← Quay lại trang sách

- 6 - CÓ MỘT MỐI TÌNH NHƯ THỂ!

Thời nhà Mạc có ông Hoàng Sầm, nguời xã Thù Sơn, huyện Hiệp Hoà, sau ông dời nhà đến xã Quế Trạo, cũng ở huyện nói trên. (Nay, đất làng quê ông thuộc xóm Giếng, xã Hoà Sơn, huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang). Tổ tiên ông đời đời là nông dân. Ông sinh ra trong một gia đình nghèo, cha mất sớm, gia sản chỉ có mấy sào ruộng, hai mẹ con ông nương tựa nhau mà sống. Mãi đến năm ngoài hai mươi tuổi, ông vẫn chưa biết chữ. Sách Tang thương ngẫu lục chép rằng:

“Bấy giờ ở huyện ông có quan Thượng thư Nguyễn Doãn Địch (đỗ Tiến sĩ khoa Tân Sửu, năm Hồng Đức thứ 12, tức là năm 1481 -NKT) về làng trí sĩ. Quan huyện sở tại bắt dân phu phải đi đón rước. Hoàng Sầm cũng là một trong số những dân phu ấy. Ông bị sung vào chân khiêng kiệu cho cô con gái của quan Thượng thư. Khi khiêng kiệu, ông liếc mắt thấy tiểu thư nhan sắc tuyệt vời, lòng rung động khó tả. Về nhà, ông nói với mẹ là muốn cưới cô tiểu thư làm vợ. Người mẹ cười, nói là không được, ông không nghe, mua buồng cau, cố nài mẹ phải đi dạm hỏi cho mình, nhưng lại sợ mẹ nói dối, nên đi bám theo sau mẹ. Bà mẹ không muốn, nhưng cũng sợ con buồn, bèn đến đứng trước cửa nhà quan Thượng thư, lần lừa mãi mà chẳng dám vào. Quan Thượng thư lấy làm lạ, liền cho gọi vào để hỏi. Bà mẹ kêu xin quan tha tội cho, vì chẳng qua bà bị con thúc ép. Quan Thượng thư cười, nói rằng:

-Không sao cả.

Nói rồi, quan cho gọi ông đến để xem ông là người thế nào. Ông mặc mỗi chiếc quần đùi, đến sụp lạy trước thềm nhà. Quan Thượng thư nói:

-Con gái nhà quan, có đâu lại gả cho một kè bạch đinh. Hễ sau này anh làm nên sự nghiệp như ta, anh mới có thể lấy con gái ta được.

Ông lạy hai lạy rồi thưa:

-Xin vâng mệnh quan lớn, nhưng cũng mong quan lớn giữ lời hứa cho.

Về nhà, ông giấu mẹ, bán trộm một sào ruộng được ba mươi quan, lần đường tới kinh đô, xin làm học trò của một bậc danh nho. Ba năm sau, ông đã giỏi lắm, nhân đó, lấy cớ là học trò bị bỏ sót tên, đến xin quan huyện Hiệp Hoà cho được khảo thí. Ông trúng ở trường Huyện, rồi đi thi Hương, đỗ Giải Nguyên (tức đỗ đầu hàng Hương cống, cống sĩ hay Cũ nhân -NK.T). Xong, ông nhờ người về báo cho quan Thượng thư, xin quan chớ sai lời ước cũ, rồi lại về kinh đô dự thi Hội.

Bấy giờ, con gái của quan Thượng thư, tuy cũng đã có mấy đám đến dạm hỏi, nhưng chưa ưng ý ai, vẫn còn ở nhà. Khoa Mậu Tuất, niên hiệu Đại Chính (tức năm 1538 - NK.T) ông 27 tuổi (tính theo tuổi ta -NKT), đỗ Thám hoa. (Khoa này, Giáp Hải đổ Trạng nguyên, Trần Toại đỗ Bảng nhãn và Hoàng Sầm đỗ Thám hoa -NK.T). Hôm vinh quy, ông về làm đám cưới ngay giữa sân nhà quan Thượng thư, người làng ai cũng cho là một sự vinh hạnh hiếm có.

Sau, ông làm quan, được phong tới chức Lê Bộ Tả Thị Lang, tước Hoành Phúc Bá.”

Hình ảnh chàng thanh niên Hoàng Sầm, mặc mỗi chiếc quần đùi, quỳ lạy dưới thềm nhà quan Thượng thư trí sĩ là Nguyễn Doãn Địch, thương hại biết là bao! Nhưng, kẻ phàm phu chỉ thấy được cái vẻ bề ngoài khốn khổ, chẳng thể thấy chí lớn của Hoàng Sầm. Hoá ra, sức mạnh của tình yêu thật khó mà lường được, đủ để biến một anh dân phu quê mùa trở thành một vị Thám hoa tài giỏi, đủ để một người như Hoàng Sầm có thể vượt qua chặng đường đèn sách, từ chỗ chưa biết gì đến hàng tột cùng vinh hiển mà chỉ mất có ba năm. Có một mối tinh như thế, nhưng, cổ kim nào phải chỉ có một mối tinh như thế. Lạ thay, tình yêu!

CHUYỆN LI KÌ VỀ THỜI TRAI TRẺ CỦA TRẠNG NGUYÊN GIÁP HẢI

Giáp Hải (sau đổi gọi là Giáp Trưng), sinh năm Đinh Mão (1507) tại làng Công Luận, huyện Văn Giang (thuộc Hà Bắc cũ), nhưng trưởng thành lại ở làng Dĩnh Kế, huyện Phượng Nhãn (nay là xã Dĩnh Trì, huyện Lạng Giang, tĩnh Bắc Giang), đỗ Trạng nguyên khoa Mậu Tuất (1538), đời Mạc Thái Tông, mất năm Bính Tuất (1586), thọ 79 tuổi. Sau khi đỗ đạt, Giáp Hải làm quan cho nhà Mạc, được phong dần lên đến chức Lục Bộ Thượng thư, kiêm Đông Các Đại Học Sĩ, hàm Thái Bảo, tước Sách Quốc Công. Sinh thời, ông là bậc quyền cao chức trọng, danh vọng khó ai bì và có lẽ cũng chính vì thế mà người đời không ngớt truyền tụng những chuyện li kì về ông. Dưới đây là một trong số những chuyện về thời trai trẻ Trạng nguyên Giáp Hải.

Dân gian kể rằng, sau khi đã thọ giáo với các nhà Nho mở trường dạy học ở làng và ở huyện, Giáp Hải được gia đình gửi đến kinh thành Thăng Long để học tập và chuẩn bị dự thi. Ông mướn được một căn nhà nhỏ ở gần bến Bồ Đề (Gia Lâm, Hà Nội) và nghỉ trọ tại đó một mình. Ngày ngày Giáp Hải phải đi đò qua bên kia sông Hồng để học. Một hôm, khi đến bến Bồ Đề, ông chợt thấy người ta bắt được một con rùa rất đẹp và đang định đem làm thịt ăn. Cho rằng ăn thịt một con rùa xinh đẹp như thế là quá bất nhẫn, Giáp Hải liền đến nài nỉ xin mua lại. Ông phải trả một giá tiền khá cao mới mua được con rùa ấy. Đem rùa về để trong nhà vào cho rùa ăn uống đâu đó rồi, Giáp Hải mới đến trường để học. Từ đó trở đi, con rùa xinh đẹp và bé nhỏ là người bạn thân thiết của Giáp Hải. Khoảng một thời gian ngắn sau, mỗi lần đi học về, Giáp Hải đã thấy cơm canh dọn sẵn, nhà cửa sạch sẽ và gọn gàng, dò la thăm hỏi cũng không biết rằng ai đã cất công giúp đỡ. Ông quyết chí tìm cho ra sự thực. Thế rồi vào một ngày nọ, ông giả vờ đi học như thường lệ, nhưng đến chừng giữa buổi thì quay lại, núp kín ở một góc gần nhà mình để chờ. Bỗng Giáp Hải thấy một cô gái đẹp tuyệt trần, tuổi chừng mười tám đôi mươi, tự dưng hiện ra trong nhà mình. Cô lặng lẽ cầm chổi quét dọn và nhóm bếp nấu cơm. Đúng lúc đó cô đang mải mê làm việc thì Giáp Hải lén đến, ôm chầm lấy cô và nói:

-Chẳng phải cô là hạng sàm sỡ, nhưng... xin cô tha lỗi cho, tôi muốn giữ cô lại để hỏi cho ra lẽ, rằng cô từ đâu đến và tại sao cô lại bí mật giúp đỡ tôi thế này. Chừng nào chưa rõ thực hư, tôi quyết không thể nào buông cô ra được.

Cô gái từ tốn thưa:

-Xin chàng đừng làm thế. Thiếp không trốn đi đâu. Sự thật đã ra thế này thì thiếp cũng chẳng giấu chàng làm gì nữa. Thiếp vốn là con gái của Đông Hải Đại Vương, vì mải vui nên bị người đánh lưới bắt được. Hẳn chàng còn nhớ con rùa bé nhỏ mà chàng đã bỏ cả một khoản tiền lớn ra để mua về nhà và chăm sóc tử tế chứ. Con rùa bé nhỏ tội nghiệp ấy chính là thiếp đây. Cảm ơn sâu nghĩa nặng, thiếp đã thuận lòng ở lại với chàng và bạo dạn giúp chàng đôi chút việc nhà lặt vặt.

Giáp Hải nghe cô gái nói vậy thì buông tay ra và lấy cái mai rùa đem giấu đi. Từ đó, hai người ăn ở với nhau như vợ chồng. Một hôm, cô gái thỏ thẻ nói với Giáp Hải rằng:

-Thiếp với chàng có duyên nợ với nhau, nhưng kẻ dương gian, người thuỷ phủ, đôi đường cách biệt, thật bất tiện vô cùng. Nay nếu thiếp ở lại mãi với chàng thì sợ rằng thân phụ sẽ trách phạt, mà về thuỷ phủ một mình thì thiếp lại chẳng cam lòng. Vậy, xin chàng hãy cùng đi với thiếp, trước là để ra mắt song thân, sau là để thiếp có dịp báo đáp ơn đức cho chàng.

Giáp Hải nói:

-Lời nàng nói thật hay, nhưng ta nay còn nuôi chí lập công danh qua đường khoa bảng, nếu đi cùng nàng thì chẳng có lẽ bỏ lỡ cả việc học hành hay sao?

Cô gái nói:

-Xin chàng chớ có lo. Dưới thuỷ phù cũng có nhiều trường. Cạnh nơi thiếp ở là trường của Trạng nguyên Lương Thế Vinh đấy. Từ ngày tạ thế về với âm cung, Trạng nguyên Lương Thế Vinh được mời đến giảng học cho thuỷ phủ của thân phụ thiếp.

Nghe vậy, Giáp Hải liền đồng ý đi. Ông lấy mai rùa trả lại cho cô gái. Thoắt một cái, cô đã trở lại thành rùa, rẽ nước đưa Giáp Hải xuống thuỷ phủ. Đến nơi, Giáp Hải được Đông Hải Đại Vương đón tiếp rất nồng hậu. Ông được coi là rể quý của Đông Hải Đại Vương. Ít hôm sau, Giáp Hải đến xin thọ giáo Trạng nguyên Lương Thế Vinh. Vừa thấy Giáp Hải, Trạng nguyên Lương Thế Vinh đã nói:

-Con hẳn không phai là người của thủy phù. Vậy, ai đã đưa con đến đây?

Giáp Hải cứ tình thực kể hết đầu đuôi mọi chuyện. Nghe xong, Trạng nguyên Lương Thế Vinh nói:

-Trời đã định cho con đỗ Trạng nguyên và trao cho quyền cao chức trọng. Con hãy về ngay, đừng nấn ná làm gì nữa. Trốn tránh phận trời đã định làm sao được?

Giáp Hải cung kính vâng lời. Đông Hải Đại Vương sai con gái lo lắng cho ông mọi sự một cách chu tất rồi đưa ông trở về dương thế. Ông đến kinh đô vừa kịp lúc đó có khoa thi Hội. Giáp Hải ứng thí và đỗ đạt như đã nói ở trên. Sau khi được vinh hiển với đời, Giáp Hải thường đến xã Cao Hương, huyện Thiên Bản để làm lễ bái tạ trước mộ Trạng nguyên Lương Thế Vinh...

Bạn nghĩ gì về câu chuyện li kì và đượm màu huyền bí ở trên? Có người bàn rằng, sắc đẹp mê hồn của con gái Đông Hải Đại Vương vẫn không hề làm Giáp Hải sao nhãng việc học, sự sang giàu phú quý của thuỷ phủ cũng không khiến Giáp Hải lơ là việc đèn sách, người như ông mà chiếm bảng khôi nguyên thì có gì là lạ đâu? Giáp Hải liều xuống thủy phủ chi vì tin rằng ở đó có trường của đấng Trạng nguyên tài danh đã quá cố là Lương Thế Vinh và Giáp Hải rời thuỷ phủ cũng chỉ vì... một lời khuyên của hồn thiêng Lương Thế Vinh, xem thế cũng đủ biết, tiếng tăm của Lương Thế Vinh ảnh hưởng tới Giáp Hải mạnh mẽ biết là ngần nào!

Muôn đời vẫn vậy, dốc chí “tầm sư học đạo ” đã là khó, nghiêm cẩn làm theo lời khuyên của bậc tôn sư lại càng khó hơn. Bất cứ ai làm được cả hai việc khó ấy cũng đều có thể trở thành người tài. Triết lí của thiên cổ, thực ra cũng chỉ đơn giản như vậy mà thôi. Như Giáp Hải... thử ngẫm mà xem.

VỤ XÉT ÁN ĐẲU NĂM CỦA QUẬN CÔNG LÊ ĐÌNH KIÊN

Dưới thời trị vì của vua Lê Huyền Tông (1662 - 1671) và chúa Trịnh Tạc (1657 - 1682), có Quận công Lê Đình Kiên là người nổi tiếng xét án thông minh, chính xác và công bằng. Ông là người làng Bái Trại, huyện Yên Định, Thanh Hoá, sinh và mất năm nào chưa rõ. Tháng 9 năm Kỉ Dậu (1669), ông được bố làm Trấn Thủ trấn Sơn Nam. Tại đây, Tết năm Canh Tuất (1670), Quận công Lê Đình Kiên đã xét xử một vụ án rất nổi tiếng. Nhiều bộ dã sử, trong đó có Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn đã ghi chép lại khá tỉ mỉ vụ án này. Xin tổng hợp và lược thuật như sau:

Khi ấy ở trấn Sơn Nam có vợ một người phường chèo nọ nhan sắc rất mặn mòi. Ngày Tết là ngày vợ chồng anh phường chèo liên tục phải đi hát xướng khắp mọi nơi, vì thế, tiếng tăm về nhan sắc của vợ anh phường chéo cũng theo đó mà truyền đi ngày một xa. Một hôm, có một khách buôn người Trung Quốc trông thấy, cầm lòng không được, bèn bỏ ra thật nhiều tiền để mời cả hai vợ chồng anh phường chèo xuống thuyền ca hát. Hắn cố chuốc rượu cho người chồng uống thật say rồi bắt người vợ giấu ở phía dưới cột buồm, bắt phải ngậm nhân sâm để khỏi bị tắt thở. Người chồng tỉnh rượu, không thấy vợ đâu nữa, bèn hốt hỏang đi tìm, nhưng người khách buôn lại nói là vợ anh ta đã lên bờ đi đâu rồi. Vì tìm mãi không thấy, anh phường chèo liền làm đơn gởi lên quan. Quận công Lê Đình Kiên bỏ cả chơi xuân, quyết xử cho bằng được vụ án đầy vẻ mờ ám này. Trước hết, ông sai lính đến lục soát khắp thuyền của tên khách buôn, nhưng vẫn không tìm thấy vợ của người phường chèo. Sau ông sai một võ quan thuộc hạ của mình là Duy Vũ, đem lính đến truy tìm lần nữa. Lần này, ông dặn trước với Duy Vũ rằng, hãy làm như thế, như thế,...

Thấy Duy Vũ đem lính tới, tên khách buôn hùng hổ, tuốt gươm ra và quát to lên rằng:

-Lần này, nếu tìm không được, ta sẽ giết anh.

Duy Vũ là người to lớn, lại có võ nghệ cao cường, bèn điềm tĩnh bước tới, giật phăng thanh gươm của tên khách buôn, trói anh ta lại rồi mắng rằng:

-Thế ra mày muốn chống lại lệnh quan trên hả?

Mắng xong, Duy Vũ cùng tốp lính bắt trói hết tất cả những người ở trong thuyền, giải về nạp Quận công Lê Đình Kiên. Quận công Lê Đình Kiên sai bắt giam mỗi người một nơi, lấy sẵn dụng cụ tra tấn ra để uy hiếp, thế mà chẳng có tên nào chịu thú nhận cả. Ông liền hạ lệnh bắt hai tên ra đánh cho mấy đòn thật đau, đồng thời, bắt một tên khách cho dẫn qua dẫn lại ở phía ngoài, cốt sao cho hắn trống thấy việc đồng bọn đang bị tra khảo. Xong, ống sai dẫn hai tên đã bị tra khảo đi nơi khác và dẫn tên chưa bị tra khảo vào và quát:

-Bọn kia bị tra khảo đã khai nhận hết mọi tội lỗi rồi, lời khai đã được ghi cả vào giấy tờ đây. Đến lượt mày, mày có nhận phần lỗi của mày hay lại giấu giếm chối cãi?

Quận công Lê Đình Kiên vừa nói vừa đưa tờ giấy cho người này thoáng thấy. Hắn hoang mang lo sợ, bèn khai hết đầu đuôi mọi chuyện. Quận công Lê Đình Kiên liền sai người giải hắn về thuyền, quả nhiên, tìm ở phía dưới cột buồm thì thấy vợ người phường chèo ở đó. Hết đường chối cãi, tên khách buôn bị phạt trượng (tức là bị đánh bằng gậy) và bị nộp phạt đến bảy chục dật bạc. (Mỗi dật tương đương với hai mươi bốn lạng, tức là tổng cộng lên đến 1.680 lượng bạc.)

Vụ án nói trên tuy không phải là lớn, nhưng xem ra cũng có không ít điều đáng để cho hậu thế suy gẫm. Truớc hết, đó tuy là thời loạn, nhưng, một người phường chèo thấp cổ bé miệng, bị người đương thời cho là hạng “xướng ca vô loài”, vẫn có thể dễ dàng tìm đến cửa quan (mà là quan cao cấp) với tất cả niềm tin cậy của mình. Chừng nào mà dân còn có thể dễ dàng đến với cửa quan để nhờ cậy, thì chừng đó, phép nước vẫn còn có ý nghĩa nhất định của nó

Vụ án xảy ra vào dịp Tết, dịp mà mọi án kiện ngục tụng đều tạm gác lại để các quan còn ngơi nghĩ và vui xuân, thế nhưng, Quận công Lê Đình Kiên vẫn không chút câu nệ. Ông gác ra ngoài tất cả để quyết xử nhanh, xử đúng tội trạng của kẻ gian manh. Đó là một điều đáng kính. Với Quận công Lê Đình Kiên, mạng người là rất quan trọng, cho dẫu đó là mạng của một người ở dưới đáy của xã hội. Vì mạng người, ông quyết không buông vũ khí công lí ở trong tay. Đó là hai điều đáng quý. Quan xét án mà gồm đủ cả hai điều đáng quý ấy thì đời tôn kính nhắc nhở, sách vở trân trọng ghi chép lại, kể cũng là lẽ tự nhiên.

LÒNG CƯƠNG TRỰC VÀ TÀI XÉT ÁN CỦA NỘI TÁN NGUYỄN KHOA ĐĂNG

Dưới thời trị vì của các chúa Nguyễn. Nội Tán là một trong những chức quan cao cấp của xứ Đàng Trong. Hẳn nhiên là có rất nhiều người từng được trao chức Nội Tán, nhưng, quan Nội Tán trẻ tuổi mà lừng danh hơn cả vẫn là Nguyễn Khoa Đăng, thậm chí, hễ nói đến Nội Tán là xã hội lại nghĩ ngay đến Nguyễn Khoa Đăng. Vậy, ông là người như thế nào? Sách Đại Nam liệt truyện (tiền biên, quyển 5) cho biết rằng...

Nguyễn Khoa Đăng là con thứ của Nguyễn Khoa Chiêm. Họ Nguyễn Khoa vốn dĩ là Nguyễn Đình, gốc ở Hải Dương. Thời Nguyễn Hoàng vào trấn thủ ở Thuận Hoá, dòng họ này có Nguyễn Đình Thân cũng đi theo. Đến nơi, Nguyễn Đình Thân định cư tại huyện Hương Trà, phủ Thừa Thiên và đổi gọi là Nguyễn Đình thành Nguyễn Khoa. Nguyễn Khoa Chiêm là đời thứ ba của của họ Nguyễn Khoa tại Hương Trà.

Nguyễn Khoa Chiêm là một văn tài của xứ Đàng Trong, ông là tác giả của bộ tiểu thuyết lịch sử Trịnh -Nguyễn diễn chí rất có giá trị. Sinh thời, Nguyễn Khoa Chiêm từng được chúa Nguyễn Phúc Chu phong đến tước Bảng Trung Hầu. Ông có hai người con trai rất nổi tiếng với đời, đó là Nguyễn Khoa Hợp và Nguyễn Khoa Đăng.

Nguyễn Khoa Đăng sinh năm Tân Mùi (1691). Lớn lên, vì là con nhà gia thế, ông được bổ làm Văn Chức. Nhờ bẩm tính thông minh lại có khả năng quyết đoán, cho nên, chẳng bao lâu sau khi nhận chức, Nguyễn Khoa Đăng đã được chúa Nguyễn để ý cất nhắc.

Năm Nhâm Dần (1722). khi vừa mới được 23 tuổi, Nguyễn Khoa Đăng đã được thăng làm Nội Tán, kiêm Án Sát Sứ, Tổng Tri Quân Quốc Trọng Sự. Đó là chức quan cao cấp mà nhiều người làm quan cả đời vẫn không dám mơ tới. Thường thường, trước khi cử hành việc lớn, Nguyễn Khoa Đăng luôn cân nhắc thật cẩn trọng, xong, vạch kế hoạch dâng lên, nếu được duyệt làm mới làm, mà đã làm là làm tới nơi tới chốn. Đại Nam liệt truyện đã trân trọng chép mấy sự kiện đặc biệt có liên quan trực tiếp tới Nguyễn Khoa Đăng.

Sự kiện thứ nhất diễn ra vào khoảng sau năm 1722 một chút. Sách này chép rằng: “Đường rừng Nhà Hồ (tức Hồ Xá) thường có kẻ cướp tụ họp, khiến cho người đi đường rất sợ hãi. Chúa biết chuyện ấy, liền sai Nguyễn Khoa Đăng đi kinh lí đặt ra phép bắt trộm cướp, mệnh lệnh rất nghiêm minh. Từ đó, bọn cướp im bặt. Bấy giờ, bờ biển Tam Giang, tức là xứ Bào Ngược (ở hai xã Vinh Xương và Kể Môn, thuộc huyện Quảng Điền) nước sâu mà sông thì cong, chảy xiết lắm. Vào mùa thu và mùa đông, nơi này hay có sóng to gió dữ. Thuyền đi qua thường bị đắm luôn. Nguyễn Khoa Đăng liền sai dân đào đất, nắn cho sông chảy thẳng, khiến cho nước bớt xoáy, thuyền bè qua lại dễ dàng hơn, khách buôn và nhân dân đều lấy đó làm tiện lợi nên không ngớt ca ngợi”...

Lời ca ngợi của nhân dân không chỉ truyền tụng một thời mà là mãi mãi. Về sự kiện thứ nhất này, hẳn bạn đã từng biết đến qua câu ca dao:

Thương em anh cũng muốn vô,

Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang

Phá Tam Giang ngày nay đã cạn,

Truông nhà Hồ, Nội Tán cấm nghiêm.

Sự kiện thứ hai cũng diễn ra sau khi Nguyễn Khoa Đăng nhận chức Nội Tán, còn như vào năm cụ thể nào thì chưa rõ. Đại Nam liệt truyện chép:

“Nguyễn Khoa Đăng là người nghiêm giữ lòng ngay thẳng, không vị nể bất cứ ai, kể cả những nhà gia thế. Bấy giờ, nhiều hoàng thân quốc thích ăn chơi xa xi, thường vay mượn tiền kho, lâu ngày không chịu trả, Nguyễn Khoa Đăng liền xin đi đòi nợ. Trước khi đi, ông nói với Chúa rằng:

-Phép nước phải bắt đầu thực hiện từ người họ gần trước thì may ra việc mới thành công được.

Chúa vâng theo. Có một Trưởng Quận chúa nợ công quỹ rất nhiều mà quan lại không ai dám tới đòi. Nguyễn Khoa Đăng biết vậy, liền sai bọn thị tì rình lúc Trương Quận chúa đi ra thì tới níu xe lại mà đòi nợ. Bà ta giận quá vào cung kêu khóc với Chúa rằng:

-Chúa thượng chẳng lẽ không bênh vực chị mình ư? Nội Tán là gì mà dám làm như thế?

Chúa an ủi một lúc rồi nói:

-Phép nước phải bắt đầu thực hiện từ người họ gần trước. Nội Tán chấp hành đúng, biết nói thế nào được?

Nói xong, Chúa bèn cho chị minh tiền để trả, không dám chậm trễ nữa. Từ đó trở đi, những người còn mắc nợ liền đem tiền đến trả, không ai dám dây dưa như trước.”

Sự kiện thứ ba chép chuyện bốn lần xét án Nguyễn Khoa Đăng, Đại Nam liệt truyện chép rõ bốn lần xét án này như sau:

“Đời truyền là có người trồng dưa, đêm bị kẻ khác dùng xẻng phá huỷ đi. Không rõ kẻ đó là ai, nhưng chủ nhà vẫn đem việc lên kiện. Bấy giờ, Nguyễn Khoa Đăng liền sai thu hết xẻng của mọi nhà trong làng ấy đến và ra lệnh ghi rõ tên chủ nhân của từng chiếc xẻng. Xong, ông sai người liếm xẻng thì thấy một cái có vị đắng. Lập tức, Nguyễn Khoa Đăng cho bắt chủ chiếc xèng ấy ra tra khảo, quả nhiên đúng hắn là kẻ phá huỷ ruộng dưa.

Lại có chuyện người hàng dầu bị tên mù ăn trộm tiền. Tên mù lấy cớ là mù, không chịu nhận tội ăn trộm. Người hàng dầu đến kiện, Nguyễn Khoa Đăng liền đem số tiền trong túi tên mù thả xuống nước, thì thấy quả nhiên có váng dầu nổi lên. Tên mù khi ấy mới chịu, còn mọi người thì ai cũng phục.

Chuyện khác kể rằng, ở truông nhà Hồ có vụ án lái buôn đi buôn giấy bị bọn bất lương cướp mất hàng mà chẳng để lại dấu vết gì cả. Người lái buôn đem việc ấy đi thưa kiện.

Nguyễn Khoa Đăng bình tĩnh sai dân trong vùng, mỗi người phải lấy giấy kê rõ họ tên quê quán của mình. Giá giấy vì thế mà đắt lên. Bọn kẻ cướp nhân đó đem giấy ra bán. Vụ án nhờ vậy mà nhanh chóng được phanh phui.

Có một vụ án, Nguyễn Khoa Đăng đã dò la được họ tên của bọn cướp, nhưng (vì chưa có chứng cớ rõ ràng) nên vờ như không biết. Nhân đầu làng ấy có một tảng đá to, dân làng vẫn thờ làm thần, Nguyễn Khoa Đăng liền nghĩ ra một mưu kế. Ông sai người bí mật đào hầm ở giữa sân, phía trên che kín, phía dưới cho người núp sẵn, xong, hạ lệnh đem tảng đá thần đến để cho ông... xét xử. Nguyễn Khoa Đăng vừa tra khảo, vừa hỏi họ tên kẻ cướp. Người núp sẵn dưới tảng đá vừa than khóc kêu đau, vừa khai vanh vách họ tên kẻ cướp. Nguyễn Khoa Đăng liền sai bắt, chúng đều nhận tội hết.

Năm 1725, Nguyễn Cửu Thế vốn có thù ghét với ông, nhân lúc chúa Nguyễn Phúc Chu qua đời, đã lập mưu giết hại ông. Năm ấy, Nguyễn Khoa Đăng mới vừa 34 tuổi. Tiếc thay!

SAU HAI VỤ ÁN, NGHĨ VỀ CHÂN TƯỚNG CỦA NGUYỄN CỬU THẾ

Nguyễn Cửu Thế là cháu nội của Nguyễn Cửu Kiều (1599 -1656) và là con của Nguyễn Cửu Ứng (1634 -1705). Họ Nguyễn Cửu này vốn gốc ở huyện Tống Sơn (Thanh Hoá) rất được chúa Nguyễn tin dùng, ông và cha của Nguyễn Cửu Thế đều là tướng lĩnh cao cấp của chúa Nguyễn. Riêng Nguyễn Cửu Kiều còn được kết hôn với Quận Chúa Nguyễn Thị Ngọc Đinh, tức là được làm con rể của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên. Đáp lại sự tin cậy của các chúa Nguyễn, dòng họ Nguyễn Cửu cũng luôn luôn bày tỏ sự trung thành tuyệt đối của mình.

Nhờ có tiếng tốt của ông và cha, ngay khi vừa mới bước vào độ tuổi trưởng thành, Nguyễn Cửu Thế đã được chúa Nguyễn Phúc Trăn ban ơn, cho được hưởng chế độ tập ấm, trao chức Quản đội của đội Tiểu Sai (chức quan võ bậc thấp trong phủ chúa đương thời). Sau, Nguyễn Cửu Thế được phong dần lên đến chức Chưởng Cơ là chức võ quan cao cấp nhất của xứ Đàng Trong.

Tiếc thay, khi đã có danh vọng lớn với đời, Nguyễn Cửu Thế lại là người thất đức. Sách Đại Nam chính biên liệt truyện (Tiền biên, quyển 4) chép chuyện Nguyễn Cửu Thế, trong đó có nói đến sự liên luỵ của Nguyễn Cửu Thế đối với hai vụ án lớn. Xin được tóm lược như sau:

Vụ án thứ nhất xảy ra vào năm Kỉ Sửu (1709). Bấy giờ, em ruột của Nguyễn Cửu Thế là Nguyễn Cửu Khâm cùng với quan Nội Hữu Chưởng Doanh là Tống Phúc Thiệu, vì không bằng lòng với chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 -1725) cho nên đã lỡ lời nói xấu Chúa. Biết được chuyện này, thay vì chân thành khuyên bảo em, Nguyễn Cửu Thế lại thêu dệt thành chuyện mưu phản rồi tâu lên Chúa. Sách trên có đoạn nguyên văn (phiên dịch) như sau: “Nhằm ngày đầu năm, phủ Chúa có lễ đại duyệt, sau khi các quan làm lễ chầu hầu xong. Chúa bèn xuống chỉ bắt ngay bọn (Nguyễn Cửu) Khâm và (Tống Phúc) Thiệu để giao cho đình thần tra xét. Chúng đều nhận tội. Xét thấy (Nguyễn Cửu) Khâm là kè chủ mưu, đình thần khép vào tội phải xử tử, (Tống Phúc) Thiệu là kẻ a tòng thì bị phế làm thứ dân. Chúa cho rằng (Nguyễn) Cửu Thế là người biết lo dẹp yên nội loạn, bèn cho thăng làm Nội Hữu Chưởng Doanh. Chúa lại còn riêng tặng cho (Nguyễn Cửu Thế) đôi câu đối (phiên âm) như sau:

Vi đống, vi lương, trọng trấn Nam triều lương Hữu Bật;

Thức kim, thức ngọc, tráng ngô Quốc Lão điện bàn an.

Nghĩa là:

Làm cột, làm rường, trọng trấn Nam triều như Hữu Bật;

Tựa vàng, tựa ngọc, xứng thay Quốc Lão vững bàn an.

Sau lời đặc biệt khen ngợi này, Chúa còn vui đem Quận chúa Nguyễn Thị Ngọc Phượng, trước đã định gả cho (Tống Phúc) Thiệu mà gả cho (Nguyễn) Cửu Thế.”

Vụ án thứ hai xảy ra vào mùa hạ năm Ất Tị (1725). Bấy giờ ở xứ Đàng Trong có dòng họ Nguyễn Khoa cũng rất nổi tiếng. Họ Nguyễn Khoa nguyên là họ Nguyễn Đình, tổ tiên người gốc Hải Dương. Người đầu tiên vào xứ Đàng Trong là Nguyễn Đình Thân, ông nhập tịch ở huyện Hương Trà (nay thuộc Thừa Thiên -Huế). Con của Nguyễn Đình Thân là Nguyễn Khoa Chiêm, từng làm quan tới chức Tham Chánh Doãn Sự. Con của Nguyễn Khoa Chiêm là Nguyễn Khoa Đăng, ngay từ lúc còn rất trẻ đã nổi tiếng tài hoa. Năm 1722, khi vừa tròn 30 tuổi, Nguyễn Khoa Đăng đã được phong tới chức Nội Tán kiêm Án Sát Sứ, Tống Trị Quân Quốc Trọng Sự. Hẳn bạn đã từng nghe câu ca dao:

Thương em anh cũng muốn vô,

Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang

Phá Tam Giang ngày nay đã cạn,

Truông nhà Hồ, Nội Tán cấm nghiêm.

Truông nhà Hồ ở Hồ Xá (Quảng Bình) là nơi lắm trộm cướp. Phá Tam Giang ở Quảng Điền (Thừa Thiên -Huế) là nơi lắm gió to sóng dữ. Và, Nội Tán chính là Nguyễn Khoa Đăng, người có tài trị dân, khiến cho vùng truông nhà Hồ được bình yên. Cũng trong sách đã dẫn ở trên có đoạn:

“Quan giữ chức Nội Tán là Nguyễn Khoa Đăng vốn tính trung trực, luôn lo giữ nghiêm phép nước, cho nên, (Nguyễn) Cửu Thế lấy làm ghét, bèn tìm cách để buộc tội. Mùa hạ năm Ất Tị (tức là năm 1725 -NK.T), sau khi Hiển Tông (tức Quốc Chúa Nguyễn Phúc Chu) qua đời, (Nguyễn Cửu) Thế bèn phao tin rằng (Nguyễn Khoa) Đăng mật sai bọn cung nhân (trong phủ Chúa), lấy ấn truyền quốc làm bằng vàng đem cất giấu đi, cốt mưu việc phế lập. Nguyễn Cửu Thế còn giả làm di mệnh của Chúa, cho triệu (Nguyễn Khoa) Đăng về rồi giết chết (Nguyễn Khoa) Đăng ở ngay trên đường về.”

Bấy giờ, nhiều người tin chuyện Nội Tán Nguyễn Khoa Đăng lập mưu phế lập là có thật. Phải đợi đến sau mùa hạ năm Canh Tuất (1730), tức là sau khi Nguyễn Cửu Thế đã qua đời, sự thật về vụ án thứ hai này mới được phơi bày, nhưng, vì thấy chúa Nguyễn Phúc Chú (1725 -1738) không đả động gì lại còn truy tặng cho Nguyễn Cửu Thế rất hậu, cho nên, chẳng ai dám dâng sớ hạch tội Nguyễn Cửu Thế cả. Thấy chúa Nguyễn Phúc Chú phong cho các con của Nguyễn Cửu Thế là Nguyễn Cửu Quý chức Tả Quân Đô Đốc, tước Uy Quận Công, Nguyễn Cửu Thông chức Nội Tả Chưởng Cơ, tước Kính Quận công và Nguyễn Cửu Pháp chức Ngoại Hữu Chưởng Doanh, tước Hoán Quận Công,... thiên hạ lại có người cho rằng Nguyễn Cửu Thế là người đại đức!

Thời chúa Nguyễn Phúc Chu và chúa Nguyễn Phúc Chú được coi là thời thịnh trị của họ Nguyễn ở xứ Đàng Trong. Nhưng, rất tiếc là ngay trong thời thịnh trị ấy, phép nước đã bắt đầu bị coi thường. Như Nguyễn Cửu Thế mà trọn đời được bình an giữa cõi trời cao đất dày thì quả là lạ lắm!

Hình như đường tiến thân của Nguyễn Cửu Thế luôn luôn là đường hãm hại kẻ khác. Làm anh mà không chân tình chỉ bảo cho em, chỉ rắp tâm đẩy em vào chỗ chết để mình được Chúa tin dùng, cổ kim chẳng mấy ai nhẫn tâm đến thế! Chẳng hay, màu chữ đỏ của đôi câu đối mà chúa Nguyễn Phúc Chu viết tặng Nguyễn Cửu Thế có giống như màu máu của em trai Nguyễn Cửu Thế là Nguyễn Cửu Khâm? Chẳng hay, sau đêm tân hôn cùng Quận Chúa Nguyễn Thị Ngọc Phượng, có bao giờ Nguyễn Cửu Thế mơ thấy hồn oan của em mình lớn vởn đó đây?

Lập mưu giết hại Nội Tán Nguyễn Khoa Đăng, Nguyễn Cửu Thế đã bộc lộ đầy đủ bản chất nham hiểm của mình. Nguyễn Khoa Đãng chết mà tiếng thơm để mãi đến muôn đời, còn Nguyễn Cửu Thế thì ngược lại, được sống thêm mà chỉ tổ chất chứa nỗi nhục, ngàn năm chưa dễ rửa sạch đâu! tâm địa Nguyễn Cửu Thế, gớm thay!

Nhưng, riêng trách Nguyễn Cửu Thế có lẽ cũng có chỗ chưa phải. Bấy giờ, sở dĩ Nguyễn Cửu Thế có đất để thoải mái dung thân, ấy là bởi trên Nguyễn Cửu Thế còn có chúa Nguyễn. Ôi, đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu, rõ là chí lí thay!