảo thứ 9 (1562), triều đình Mạc Hậu Hợp tổ chức thi Hội, lấy đỗ 18 người, gồm một Trạng nguyên, một Bảng nhãn, một Thám hoa, năm Hoàng giáp và mười Tiến sĩ. Trạng nguyên khoa này là Phạm Duy Quyết, người xã Xác Khuê, huyện Chí Linh (nay là thôn Kim Khê, xã Cộng Hoà, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Và một trong số năm vị Hoàng giáp của khoa này là Nguyễn Khắc Kính, người làng Thanh Hoài, huyện Siêu Loại (nay là thôn Thanh Hoài, xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tình Bấc Ninh). Nguyễn Khắc Kính cũng chính là thầy giáo của Phạm Duy Quyết.
Dã sử cho hay, khi Phạm Duy Quyết mới lên tám tuổi, cha ông đã xuất gia tu hành theo đạo Phật, việc nuôi dạy con đều do mẹ ông đảm đương. Vì gia cảnh khó khăn, cho nên mãi đến lúc đã vào tuổi tráng niên, Phạm Duy Quyết vẫn chưa biết chữ. Thấy mặt ông rất sáng sửa, xóm làng ai ai cũng khuyên mẹ ông gắng cho ông ăn học, nghe lời, mẹ ông dẫn ông tới tận đất Siêu Loại, xin được thọ giáo thầy đồ đang dạy học ở đấy là Nguyễn Khắc Kính. Bấy giờ Nguyễn Khắc Kính tiếng là thầy nhưng còn rất trẻ, kém Phạm Duy Quyết đến hơn một chục tuổi. Mẹ Phạm Duy Quyết thấy vậy thì lấy làm lúng túng, liền hỏi rằng:
-Bẩm thầy, tôi muốn xin thầy cho đứa con này được thọ giáo, vậy xin thầy cho biết, tôi phải sắm lễ vật gì.
Nguyễn Khắc Kính nói:
-Cái chính là ở tâm thành, còn như lễ vật thì tuỳ sức và tuỳ ý.
Bà lại hỏi:
-Gia sản tôi chỉ có một con trâu là đáng giá. Nhưng, vì vui mừng thấy con mình được đi học, tôi xin mồ trâu làm lễ, thầy liệu có được chăng?
Nguyễn Khắc Kính không nói gì. Thế rồi, bà sai mổ trâu cúng Tiên sư thật. Dâng lễ cúng Tiên sư xong, Nguyễn Khắc Kính liền lấy giấy bút để ghi tên học trò mới. Khi nghe người mẹ đọc họ và tên của con bà, Nguyễn Khắc Kính rất lấy làm kinh sợ. Nguyên do là trước đó, ông nằm mơ, thấy thần nhân đến nói cho biết, phải đợi đến năm 31 tuổi ông mới đỗ đại khoa, mà cũng chỉ đỗ được đến Hoàng giáp (tức là đỗ hàng thứ tư, sau Trạng nguyên, Bảng nhãn và Thám hoa nhưng ở trên Tiến sĩ), còn như ngôi vị Trạng nguyên thì đã thuộc về Phạm Duy Quyết!
Nhập học rồi, thấy Phạm Duy Quyết sáng dạ một cách kì lạ, Nguyễn Khắc Kính rất lấy làm hài lòng. Khoa thi Hội năm Nhâm Tuất (1562), thầy trò cũng ứng thí và cùng đổ cao. Trước khi vào thi Đình, Nguyễn Khắc Kính thử vận, liền vờ nói với học trò Phạm Duy Quyết rằng:
-Thôi, ngôi vị Trạng nguyên khoa này, anh hãy nhường cho ta đi.
Phạm Duy Quyết vui vẻ bằng lòng. Nhưng, vừa nhận đề thi xong, Nguyễn Khắc Kính bị đau bụng quằn quại, không sao có thể làm bài nổi. Mãi đến gần trưa, chợt nhớ đến giấc mộng thuở trước, Nguyễn Khắc Kính liền khấn trời đất rằng:
-Con không dám giành ngôi Trạng nguyên với học trò của con là Phạm Duy Quyết nữa, xin thần linh khắp đất rộng trời cao, chứng giám và phù hộ cho con để con có thể làm cho xong bài thi.
Khấn xong, bỗng dưng Nguyễn Khắc Kính liền khỏi đau và rốt cuộc cũng làm xong bài, nhưng không thể sánh với bài của Phạm Duy Quyết được, vì thế, ông chỉ đỗ Hoàng giáp mà thôi. Năm đó, ông vừa 31 tuổi còn học trò của ông là Phạm Duy Quyết thì đã 42 tuổi rồi.
Sau khi đỗ đạt, Phạm Duy Quyết làm quan trải thăng dần đến hàm Đông Các Đại Học Sĩ (tức là một trong tứ trụ của triều đình) còn Nguyễn Khắc Kính thì được phong dần tới chức Thượng thư.
Dân gian đương thời bàn rằng, sở dĩ Phạm Duy Quyết tiến một mạch thật nhanh, ấy là bởi mẹ ông cúng Tiên sư nguyên cả một con trâu. Sức trâu bao giờ cũng hơn sức người, ruộng văn chương dẫu lớn thì cũng chỉ cày mấy năm là xong.
Ngộ thay!