← Quay lại trang sách

- 7 - ĐỨC NGHIÊM CẨN CỦA TUẦN PHỦ ĐẶNG ĐẠI ĐỘ

Ngạn ngữ Pháp có câu: “Hãy làm theo những điều tôi nói, chớ làm theo những điều tôi làm.”Nhưng, đó là câu của người Pháp, của phương Tây... Trong quá khứ của dân tộc ta, có không ít những người nói rất hay và làm cũng rất giỏi, rất đáng để cho hậu thế noi theo. Một trong số những người ấy là quan Tuần phủ Đặng Đại Độ.

Đặng Đại Độ là con của Đặng Đại Lược, người huyện Phong Đăng (nay thuộc tình Quảng Bình). Đặng Đại Lược nhờ có văn tài mà được chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738 - 1765) bổ làm quan. Khởi đầu, Đặng Đại Lược tập sự ở Văn Chức Viện, đến năm 1741 thì thăng làm quan Kí lục của dinh Bố Chính và đến năm 1746 thì thăng làm Cai bạ dinh Quảng Nam. Sử cũ cho hay, Đặng Đại Lược là người thanh liêm, cho ai cái gì hoặc giả là nhận của ai cái gì cũng đều suy xét rất kĩ. Ai dâng chút gì chỉ có giá trị vật chất thật nhỏ thì ông mới nhận, còn hơi lớn một chút là ông từ chối, nói rằng:

-Nhà đã có dư thừa cho nên không dám nhận chứ chẳng phải là bày đặt nói năng màu mè gì đâu.

Nhà họ Đặng ở huyện Phong Đăng đúng là nhà cha tài con giỏi. Đặng Đại Lược được Chúa sủng ái và con ông là Đậng Đại Độ cũng có danh thơm với đời. Thuở thiếu thời, Đặng Đại Độ nổi tiếng văn hay chữ tốt. Lúc mới vào tuổi trưởng thành, ông đỗ Hương tiến (tức Cử nhân) và được Chúa Nguyễn Phúc Khoát bổ làm quan. Năm 1748, khi cha làm Cai bạ dinh Quảng Nam thì Đặng Đại Độ được bố làm Kí lục dinh Bình Khang. Một nhà, hai cha con cùng được Chúa tin cậy mà trao trọng trách, đời bấy giờ cho là hiếm. Sinh thời, Đặng Đại Độ là người rất nghiêm cẩn, tự xét mình một cách rất nghiêm khắc. Sách Đại Nam liệt truyện (Tiền biên, quyển 5) có đoạn chép về Đặng Đại Độ như sau:

“Đại Độ làm quan còn liêm khiết hơn cả cha. Ai đưa tặng bất cứ món gì Đặng Đại Độ cũng nhất quyết từ chối. Người đời khen ông là trong sạch. Sau, Đại Độ được bổ làm Kí lục dinh Trấn Biên (vùng Bà Rịa -Vũng Tàu cộng với Đồng Nai, Binh Dương, Bình Phước, Lâm Đồng ngày nay -NKT). Bấy giờ, có hai viên cai đội là kẻ hầu cận của Chúa đi vào Trấn Biên để tìm bắt ca nhị đem về phủ Chúa. Chúng cậy thế, làm nhiều chuyện hống hách, trái với phép nước. (Đặng) Đại Độ liền hạ lệnh bắt chúng mà xé xác ra rồi đem treo ở cửa chợ. Xong, (Đặng Đại Độ) tự mặc áo đơn, đeo gông ngắn, đi bộ ra tận kinh (chỉ Huế ngày nay -NK.T) để xin chịu tội. Khi ấy, Đặng Đại Độ có một người cháu gọi ông bằng chú ruột đi theo. Người cháu đề nghị với Đại Độ thuê người dùng võng mã cáng đi cho đỡ mỏi chăn. Ông gạt đi và nói rằng:

-Làm gì có chuyện tội nhân mà mong được nhàn hạ khỏe khoắn?

Đi bộ hơn một tháng thì tới kinh, ông trình mọi việc với Hình Quan và xin được vào ngục để chờ xét xử. Hình Quan đem việc tâu lên Chúa, Chúa liền cho gọi (Đặng Đại Độ) vào. Đặng Đại Độ một mình đi vào không mặc triều phục. Chúa (thấy thế) liền sai cấp cho ông mũ áo. Đặng Đại Độ xin được chịu tội, Chúa an ủi, nói rằng:

-Ngươi đâu có tội gì mà tự làm khố mình đến thế? Trước đây, ta sai người đi tuyển chọn vài ca nhi để khi nhàn rỗi thì tiêu khiển, có ngờ đâu bọn được sai đi đều là tiểu nhân, cậy thế mà ức hiếp người. Ngươi giết đi là phải. Chẳng có tội gì cả. Hãy quên chuyện ấy đi.

Thế rồi, Chúa thăng cho Đặng Đại Độ chức Tuần phủ Gia Định, lại còn cho ông được quyền tuần hành khắp năm phủ, được quyền thăng giáng các quan lại địa phương (dưới mình). Và, chẳng bao lâu sau đó thì ông mất.”

Sách trên còn cho biết thêm rằng, đáng lẽ chuyện liêm khiết và nghiêm cẩn cho cha con Đặng Đại Lược, Đặng Đại Độ phải được đưa vào Thực lục (tức là bộ chính sử lớn nhất viết về thời Nguyễn, gồm 453 quyển -NKT) nhưng vì những ghi chép có liên quan phát hiện ra quá muộn nên không kịp đưa.

Đặng Đại Độ nghiêm trị hai kẻ bất lương để ban phước cho muôn người, đó âu cũng là sự thường của người làm quan trong muôn thuở. Nhưng, nghiêm giữ phép nước đã là khó, nghiêm giữ mình theo đúng phép nước lại càng khó hơn. Việc Đặng Đại Độ tự đeo gông vào cổ rồi đi bộ ra kinh sẵn sàng chịu tội, tất nhiên, chưa phải là cách hay nhất, nhưng, đó quả thật là việc không dễ làm. Bước chân dặm trường ấy khiến cho cả đến Chúa cũng phải sợ. Chúa đon đả với Đặng Đại Độ, bởi vì, chừng như Chúa cũng là tòng phạm chợt tỉnh ngộ đó thôi.

Từng nghe, quan toà xử tội nhân chứ chưa từng nghe quan toà tự xử quan toà, thế mà Đặng Đại Độ... Phải chi, khắp cả đông tây và khắp cả mọi thời, quan tòa nào cũng biết nghiêm xử với mình trước khi nghiêm xử với người, đại để như Tuần phủ Đặng Đại Độ trong câu chuyện kể ở trên.

Vâng, phải chi...

SAU 265 NĂM, THỬ LẬT LẠI HỒ SƠ VỤ ÁN TRẦN ĐẠI ĐỊNH

265 năm trước đây, hồ sơ một vụ án lớn đã được hoàn tất tại Gia Định (vùng Nam Bộ ngày nay), bị cáo của vụ án này lại là một võ quan cao cấp, người đang lập được nhiều công lao, cuối cùng, tuy vụ án không được chính thức đưa ra xét xử, nhưng, dư luận lại rất xôn xao.

Võ quan cao cấp nói trên là Trần Đại Định, con trai của tướng Trần Thượng Xuyên (tức Trần Thắng Tài). Theo ghi chép của các bộ sách như Đại Nam thực lục và Đại Nam liệt truyện thì Trần Thượng Xuyên người Quảng Đông (Trung Quốc), từng là quan Tổng Binh của nhà Minh. Khi nhà Minh bị nhà Thanh lật đổ (năm 1649), Trần Thượng Xuyên tham gia phong trào bài Thanh phục Minh (bài trừ nhà Thanh, khôi phục nhà Minh), nhưng phong trào này bị nhà Thanh đánh bại, Trần Thượng Xuyên cùng với các tướng khác như Trần An Bình, Dương Ngạn Địch, Hoàng Tiến... đem hơn 3000 binh sĩ đến xin các chúa Nguyễn cho được dung thân ở xứ Đàng Trong. Chính ông và phó tướng Trần An Bình cùng với thuộc hạ đã có công tổ chức khai khẩn đất đai, đặc biệt, đã lập ra khu buôn bán rất sầm uất ở Cù Lao Phố (Biên Hoà, Đồng Nai). Sinh thời, Trần Thượng Xuyên là người rất trung thành với chúa Nguyễn, từng được chúa Nguyễn phong tới chức hàm Đô Đốc.

Trần Đại Định sinh tại Biên Hoà, còn như vào năm cụ thế nào thì chưa rõ. Đến tuổi trưởng thành, do có cha là võ quan cao cấp và được Chúa rất mực tin cậy và thương yêu, cho nên, Trần Đại Định được hưởng chế độ tập ấm, nghĩa là cũng được nối nghiệp cha làm quan, tất nhiên là bắt đầu bằng chức võ quan bậc thấp. Năm 1732, khi Trần Đại Định đang lập được nhiều công lao, khi ngỡ như ông đang chuẩn bị được tưởng thưởng thật trọng hậu, thì Trần Đại Định lại bị giam ở Quảng Nam để rồi chỉ ít lâu sau đó là bị chết ở trong ngục. Vì sao kết cục cuộc đời Trần Đại Định lại bi thảm như vậy? Cũng căn cứ vào ghi chép chủ yếu của hai bộ sử nói trên, chúng ta có thể lật lại hồ sơ vụ án này như sau:

Sau khi được hưởng chế độ tập ấm và được bổ làm quan, Trần Đại Định ngày đêm rèn luyện và lo nghĩ, lòng chỉ mong làm tốt chức phận của mình. Chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) và chúa Nguyễn Phúc Chú (1725 -1738) đều rất hài lòng về ông, vì thế, Trần Đại Định được thăng quan tiến chức khá nhanh. Đầu đời Nguyễn Phúc Chú, Trần Đại Định là võ quan cao cấp, chỉ huy quân chủ lực của Chúa ở vùng Gia Định. Bấy giờ, Gia Định là vùng đất rộng, dân thưa nhưng kinh tế lại rất trù phú, giữ được đức thanh liêm khi làm quan ở đây thật chẳng dễ một chút nào. Trước Trần Đại Định và đồng thời với Trần Đại Định, không ít văn quan võ tướng đã bị thân bại danh liệt khi cầm quyền ở đây. Cũng thời bấy giờ, Gia Định là đất thường bị ngoại xâm quấy phá. Giặc không tiến hành tổ chức những cuộc xâm lăng có quy mô lớn, nhưng, với lối đánh bất ngờ và hiểm hóc, chiến sự nơi đây cũng thường xuyên ác liệt. Nếu không phải là bậc dũng tướng giàu mưu lược, thật khó lòng giữ yên được đất

Năm Nhâm Tí (1732), chúa Nguyễn giao việc trấn giữ đất Gia Định cho ba vị tướng, đó là Trương Phúc Vĩnh, Trần Đại Định và Nguyễn Cửu Triêm. Tướng Trương Phúc Vĩnh là kẻ tham lam, nhận hối lộ của giặc, trù trừ để mặc mọi việc cho Trần Đại Định và Nguyễn Cửu Triêm lo toan. Việc ăn hối lộ xấu xa này bị binh sĩ dưới quyền của Trương Phúc Vĩnh phát giác, làm đơn tố cáo lên, khiến Trương Phúc Vĩnh bị chúa Nguyễn Phúc Chú quở trách rất nặng nề. Thay vì tỉnh ngộ nhận lỗi mà tu tâm dưỡng đức, Trương Phúc Vĩnh lại lấy đó là điều oán giận. Và, giận Chúa không được thì đem lòng oán giận luôn cả các tướng cùng vào sinh ra tử với mình. Giặc tới, Trương Phúc Vĩnh, Trần Đại Định và Nguyễn Cửu Triêm ước hẹn chia quân cùng nhau tiến đánh. Trần Đại Định đánh rất hăng, đuổi giặc ngày đêm rất gấp. Trương Phúc Vĩnh không đem quân tiếp ứng mà ung dung nghĩ ngơi và tiếp tục nhận hối lộ của giặc. Đã thế, Truơng Phúc Vĩnh còn sai bọn tay chân, cùng nhau dâng thư về phủ Chúa, nói rằng: Trần Đại Định không chịu cho quân đi đánh, vì thế, tình hình Gia Định ngày một xấu đi. Thư tố cáo ấy đến phủ Chúa thì cũng là khi Trần Đại Định thắng trận trở về. Nghe được tin này, ông vô cùng uất ức, liền lập tức dùng thuyền nhẹ đi nhanh ra Huế để vào tận phủ Chúa mà tự mình kêu oan. Đến Bát Sơn (Quảng Ngãi), ông vào nhà người em họ tên là Thành để nghi. Em họ ông nói:

-Trương Phúc Vĩnh là con nhà thuộc dòng dõi gia thế, mình tranh cãi với họ thế sao được. Thôi, bỏ qua mọi chuyện đi có phải là hơn không?

Trần Đại Định nói:

-Nhà ta, cả cha lẫn con đều chịu ơn lớn lao của Chúa, nay nếu bị tướng ngoài biên cõi tố cáo sai lệch, nếu ta nhịn mà bỏ đi, thì đối với Chúa là bất trung, đối với cha là bất hiếu, đối với chính mình là tự ôm lấy nỗi nhục. Nhịn thế nào được.

Em họ ông can mãi không được, bèn lấy thuyền đưa ông đi, nhưng, thay vì ra Huế thì cứ theo hướng Đông mà đi mãi. Trần Đại Định biết bị mắc lừa, liền rút gươm chém chết em họ rồi cho thuyền quay vào. Đến Quảng Nam, ông cho thuyền vào Đà Nằng, làm tờ trần tình mọi sự, nhờ quan cai quản dinh Quảng Nam dâng lên Chúa. Trước đó, các quan trong phủ Chúa đã nhận được thư tố cáo của Trương Phúc Vĩnh, cho nên, nhiều người chỉ muốn đem ông ra trị tội ngay. Nhưng, chúa Nguyễn Phúc Chú thì nửa tin nửa ngờ, vì thế, chỉ ra lệnh tạm giam Trần Đại Định ở Quảng Nam, đồng thời sai quan vào tận Gia Định để điều tra lại hư thực. Nhân cơ hội này, Truơng Phúc Vĩnh lại tìm cách thêu dệt thêm, quyết hãm hại cho bằng được Trần Đại Định. Thuộc hạ của Trương Phúc Vĩnh, người thì hoàn toàn tin vào chủ tướng nên nhất nhất mọi điều đều nói theo Trương Phúc Vĩnh, kẻ thì biết rõ sự trạng nhưng tâm địa xấu xa nên cứ liều a dua với Trương Phúc Vĩnh. Bấy giờ, chỉ có Nguyễn Cửu Triêm là người đường đường chính chính, ra sức biện bạch, quyết chứng minh rằng công, tội và trắng đen phải phân biệt rõ ràng.

Bản điều tra của các quan vâng mệnh Chúa vào tận Gia Định tiến hành được dâng lên. Chúa chưa kịp xét đến thì Trần Đại Định đã lâm bệnh mà mất ở trong ngục thất Quảng Nam. Chúa Nguyễn Phúc Chú hay tin, rất lấy làm thương tiếc, bèn xuống lệnh truy tặng cho Trần Đại Định hàm Đô Đốc Đồng Tri, lại ban cho tên thuỵ là Tương Mần và cho an táng trọng

Từ ấy đến nay đã 265 năm. Lật lại hồ sơ vụ án Trần Đại Định mới hay cả bị cáo lẫn nguyên cáo và quan toà đều có những điều rất đáng phải suy nghĩ. Thời mà người đang lập công cũng có thể dễ dàng bị coi là kẻ phạm tội, thì chỉ có một cách diễn đạt duy nhất, đó là loạn! Trần Đại Định là người thế nào? Dũng khí và mưu lược của ông chỉ đủ để đánh tan binh hùng tướng mạnh của đối phương mà không đủ để đè bẹp tham vọng cũng như tà ý của đồng liêu. Khi bị Trương Phúc Vĩnh tố cáo oan, ông quyết vượt đường xa dặm dài để tự minh minh oan, đó là một sự lạ. Sự lạ đáng kính. Dọc đường đi minh oan cho mình, ông đã chém người em họ chỉ vì người này không ủng hộ ông. Đó là hai sự lạ. Sự lạ này đáng sợ thay. Hoá ra, ông đã sai ngay khi ông đang quyết chí bảo vệ sự đúng.

Trương Phúc Vĩnh là người thế nào? Tham lam là một đại tội. Gian ngoan vu hãm đồng liêu, đẩy đồng liêu vào chỗ chết là đại tội thứ hai. Mang hai đại tội ấy, sống thì dơ bẩn dương gian, chết thì nhơ nhớp âm phủ, vẻ vang gì mà cũng áo mũ cân đai! Nhưng, vì sao những kẻ như Trương Phúc Vĩnh cũng có thể được vênh vang với đời? Sự nham hiểm chứa đầy tâm địa Trương Phúc Vĩnh, nhưng, cũng... đội ơn Chúa, người mang tâm địa ấy mới được chễm chệ trên công đường đó thôi.

Chúa xét án mà như không xét, không xét mà như là xét, lạ thay. Truy phong cho Trần Đại Định, thế có nghĩa là Chúa thừa nhận Trần Đại Định có công, nhưng, không nói gì đến kẻ nhẫn tâm vu oan giá hoạ là Trương Phúc Vĩnh, thế thì truy phong cho Trần Đại Định phỏng có ích gì. Hình như, cũng có khi người ta làm giỗ không phải để cúng người đã khuất mà là để tự xoa dịu một chút gì đó trong chính lòng người sống vậy.

Lật lại hồ sơ vụ án Trần Đại Định, hậu thế chỉ biết rung đùi cảm khái mà ca rằng: may mắn thay, những chuyện đáng tiếc này chỉ là của ngàn xưa. Vâng, may mắn thay!

PHÉP TRỊ DÂN CỦA KÍ LỤC NGUYỄN ĐĂNG ĐỆ

Nguyễn Đăng Đệ người xã An Hoà, huyện Hương Trà (nay thuộc tình Thừa Thiên -Huế) nhưng tổ tiên ông lại vốn là người họ Trịnh, nguyên quán huyện Thiên Lộc (nay thuộc tình Hà Tĩnh). Thời Lê Cung Hoàng (1522 -1527), có người họ Trịnh ở Thiên Lộc là Trịnh Cam làm quan đến chức Binh Bộ Thượng thư. Năm 1527, khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi của nhà Lê, Binh Bộ Thượng thư là Trịnh Cam chạy vào đất Thuận Hoá (vùng phía nam Hà Tĩnh đến hết Thừa Thiên -Huế ngày nay) để mưu việc khôi phục nhà Lê. Nhưng việc chuẩn bị chưa đâu vào đâu thì ông đã lâm bệnh mà qua đời. Con cháu ông về sau định cư ở xã An Hoà và đổi gọi là họ Nguyễn. Nguyễn Đăng Đệ là cháu bảy đời của Thượng thư Trịnh Cam, sinh năm Kì Dậu (1669), mất năm Đinh Mùi (1727), hường thọ 58 tuổi.

Thời Nguyễn Đăng Đệ, đất quê ông nổi tiếng là đất học. Dân gian có câu: “Học Đồng Di, thi An Hoà”. Đồng Di là tên một xã của huyện Phú Vang. Dân xã ấy có truyền thống hiếu học, xa gần đều biết tiếng. Còn An Hoà là tên một xã thuộc huyện Hương Trà, xã quê hương của Nguyễn Đăng Đệ. Xã này có nhiều người đỗ đạt cao, được coi là đất khoa bảng, hiến vinh vào hàng bậc nhất của xứ Đàng Trong.

Ngay từ lúc còn nhỏ, Nguyễn Đăng Đệ đã được coi là nguời “đã ôn nhã lại trung chính, văn học uyên bác hơn người”. Tương truyền, có một thầy coi tướng thấy ông, liền nói ngay rằng:

-Khoé mắt có tàng thần, đó là quy cách, chỉ tiếc là tai thấp, cho nên, không thể đỗ cao được.

Theo ghi chép của Đại Nam liệt truyện (Tiền biên, quyển 5) thì vào năm Tân Tị (1701), dưới thời trị vì của chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 -1725), Nguyễn Đăng Đệ đi thi và đỗ Sinh đồ. Học vị này về sau đời gọi là Tú tài. Năm đó, ông 32 tuổi. Sau khi đỗ đạt, ông làm quan trải phong dần từ chức Tri huyện, huyện Minh Linh (nay thuộc Quảng Trị) rồi lên tới Văn Chức trong phủ Chúa. Nhờ làm Văn Chức, Nguyễn Đăng Đệ mới có cơ hội được gặp chúa Nguyễn và được chúa Nguyễn trực tiếp thấy rõ năng lực thực sự của ông. Sử cũ cho biết, chúa Nguyễn Phúc Chu thấy ông ứng đối tường tận, lập luận sâu sắc, bàn việc rộng rãi, phong thái lại ung dung... cho nên, rất lấy làm đặc biệt yêu quý.

Năm 1712, Nguyễn Đăng Đệ được thăng chức Kí lục và bổ đi làm ở dinh Quảng Nam. Với chức vụ quan trọng này, Nguyễn Đăng Đệ ngày đêm lo nghĩ, lòng chỉ mong sao cho dân bớt kiện cáo lẫn nhau, ông gọi đó là phép bồi bố phong hoá, là phép đức trị, cũng là phép dùng lòng nhân nghĩa để cố kết, tránh bớt việc xét án cho quan nha. Tiếng lành đồn xa, ba năm sau (năm 1715), ống được chúa Nguyễn khen là bậc thanh liêm, cống binh và có tài giáo hoá, do đó, thăng làm Chính Dinh Đô Tri. Năm 1724, Nguyễn Đăng Đệ lại được thăng tiếp là Chính Dinh Kí lục.

Sinh thời, Nguyễn Đăng Đệ đi tới đâu là ở đó nha lại không dám làm điều nhũng loạn, dân được yên ổn làm ăn, vì thế, không ai là không tín phục. Khi ông làm việc ở Quảng Nam, chúa Nguyễn Phúc Chu có gởi tặng ông đôi câu đối bằng chữ Hán (phiên âm) như sau:

Lập pháp tinh hình, cánh kiến ngã triều sinh Cáp Ảm;

Sử dân vô tụng, phương tri ngô quốc hữu Hoài Nam.

Tạm dịch:

Lập pháp giảm hình, lại thấy triều ta Cáp Am[1]

Khiến dân không kiện, mới hay nước có Hoài Nam[2]

Sách Bán đại văn (Nửa đời nghe) của ở Vận Tiên Sinh có đoạn chép về Nguyễn Đăng Đệ khá độc đáo. Xin lược thuật như sau: Có viên nhà lại nhân thấy Nguyễn Đăng Đệ đi khuyên dạy dân không được đánh bạc, liền tìm cách ngăn ông mà nói rằng, chỗ của quan lớn là trong nha môn công đường, không phải nơi lũ ương ngạnh tụ tập. Ông từ tốn đáp lại là ngăn cái xấu khi cái xấu chưa kịp xảy ra có phải là tốt hơn đem hình pháp mà xử cái xấu không? Bọn ương ngạnh sở dĩ cả gan làm điều càn quấy, bất quá chỉ vì ân đức giáo hoá chưa nhuần thấm đến đó mà thôi. Nói rồi, ông cứ thế đi thẳng.

Mùa đông năm Đinh Mùi (1727), Nguyễn Đăng Đệ bị mất vì bệnh khi đang tại chức. Chúa Nguyễn Phúc Chú (1725 -1738) rất lấy làm thương tiếc, tổ chức an táng ông rất trọng thể, đồng thời, truy tặng ông hàm Kim Tử Vinh Lộc Đại phu. Ông có hai người con được đời biết tiếng, đó là Nguyễn Đăng Cẩn và Nguyễn Cư Trinh.

Chú thích:

(1) và (2): Tên những nhân vật Trung Quốc thời cổ đại được coi là thanh liêm và có công giáo hoá

MẠC THIÊN TỨ - NGƯỜI ĐẶT TÊN CHO MƯỜI CẢNH ĐẸP Ở HÀ TIÊN

Một trong những tuyến tham quan có sức hấp dẫn rất mãnh liệt đối với du khách là Hà Tiên. Bạn đã từng tới Hà Tiên rồi sao? Xin chúc mừng bạn. Nhưng, lúc ở Hà Tiên, có bao giờ bạn cảm thấy bâng khuâng khi chợt nghĩ đến người đã có công tạo ra những tên đất thật đẹp và thật thân thương cho miền đất này không? Chưa ư? Vậy thì chúng ta hãy bắt đầu nhé.

Năm 1649, sau gần ba trăm năm tồn tại (1368 -1649), nhà Minh sụp đổ, nhà Mãn Thanh được dựng lên. Một phong trào phản kháng khá mạnh, mang tên gọi chung là bài Thanh phục Minh (bài trừ nhà Thanh, khôi phục nhà Minh) đã dấy lên trên hầu khắp Trung Quốc suốt mấy chục năm trời. Cuối cùng, tất cả đều bị đè bẹp. Hàng ngàn thành viên của lực lượng bài Thanh phục Minh đã buộc phải rời bỏ quê cha đất tổ đi tìm chốn dung thân. Riêng năm Kỉ Mùi (1679), xứ Đàng Trong của chúa Nguyễn đã tiếp nhận đến trên ba ngàn người. Họ định cư và lập nghiệp ở nước ta, quy tụ thành lực lượng mà ta quen gọi là người Minh Hương. Xem ra, người Minh Hương cũng di cư đến đây trước sau gồm nhiều đợt chú không phải chỉ có một lần duy nhất vào năm Kỉ Mùi (1679) như đã nói ở trên. Có khi họ cùng nhau đi thành từng nhóm khá đông, nhưng cũng có khi, họ đi rất riêng rẽ. Trong số những người đi riêng rẽ ấy có Mạc Cửu (1655 -1736).

Mạc Cửu người Lôi Châu (Quảng Đông, Trung Quốc), bỏ xứ mà đi năm 1671. Lúc đầu, ông phiêu bạt đến đất Chân Lạp, sau, thấy nội tình Chân Lạp rối ren, ông đến định cư ở Hà Tiên. Bấy giờ, đất ấy người Chân Lạp gọi là Péam còn thương nhân người Hoa thì gọi là Mang Khảm. Mạc Cửu muốn thi vị hoá vùng đất quê hương mới của mình, bèn truyền rằng, ở đó, đêm đêm trên sóng nước của những dòng sông, có các nàng tiên tới múa hát. Sông có tiên nên đất có sông ấy cũng gọi là Hà Tiên.

Mạc Cửu là người gốc Hoa nhưng vợ Mạc Cửu (bà Bùi Thị Lầm, quê ở Đồng Nai) lại là người Việt. Ông bà tổ chức khẩn khoang, lập nên bảy xã thôn, bao gồm cả một vùng rộng lớn, tương ứng với Kiên Giang và Minh Hải ngày nay. Sau, Mạc Cửu dâng đất Hà Tiên cho chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 -1725), tình nguyện làm quan trấn giữ cõi biên thuỳ Tây - Nam cho chúa Nguyễn.

Mãi đến năm Bính Tuất (1706), năm Mạc Cửu 51 tuổi, bà Bùi Thị Lầm mới sinh hạ cho ông đuợc một người con trai, đó là Mạc Thiên Tứ (cũng tức là Mạc Thiên Tích). Sách Đại Nam thực lục (Tiền biên, quyển 6) chép:

“Mạc Thiên Tứ tự là Sĩ Lân, con trưởng của Mạc Cửu. Khi ông sắp sinh ra có điềm lạ: nước trong sông Lũng Kì bỗng dưng phun vọt lên cao, để lộ ra một tượng vàng áng chừng bảy thuớc. Sứ Man đi qua trông thấy, liền nói với Mạc Cửu rằng:

-Đó là điềm nước ông sinh người hiền, phúc đức lớn khó lường hết.

Mạc Cửu sai người đi ruớc tượng vàng về, nhưng làm cả trăm cách cũng không sao kéo lên được, vì thế ông sai dựng chùa nhỏ ở bên sông (Lũng Kì) để thờ. Mạc Thiên Tứ cũng ra đời vào đúng ngày hôm đó, cho nên, thiên hạ truyền rằng, ông chính là Bồ Tát hiện thân.”.

Ngay tù thuở ấu thơ, Mạc Thiên Tứ đã nổi tiếng là người thông minh và đức độ. Với chúa Nguyễn, ông là người rất trung thành, với song thân, ông là người rất hiếu thảo; với trấn Hà Tiên, ông là người có công xây dựng nhiều công trình, để dấu tích tốt đẹp cho đến tận ngày nay. Năm 1735 Mạc Cửu qua đời, Mạc Thiên Tứ được chúa Nguyễn Phúc Chú (1725 - 1738) cho nối nghiệp cha, cầm đầu chính quyền trấn giữ miền biên cõi Hà Tiên. Một trang mới hơn, giàu sức hấp dẫn hơn của lịch sử Hà Tiên bắt đầu.

Độc đáo nhất, cũng là thành công lớn nhất của Mạc Thiên Tứ chính là lập ra Chiêu Anh Các. Đúng như tên gọi của nó, Chiêu Anh Các là nơi quy tụ những người tài. Thống kê tất cả những ghi chép tản mạn của sử cũ, chúng ta có thể thấy đến con số trên bảy chục người tài, gồm đủ mọi lứa tuổi, mọi địa phương, mọi tầng lớp, mọi hệ tư tưởng, và thậm chí là có cả khá đông người Trung Quốc. Chiêu Anh Các có nhiều hoạt động phong phú khác nhau, nhưng nối bật nhất vẫn là ngâm vịnh, xướng hoạ. Nói khác hơn, Chiêu Anh Các là một thi xã, là nơi gặp gỡ của tao nhân mặc khách bốn phương.

Người thành lập, cũng là cây bút chủ lực của Chiêu Anh Các là Mạc Thiên Tứ. Ông làm thơ chữ Hán khá điêu luyện đã đành, ông còn làm thơ chữ Nôm cũng tương đối thành thục. Nổi tiếng khó tính như Bảng nhãn Lê Quý Đôn (1726 -1784) mà cũng đã phải thán phục, viết rằng: “Văn mạch một phương dằng dặc không dứt, thực đáng khen lắm thay’’ (Phù biên tạp lục, quyển 5).

Gần như toàn bộ thơ Mạc Thiên Tứ là thơ ca ngợi thiên nhiên Hà Tiên. Nếu thân phụ của ông là Mạc Cửu người đầu tiên tạo ra chất thơ cho tên gọi của mảnh đất cưu mang đùm bọc mình, thì ông là người đã kể thừa và phát triển một cách xuất sắc ý tưởng tốt đẹp này. Mạc Thiên Tứ đã viết mười bài xướng, ca ngợi mười cảnh đẹp của Hà Tiên. Văn nhân tài tử bốn phương tới tấp gởi bài hoạ đến, tính ra, có cả thảy trên ba trăm bài. Đó quả là một con số không nhỏ. Mười cảnh đẹp của Hà Tiên mà Mạc Thiên Tứ ca ngợi là:

1. Kim Dự lan đào (đảo vàng chắn sóng)

2. Bình San điệp thuý (dãy núi như bức bình phong trùng điệp màu xanh)

3. Tiêu Tự thần chung (tiếng chuông buổi sáng sớm trong ngôi chùa tịch mịch)

4. Giang Thành dạ cổ (tiếng trống đêm ở thành bên sông)

5. Thạch Động thôn vân (hang đá nuốt mây)

6. Châu Nham lạc lộ (có đậu triền đất đỏ)

7. Đông Hồ ấn nguyệt (trăng in xuống hồ phía đông)

8. Nam Phố trừng ba (bãi nam chắn sóng)

9. Lộc trĩ thôn cư (thôn xóm ở Mũi Nai)

10. Lư Khê ngư bạc (thuyền chài ở rạch vược)

Mỗi cảnh đều được gợi tả bằng bốn chữ, nhưng dân gian chỉ quen gọi tên cảnh bằng hai chữ đầu. (Chúng tôi viết hoa hai chữ đầu cũng là vì thế). Trước Chiêu Anh Các, tất cả rihững cảnh đẹp nên thơ nói trên đều chưa hề có tên gọi, thậm chí, nhiều cảnh còn im lìm trong sự hoang sơ. Nhưng, từ Chiêu Anh Các, từ mười bài khởi xướng của Mạc Thiên Tứ, tất cả bỗng dưng lên một sức hấp dẫn thật lạ kì. Gần ba trăm năm qua, khách thập phương không ngớt tìm đến Hà Tiên. Và, đã tới Hà Tiên là phải tìm đến cho bằng được cả mười cảnh đẹp mà họ từng biết được qua những vần thơ óng ả của Mạc Thiên Tứ.

Giờ đây, sau gần ba trâm năm vật đối sao dời, trải biết bao biến cố lớn lao của thời cuộc, trải sự tàn phá không thương tiếc của thời gian, mười cảnh đẹp Hà Tiên tuy không còn nguyên vẹn như xưa nữa, nhất là cảnh Giang Thành, nhưng đến với Hà Tiên, đến với đất khai sinh Chiêu Anh Các thuở nào, bạn vẫn có thể dễ dàng cảm nhận sự truyền cảm chân thành và ấm áp của cảnh cũ nguời xưa từ tất cả những gì chung quanh bạn. Cám ơn Mạc Thiên Tứ, cám ơn Chiêu Anh Các, cám ơn những vần thơ đã khiến cho chúng ta yêu thiên nhiên và con người hơn. Hình như Mạc Thiên Tứ đã góp phần tạo ra cảnh đẹp thứ mười một, cảnh đẹp không tên. Đó chính là cảnh đẹp đầy vẻ thanh thãn trong lòng mỗi chúng ta sau khi đến Hà Tiên.

LÒNG CƯƠNG TRỰC VÀ ĐỨC THANH LIÊM CỦA PHẠM HỮU KÍNH

Sách Đại Nam liệt truyện (Tiền biên, quyển 5) cho hay, Phạm Hữu Kính người huyện Diên Phước (nay thuộc tỉnh Quảng Nam), sống vào khoảng giữa thế kỉ thứ 18, còn như sinh và mất năm nào thì chưa rõ.

Sinh thời, Phạm Hữu Kính là người văn hay, chữ tốt, tính quả cảm, cương trực và thanh liêm. Năm đầu đời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738 -1765), Phạm Hữu Kính mang khăn gói, lều chõng ra Phú Xuân (Huế ngày nay) để dự thi. Bấy giờ, trên đèo Hải Vân có một cái miếu, được coi là rất thiêng, ai ai cũng nói rằng, hễ qua đèo Hải Vân mà không đến dâng lễ ở miếu ấy thì thế nào cũng sẽ gặp điều tai dị. Phạm Hữu Kính đi qua, nghe vậy thì nói:

- Phàm quý thần mà hễ không được dâng lễ là làm điều tai dị thì đấy phải là ác tà.

Nói xong, xăm xăm chạy tới miếu, lấy bút đề một bài thơ cảnh cáo rồi đi. Nghe nói, miếu thiêng từ đó hết thiêng, không ai phải lo sợ như trước, còn Phạm Hữu Kính thì chẳng những đỗ khoa ấy mà còn đỗ luôn cả khoa thi viết chữ do phủ Chúa tổ chức thêm.

Sau khi đỗ đạt, Phạm Hữu Kính được bổ làm thầy dạy ở ngay trong phủ Chúa và được chừng vài năm thì bổ làm quan Trấn thủ ở Nha Trang. Sử cũ viết rằng: “Kính làm quan thanh liêm, xử việc công minh, sống rất đạm bạc, không cho ai đến thưa việc ở nhà riêng, đã thế lại khéo xét đoán, giỏi tìm ra kẻ gian, tài phanh phui những điều lẩn quất, cho nên từ nha lại cho đến dân chúng, ai ai cũng đều cảm phục mà sợ. ”

Tương truyền ở phía ngoài trấn thành Nha Trang có một ngôi cổ miếu, dân địa phương đời đời hương khói thờ phụng. Trước ngôi cổ miếu ấy có một cây cổ thụ cành lá xum xuê.

Mỗi năm, cây cổ thụ ấy rụng một cành và cứ mỗi lần như vậy là dân trong vùng phải mất một mạng người. Nghe biết chuyện này, Phạm Hữu Kính liền hạ lệnh phá nát ngôi cổ miếu, đồng thời đốn ngã cây cổ thụ. Vậy mà chẳng hề có tai biến gì.

Năm 1751, Phạm Hữu Kính được thăng chức Cai bạ ở Quảng Nam. ông phải rời Nha Trang để về Quảng Nam nhận chức. Dọc đường về, Phạm Hữu Kính đi qua một ngôi chùa. Truớc cổng chùa ấy có con nghê bằng đá. Dân địa phương kể rằng, con nghê bằng đá ấy rất thiêng, đêm đêm vẫn thường đi tác oai, tác quái. Phạm Hữu Kính liền lấy bút viết ngay một chữ tử (nghĩa là chết) vào trán con nghê. Từ đó, cả vùng được bình an, con nghê hết thiêng.

Vừa đến Quảng Nam nhận chức thì ông bỗng thấy nhân dân vùng này nháo nhác chạy đến thưa rằng, họ đang bị nạn chuột đồng phá hại, mùa màng đang hứa hẹn bội thu thì bị chuột phá tan hoang. Phạm Hữu Kính liền nghiêm nghị hạ lệnh:

-Hãy trở về và bắt giết hết cho ta!

Dân thất vọng quay về, và lạ thay, về đến nơi thì lũ chuột đồng quái ác cũng đã biến đi đâu hết. Bởi chuyện này, ai cũng cho Phạm Hữu Kính là thần!

Những chuyện đại loại như trên, nay chẳng đáng để tâm nhưng xưa thì khác hẳn. Bấy giờ, phải là người cương trực và thật sự có chí cả mới dám động đến thần linh. Bởi lẽ này, tên tuổi của Phạm Hữu Kính được đời cảm phục mà truyền tụng. Tuy nhiên, chuyện đáng kể nhất về Phạm Hữu Kính không phải là chuyện cả gan động tới thần linh mà là thẳng thắn đụng ngay với sự nhiễu nhương của thế lực.

Sách nói trên chép đại lược rằng, Phạm Hữu Kính thường được Chúa uỷ thác việc đi kiểm tra hoạt động của quan lại các địa phương. Trong một lần đi kiểm tra, ông phát hiện ra con trưởng của minh đã ăn hối lộ. Phạm Hữu Kính tự mình xét án, khép con vào tội phải tử hình. Nhiều người thấy thế thì can ngăn, chẳng dè ông nói:

-Thằng ấy ngu như heo, làm ô nhục cả gia phong, để nó sống phỏng có ích gì? Vả chăng, phép nước sở sở ra đấy, ta đâu dám vì tình riêng mà phạm đến phép công.

Sau, án ấy được dâng lên để Chúa duyệt làm. Chúa xuống lệnh tha chết cho con ông, nhưng người con ấy đã sợ quá mà chết từ trước rồi!

Phạm Hữu Kính có một người con gái tên là Lam Anh, xinh xắn, thông minh, nên rất được cưng chiều. Thấy con ham học, Phạm Hữu Kính liền rước một thầy đồ trẻ tuổi, tên là Nguyễn Dũng Hiệu về nhà để dạy học cho con. Nguyễn Dũng Hiệu người huyện Duy Xuyên (nay cũng thuộc Quảng Nam), phong thái ung dung, nho nhã, lại có tiếng văn hay, vì thế Phạm Hữu Kính có ý muốn đem Lam Anh mà gả cho. Nhưng rồi Phạm Hữu Kính bận việc quan, ở nhà, con gái ông và thầy đồ Nguyễn Dũng Hiệu trao thư cho nhau và tư thông với nhau. Biết chuyện, ông bắt con gái ra sông, tính sẽ dìm nước cho chết, may có nhiều người can ngăn nên mới thôi, ông giận dữ nói:

-Nước có phép nước, nhà có gia giáo. Chừng nào ta còn sổng thì không một ai trong nhà được phép coi thường phép nước và làm băng hoại gia giáo của tổ tiên.

Sau, thế theo lời khuyên của mọi người, ông mới chịu gả Lam Anh cho thầy đồ Nguyễn Dũng Hiệu. Từ đó, Lam Anh và Nguyễn Dũng Hiệu thường hay ngâm vịnh xướng hoạ với nhau, để lại cho đời khá nhiều lời thơ đẹp.

Phạm Hữu Kính đi đến đâu là quan lại địa phương đó nể trọng, không ai dám làm điều càn quấy, cho dẫu quan tước của Phạm Hữu Kính cũng chỉ là... thường thường bậc trung chứ không phải là... quan to! Đời từng truyền tụng rằng, trên là thánh thần mà ông không kiêng nế, dưới là con đẻ của mình ông cũng không tha, đấng thanh liêm cương trực ấy không thể không tôn vinh được.

Cổ kim khắp đông tây vẫn vậy, trong trăm người, may ra mới có được một người đám nói. Trong trăm người dám nói, may ra mới có được một người dám làm. Phạm Hữu Kính là người vừa dám nói lại vừa dám làm, tức là người hiếm trong số những người hiếm vậy. Bởi lẽ này, khi ông mất, chúa Phạm Hữu Kính đã truy tặng ông hàm Tấn Trị Công thần, Đặc Tiến Trụ Quốc Kim Tử Vinh Lộc Đại phu, Chính Trị Thượng Khanh Tham Nghị, lại ban cho tên thuỵ là Văn Hiếu.

Ôi, giá mà ông sống vào thời thịnh trị thái bình!