- 8 - CHUYỆN CHỊ DÂU TRƯỞNG CỦA Ớ VẬN TIÊN SINH
Ớ Vận Tiên Sinh là một người nổi tiếng hay chữ, quê ở vùng này thuộc tỉnh Hà Tĩnh, sống vào khoảng nửa sau của thế kỉ 19. Ông có để lại cho đời một ít thơ văn, nhưng, đặc biệt hơn cả vẫn là những giai thoại về chính cuộc đời của ông. Thơ văn của Ớ Vận Tiên Sinh giàu chất trào lộng. Mẫu chuyện dưới đây thấy chép trong cuốn Bán Đại Văn (Nửa đời nghe) của ông, nội dung thi viết bằng chữ Nôm nhưng tiêu đề lại viết bằng chữ Hán: Ngã đại tẩu chi co sự (Chuyện chị dâu trưởng của ta). Xin phiên âm và tóm lược mẩu chuyện này như sau:
Khi ấy, trưởng huynh ta còn là lính thú, đóng binh cách nhà những mấy trăm dặm đường. Song thân ta qua đời đã lâu, anh em trong nhà phiêu bạt lắm ngả, vì thế, trưởng huynh ta cũng ít khi về viếng cố hương. Giáp Tết năm Mậu Dần, tức là năm Tự Đức thứ 31 (1878), có người bạn tri kỉ của trưởng huy ta, cũng là lính thú, bỗng nhận được thư nhà. Song thân của người ấy qua đời cũng đã lâu, nhà chỉ có một người em gái, mọi việc cửa nhà đều trông cậy ở người em gái ấy.
Đàn bà nào có mấy ai biết chữ. Em gái người bạn tri kỉ của trưởng huynh ta cũng vậy mà thôi. Bóc thư gởi đến, mở ra chỉ thấy có mỗi một tờ giấy bản, trên vẽ độc nhất hình một con gà trống cồ. Cả đồn lính thú ấy ai ai cũng thi nhau đoán, nhưng rốt cục, chẳng ai hiểu được ý nghĩa của bức thư. Đến lượt viên Suất đội, ông ta vừa ngắm nhìn con gà cồ, vừa hỏi han về gia cảnh, xong thì phán một câu chắc như cột đình, rằng:
-Cô em tuổi Dậu, tức là tuổi con gà, nay đã đến tuổi thành gia thất nên mới nhờ anh kiếm chồng. Gà mái tơ muốn kiếm gà trống cồ chớ có gì là khó khăn đâu.
Ai cũng cho lời ấy là phải. Tết ấy, bạn tri kỉ của trưởng huynh ta được phép về thăm nhà. Ngần ngừ mãi, người ấy mới quyết định đến nói với trưởng huynh ta rằng:
-Lời của Suất đội mà đúng thì quả thật là tôi chẳng biết toan liệu thế nào cho em mình. Thôi, chỗ thâm giao quý mến, sau là nếu có thể thì cùng tôi lo việc lớn này.
Bấy giờ, trưởng huynh ta cũng được hưởng phép, cho nên, đã vui vẻ nhận lời ngay. Hai người khăn gói gọn gàng, cùng vượt dặm dài về quê. Tới nơi hàn huyên tâm sự mới vỡ lẽ ra rằng, em gái người bạn tri kỉ của trưởng huynh ta, vì biết anh trai sắp được về, không biết chữ nên viết thư bằng hình, nhắn anh kiếm cho con gà đem về cúng song thân nhân ngày Tết. Vậy thôi.
Chuyện đoán già đoán non của cả đồn lính thú được đem ra kể, khiến ai ai cũng phải bật cười. Báo hại, em gái người bạn tri kỉ của trưởng huynh ta, vì mắc cỡ nên đã trốn biệt trong buồng, không dám ra lo cơm nước gì cả. Thấy vậy, bạn tri kỉ của trưởng huynh ta nói:
-Cứ cho là anh đi kiếm chồng cho em thì đã sao? Anh thấy bạn anh...
Sau đó không lâu, trưởng huynh ta kết hôn với em gái của người bạn tri kỉ ấy. Mọi sự đều êm đẹp, chỉ tiếc là từ đó, cả nhà bỗng huỷ chữ gà, cứ nhất nhất gọi gà là vịt cạn.
Chị dâu trưởng của ta là người rất đoan chính và hiếu thảo, tuy không hề biết chữ nhưng xử việc rất mạch lạc và thật đằm thắm nghĩa tình. Chị đã sinh hạ cho trưởng huynh ta trước sau tổng cộng là mười người con cả gái lẫn trai. Trưởng huynh ta thật là người có phúc. Nhiều người nói rằng, sở dĩ chị dâu trưởng của ta sinh hạ được nhiều con như thế là vì chị ấy tuổi Dậu, tức là tuổi con... vịt cạn đó thôi.
NGUYỄN Ư DĨ – CHỖ DỰA TIN CẬY VÀ VỮNG CHẮC ĐẦU TIÊN CỦA NGUYỄN HOÀNGSách Đại Nam thực lục (Tiền biên, quyển 1) viết rằng: “Chúa (đây chỉ Nguyễn Hoàng - NKT) nghe tiếng Nguyễn Bỉnh Khiêm, người Trung Am, xứ Hải Dương, đỗ Trạng nguyên triều nhà Mạc, làm đến Thái Bảo thì về trí sĩ, vốn rất giỏi về thuật số, bèn ngầm sai người tới dò hỏi ý tứ. (Nguyễn) Bỉnh Khiêm không đáp, chỉ nhìn hòn non bộ để trước sân rồi ngâm rằng:
—Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân.
(Nghĩa là: Một dãy Hoành Sơn, dung thân muôn đời -NK.T). Sứ giả đem câu ấy về tâu lại. Chúa hiểu ý.”
Và, chính vì hiểu ý nên năm 1558, Nguyễn Hoàng đã lên đường... vượt Hoành Sơn (tức Đào Ngang, ngọn đèo nằm siữa Hà Tĩnh và Quảng Bình ngày nay) để nhận chức Trấn thủ Thuận Hoá, cũng là để âm thầm xây dựng cơ đồ riêng cho mình, sẵn sàng đối đầu với họ Trịnh khi điều kiện cho phép. Cứ như đoạn ghi chép nói trên của Đại Nam thực lục thì rõ ràng, chỗ dựa đầu tiên, cũng là chỗ dựa tin cậy và vững chắc nhất của Nguyễn Hoàng khi vào Thuận Hoá chính là Hoành Sơn, nhưng xem ra, suốt cả cuộc phân tranh lâu dài và quyết liệt với họ Trịnh, Hoành Sơn hầu như không giữ một vai trò quan trọng gì đáng kể đối với khả năng đề kháng của xứ Đàng Trong. Chỗ dựa tin cậy và vững chắc đầu tiên của Nguyễn Hoàng lại là con người mà một trong số những con người đó là Nguyễn Ư Dĩ.
Nguyễn Ư Dĩ (cũng có nguời phiên âm là Nguyễn Ư Tị) quê ở huyện Tứ Kì (nay thuộc Hải Dương) nhưng sau vào định cư ở Thanh Hoá. Ông là con của quan Đặc Tiến Phụ Quốc Thượng Tướng Quân Nguyễn Kính Diện. Dưới thời trị vị của Lê Cung Hoàng (1522 - 1527), Nguyễn Ư Dĩ là quan Thái Phó, tước Uy Quốc Công, ông là em vợ của Nguyễn Kim và là cậu ruột của Nguyễn Hoàng.
Năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi của nhà Lê, Nguyễn Kim chạy vào Thanh Hoá rồi sang tận Ai Lao và mãi đến năm 1533 mới tìm được một người trong hoàng tộc của nhà Lê là Lê Ninh để tôn lên ngôi vua, nhằm tạo ra danh nghĩa chính thống cho cuộc chiến tranh chống lại họ Mạc. Bấy giờ, Nguyễn Hoàng mới lên hai tuổi. Người trực tiếp nuôi dạy Nguyễn Hoàng chính là Nguyễn Ư Dĩ...
Lê Ninh lên ngôi vua, đó là Lê Trang Tông (1533 -1548), tuy nhiên, quyền hành thực sự của Nam triều lại nằm trong tay Nguyễn Kim. Bấy giờ, Nguyễn Ư Dĩ là một trong những trợ thủ đắc lực nhất, ông vừa lo giúp việc triều chính, vừa lo nuôi dạy Nguyễn Hoàng. Phần lớn những phẩm cách đáng quý của Nguyễn Hoàng được xây dựng và bồi bổ trong thời kì này
Năm 1545, Nguyễn Kim bị một viên tướng trá hàng của nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đánh thuốc độc giết chết. Cuộc khủng hoảng của Nam triều bắt đầu. Con rể của Nguyễn Kim là Trịnh Kiểm đã sát hại Nguyễn Uông (anh ruột của Nguyễn Hoàng, cũng là một vị tướng trẻ và đầy tài năng của Nam triều), đồng thời, tính kế hãm hại cả Nguyễn Hoàng. Tình thế trở nên rất nguy cấp. Không còn con đường nào khác, Nguyễn Ư Dĩ ra tay cứu cháu.
Trước hết, ông bàn với Nguyễn Hoàng, bảo Nguyễn Hoàng giả làm như người thần kinh không được bình thường, lúc thì tỉnh táo và thông minh, nhưng cũng có lúc thi như khờ như dại. Bởi lẽ này, Trịnh Kiểm đã đánh giá sai năng lực thực sự của Nguyễn Hoàng, mối lo sợ bị trả thù có phần nguôi bớt. Một thời gian sau, Nguyễn Ư Dĩ và Nguyễn Hoàng tìm cách gặp riêng Nguyễn Thị Ngọc Bảo là chị gái của Nguyễn Hoàng và là vợ của Trịnh Kiểm, nhờ Nguyễn Thị Ngọc Bảo lựa lời xin Trịnh Kiểm cho Nguyễn Hoàng được vào làm Trấn thủ xứ Thuận Hoá (vùng đất tương ứng với khu vực từ phía nam Hà Tĩnh vào cho đến hết Thừa
Thiên -Huế ngày nay). Trịnh Kiểm là tên gian manh, biết Thuận Hoá vừa xa xôi, vừa nghèo khó, đã thế lại còn có quân nhà Mạc quấy nhiễu thường xuyên, cho nên, xuống lệnh chấp thuận ngay. Vào đó, nếu Nguyễn Hoàng có bị quân nhà Mạc giết thì đó cũng là việc Trịnh Kiểm đang mong, ở đời, dễ gì mượn được tay kẻ thù để tiêu diệt đối thủ: Cũng vào đó, nếu Nguyễn Hoàng không hoàn thành được chức trách của một Trấn thủ, thì Trịnh Kiểm sẽ có cớ để trị tội. Vòng cương toả của Trịnh Kiểm, khiếp thay!
Năm 1558, Nguyễn Hoàng lên đường đi nhận chức. Năm đó, ông mới 33 tuổi. Cùng đi theo vào Thuận Hoá với Nguyễn Hoàng là Nguyễn Ư Dĩ và toàn bộ gia quyến của ông. Vẫn biết Nguyễn Hoàng bấy giờ đã là vị tướng giỏi, võ nghệ và mưu lược hơn người, đã thế lại còn khéo biết cố kết nhân tâm, nhưng, Nguyễn Ư Dĩ vẫn không nỡ để Nguyễn Hoàng phải đơn phương độc mã nơi đất hiểm. Nghĩa tinh cậu cháu trong con người ống mạnh mẽ đến lạ thường.
Xét về thứ bậc họ hàng, Nguyễn Ư Dĩ là cậu, Nguyễn Hoàng là cháu. Xét về chức tước trong Nam triều, Nguyễn Ư Dĩ là Thái phó, tước Uy Quốc Công còn Nguyễn Hoàng lúc ấy chỉ mới là Quận Công. Xét quan hệ thì Nguyễn Ư Dĩ là ân nhân của Nguyễn Hoàng, từng nuôi dạy Nguyễn Hoàng từ lúc Nguyễn Hoàng mới được hai tuổi. Nhưng, trong mọi ứng xử, Nguyễn Ư Dĩ luôn luôn ẩn mình ở phía sau, tạo dựng uy tín và ra sức củng cố địa vị cho Nguyễn Hoàng. Với Nguyễn Hoàng, Nguyễn Ư Dĩ đồng nghĩa với sự an tâm, tin tưởng. Sách Đại Nam liệt truyện (Tiền biên, quyển 3) chép rằng:
“Mùa đông năm Mậu Ngọ (tức là năm 1558 -NKT), Thái Tổ (chỉ Nguyễn Hoàng - NKT) vào Thuận Hoá, (Nguyễn) Ư Dĩ đem con cái đi theo. Đến bãi cát Ái Tử thuộc huyện Đăng Xương, dân sở tại đem dâng bảy vại nước trong. (Nguyễn) Ư Dĩ mừng rỡ tâu rằng:
-Đây chính là mệnh trời ban cho. Mệnh trời bao giờ cũng ứng báo qua những hình tượng có thể thấy và hiểu được. Nay chúa thượng vừa mới đến mà dân vui đem nước dâng lên, có lẽ đó là điềm được nước đó chăng?
Thái Tổ nghe vậy, liền nhận bảy vại nước và đóng doanh trại tại khu vực Ái Tử.”
Vào làm Trấn thủ Thuận Hoá, Nguyễn Hoàng đã thực hiện chính sách hai mặt. Mặt thứ nhất là mặt bên trong, mặt bí mật: ông vừa ra sức chiêu mộ nguời theo vào, vừa âm thầm tuyển chọn đội ngũ tay chân thân tín cho mình. Mục tiêu của Nguyễn Hoàng là phải xây dựng cho bằng được một cơ đồ riêng của mình, nhằm chuẩn bị đối đầu với họ Trịnh. Mặt thứ hai là mặt công khai, mặt bề ngoài: Nguyễn Hoàng vẫn bày tỏ sự thần phục đối với vua Lê và chúa Trịnh. Với cương vị là Trấn thủ Thuận Hoá (rồi từ năm 1570 thì được kiêm thêm cả Trấn thủ Quảng Nam), Nguyễn Hoàng đã đóng góp sức người và sức của vào cuộc chiến tranh chống lại nhà Mạc. Nguyễn Hoàng cũng nhiều phen đích thân cầm quân đi đánh nhau với quân đội nhà Mạc. Và, bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, Nguyễn Ư Dĩ cũng luôn luôn theo sát Nguyễn Hoàng, ân cần chỉ vẽ và chân thành chia sẻ mọi niềm vui nổi buồn.
Theo ghi chép của các bộ sử thi, thì từ năm 1558, cho đến khi mất tại Thuận Hoá (chưa rõ là năm nào, chỉ biết là sau năm 1570), Nguyễn Ư Dĩ chỉ một lần rời Nguyễn Hoàng đế về thăm quê trong một thời gian rất ngắn, còn thì lúc nào ông cũng ở bên cạnh Nguyễn Hoàng. Ông thực sự là chỗ dựa tin cậy và vững chắc đầu tiên của Nguyễn Hoàng. Chính sử thời Nguyễn viết: “Trong hàng Công Thần Khai Quốc, Nguyễn Ư Dĩ thật xứng đáng đứng đầu vậy.”
Năm 1613, Nguyễn Hoàng qua đời, hưởng thọ 88 tuổi. Ông là người đầu tiên xây dựng nền tảng cho cơ nghiệp của họ Nguyễn ở xứ Đàng Trong, là người có công tổ chức khai khẩn một vùng đất rộng lớn của đất nước. Có thể nói rằng một phần quan trọng của sự nghiệp này là nhờ ở sự giúp đỡ chân thành và có hiệu quả của Nguyễn Ư Dĩ.
Thời Nguyễn Ư Dĩ là thời loạn, thời mà đạo vua tôi, nghĩa thầy trò, tinh đồng liêu,... bị rẻ rúng, thời mà các phe cánh không ngừng hãm hại lẫn nhau. Tìm những người giữ được tình nghĩa thuỷ chung giữa thời ấy chẳng khác gì tìm hoa ở giữa sa mạc. Cho nên, hiếm thay, những người như Nguyễn Ư Dĩ! Kính ông, đâu chỉ có Nguyễn Hoàng?
Chuyện Nguyễn Ư Dĩ hình như chẳng phải chỉ là chuyện Nguyễn Ư Dĩ. Chuyện Nguyễn Hoàng hình nhu cũng chẳng phải là chuyện riêng của Nguyễn Hoàng. Nguyễn Ư Dĩ đến với Nguyễn Hoàng bằng tất cả tài năng và tất cả lòng thành. Nguyễn Hoàng cũng đón nhận Nguyễn Ư Dĩ với tất cả tài năng và tất cả lòng thành tương ứng. Cả Nguyễn Ư Dĩ và Nguyễn Hoàng đều đã là người thiên cổ, nhưng, những gì rút ra từ sự tương đắc của họ, rằng ở đời chỉ có người tài mới dùng được những người tài, rằng ở đời có sự thành tâm mới mong có được tất cả... vẫn là bài học cho muôn đời đó thôi.
SIÊU QUẦN TIÊN SINH NGUYỄN ĐĂNG ĐÀNSách Đại Nam liệt truyện (Tiền biên) đã dành một phần của quyển 6 để chép chuyện các bậc tử sĩ sáng danh như Võ Trường Tỏan, Đặng Đức Thuật, Nguyễn Đăng Đàn... Sách Đại Nam Nhất Thống Chỉ (quyển 2: Phủ Thừa Thiên, mục Nhân vật) cũng đã trân trọng chép chuyện Nguyễn Đăng Đàn.
Và, chuyện Nguyễn Đăng Đàn còn thấy chép trong sách Bán đại văn (nửa đời nghe) của Ớ Vận Tiên Sinh và trong vài bộ dã sử khác theo đó thì...
Nguyễn Đăng Đàn còn có tên gọi khác là Nguyễn Đăng Tường sinh và mất năm nào chưa rõ, chỉ biết ông nổi danh tài đức dưới thời trị vì của chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738 - 1765). Ông có tên tự là Thuần Nhất, hiệu là Bất Nhị, sinh quán huyện Hương Trà, phủ Thừa Thiên (nay thuộc tỉnh Thừa Thiên -Huế). Sử cũ cho hay, ngay từ thuở thiếu thời, Nguyễn Đăng Đàn đã nổi tiếng thông minh, chữ mới thoáng nhìn đã nhớ, sách chỉ mới học qua đã thuộc. Tương truyền, lúc ông lên sáu tuổi thì trong họ nhà ông có một nhà quá nghèo, phải đi vay nợ một phú ông gần đó. Phú ông này rất gian tham, bắt phải làm tờ khế ước, nhưng biết người vay mù chữ, cho nên cho vay chỉ năm tiền mà hắn ghi trong tờ khế ước những mười. Chẳng dè lúc ấy Nguyễn Đăng Đàn đang chơi ở đấy và phát hiện ra sự hiểm ác này. Phú ông vừa xấu hổ, vừa phục tài cậu bé, bèn giả lả nói rằng:
- Ta nghe dòng họ Nguyễn Đăng có thần đồng nhưng chưa hề giáp mặt, cho nên mới vờ làm thế để thử xem có đúng cậu ta là thần đồng hay không mà thôi.
Đến tuổi vũ thược (tức là 13 tuổi ta. Theo Kinh lễ, thiên Nội tắc thì đến tuổi 13, con trai bắt đầu học múa theo nhạc thược, cho nên tuổi 13 cũng gọi là tuổi vũ thược) tài học của Nguyễn Đăng Đàn đã vượt trội hơn người, ông chẳng những đã làu làu nhiều thiên kinh sử mà còn bắt đầu để tâm suy gẫm những chỗ uyên thâm nhất trong sách vở của thánh hiền.
Từ năm 16 tuổi, khắp Ngũ kinh, Tứ thư, Bắc sử và Bách gia chư tử... Nguyễn Đăng Đàn đều rất am tường. Người Hương Trà và người phủ Thừa Thiên đương thời, không ai là không biết tiếng. Bấy giờ, hầu như tất cả cũng chỉ biết học là để tìm đường tiến thân, bám vào hoạn lộ để hưởng những đặc quyền đặc lợi do hoạn lộ mang lại, nhưng riêng Nguyễn Đăng Đàn thì ngược lại. Ông không một chút cảm tình với lối học củ nghiệp, càng không một chút ham mê danh lợi quan trường, bởi vì theo ông, đó là những thứ rất dễ làm vẩn đục đức sáng của học trò muôn thuở. Nghĩ vậy, Nguyễn Đăng Đàn đã lên núi Thanh Thuỷ, dựng nhà lá vách đất để ở và mở trường dạy học. Đại Nam liệt truyện (Tiền biên, quyển 6) chép: “Ông đố chí hiểu cổ, khống thích lối văn chương khoa cứ sáo rỗng, tính tình điềm tĩnh và khiêm tốn, ưa làm điều thiện, vững tin ở đạo lí, không thèm danh lợi vinh hoa, tuy sống trong nhà lá vách đất mà lúc nào cũng vui. ông chẳng những giỏi về lí học mà còn thông thạo cả các sách Kiềm, Thao."
Nói giỏi về lí học tức là giỏi về phần tinh tuý và uyên thâm nhất của nho học, phần mà không phải bất cứ nhà Nho nào cũng đủ trí tuệ để có thể vươn tới được. Còn như nói thông thạo các sách Kiềm, Thao là thông thạo một lĩnh vực hoàn toàn khác. Kiềm tức Ngọc Kiềm còn Thao là Lục Thao -tên hai trong số hơn một chục bộ binh pháp nổi tiếng nhất của Trung Quốc thời cổ và trung đại. Thông thạo các sách Kiềm, Thao cũng có nghĩa là thông thạo binh pháp. Nói khác hơn, đến đây, ông đã đạt tới trình độ văn võ song toàn. Sách Bán đại văn (Nữa đời nghe) của Ớ Vận Tiên sinh chép về Nguyễn Đăng Đàn có đoạn:
“Có bậc phụ lão từ xa chống gậy đến, gọi:
-Dốc chí đèn sách, dùi mài kinh sử mà không chịu ra ứng thí cho thoả một phen, như hổ tùng phong, như long tùng vân, như cá vượt vũ môn, thế là thế nào?
Ông cung kính đáp:
-Hậu sinh chỉ muốn học để biết đại đạo của thánh hiền, nhằm sống sao cho khỏi sự lầm lỗi, trông lên không thẹn với Trời, cúi xuống cũng không xấu hổ với Đất, chẳng dám có chí gì khác hơn. Vả chăng, sống mà được toại sở nguyện, thử hỏi có gì vui hơn?
Phụ lão lại hỏi:
-Văn đã như phượng múa rồng bay, như thế chưa đủ sở nguyện hay sao mà còn đọc sách binh gia và tập rèn võ nghệ?
Ông lại cung kính đáp:
-Sự học là vô tận. Xưa nay chỉ có người nản chí không học chớ đâu có ai nản chí vì hết sách để học đâu. Hậu sinh sống giữa thời còn có trăm mối lo toan, đọc sách binh gia và tập rèn võ nghệ, trước là để hiểu cố nhân, sau là để phòng thân khi chẳng may gặp sự biến.”
Ngày 12 tháng 4 năm Giáp Tý (1744), chúa Nguyễn Phúc Khoát làm lễ lên ngôi vương, ý đồ xây dựng hẳn một quốc gia biệt lập với vua Lê chúa Trịnh ở Đàng Ngoài ngày một thể hiện rõ rệt. Chiếu lên ngôi của Nguyễn Phúc Khoát có đoạn: “Nay Đất Trời rộng ban đức nhân, khiến cho khắp cõi bờ đều nhuần thấm. Ta thuận đạo lên ngôi, bá tính vạn vật từ đây đổi mới. Ngọc vàng rực rỡ. Lời tỏ truyền xa. ” (Đại Nam thực lục, Tiền biên, quyển 10). Được tin này, Nguyễn Đăng Đàn liền vội tìm đường đến tận Phú Xuân, lấy tư cách là một người học trò áo vải, dâng lên Nguyễn Phúc Khoát một bài sớ dài, viết bằng chữ Nôm. Theo ghi chép của Đại Nam liệt truyện (Tiền biên, quyến 6) thì bài sớ ấy đại lược nói rằng: “Đạo làm vua nên lấy việc cầu cho được người hiền tài và lắng nghe lời can gián làm trọng. ” Cũng theo sách này thì bài sớ của ông “lời trang nghiêm mà thiết thực, Chúa khen lắm, muốn vào phủ để trao cho quan chức, nhưng, (Nguyễn) Đăng Đàn từ chối, không chịu nhận.
Việc làm nói trên của Nguyễn Đăng Đàn gây chấn động dư luận của cả xứ Đàng Trong đương thời. Thiên hạ không chỉ kính trọng tài năng mà còn rất phục nghĩa khí của ông. Học trò bốn phương tìm về xin thọ giáo Nguyễn Đăng Đàn ngày một đông. Thư tịch xưa cho hay, trường của Nguyễn Đăng Đàn không lúc nào là không có đến vài trăm môn sinh. Đến năm bảy mươi tuổi, Nguyễn Đăng Đàn vẫn say mê với nghề dạy học. Bất cứ ai cũng lấy việc từng được là học trò của Nguyễn Đăng Đàn làm điều vinh dự. Người đương thời đã tôn kính gọi Nguyễn Đăng Đàn là Siêu Quần Tiên Sinh nghĩa là bậc thầy vượt trội hơn tất cả.
Mới hay, vinh quang ở đời kể cũng lạ, kẻ tìm đủ cách để tìm kiếm thì chẳng được, người chỉ để tâm luyện tài tích đức, hững hờ với vinh quang thì vinh quang lại đến, rạng rỡ lạ thường. Như Nguyễn Đăng Đàn, tất cả những gì ông làm, nào có phải để được lừng danh tài đức trong khắp thiên hạ. Biệt danh Siêu Quần Tiên Sinh chính là do thiên hạ thành kính tôn phong cho ông đó thôi.
TÌNH BẠN CỦA TƯỚNG NGUYỄN HỮU CHỈNHNguyễn Hữu Chỉnh (7-1787) người làng Đông Hải, huyện Chân Phúc (nay là huyện Nghi Lộc, tinh Nghệ An) vốn là võ tướng của chúa Trịnh. Sau, Nguyễn Hữu Chỉnh bỏ chúa Trịnh mà về với Tây Sơn. Năm 1786, ông có công trong việc cùng Nguyễn Huệ đại phá quân Trịnh. Vậy mà, năm 1787, ông lại mưu phản Tây Sơn nên bị Tây Sơn giết
Sách Lịch triều tạp kỉ (quyển 4)chép chuyện Nguyễn Hữu Chỉnh với bạn là Đỗ Thế Long như sau:
“Long là người có tài năng và giỏi mưu lược nhưng tính tình lại rất giảo hoạt. Có lần, Chỉnh bị giam vì phạm tội thiếu nợ công quỹ. Khi ấy, Long cũng bị giam vì một lí do riêng, cho nên, cùng ở chung một nhà ngục với Chỉnh. Nhân đó, hai bên tương đắc với nhau.
Khi Chỉnh dẫn quân Tây Sơn ra lấy Thăng Long thì Long hãy còn ở tù. Chỉnh sai người đến thả Long ra và mời đến tư dinh, đối đãi như thượng khách. Hai người bàn việc nước, Long nói lời nào cũng được Chỉnh tin theo. Lúc chúa Trịnh Tông (bị bắt rồi tự tử mà chết), Chỉnh nói với Long rằng:
-(Trịnh) Tông không tin ta nên mới tự tử, giá thử như (Trịnh) Tông cứ việc sống, thế nào ta cũng cho (Trịnh) Tông hưởng địa vị thanh nhàn, chẳng sợ mất gì tước lộc cả.
Long nghe Chỉnh nói thế, cứ tưởng rằng Chỉnh hãy còn tử tế với Chúa (Trịnh), bèn nhân đó bàn rằng:
-Ông tuy bên trong thì có lòng nhân nghĩa, nhưng bên ngoài thì hình tích chẳng khác gì thằng giặc tàn bạo. Vì sao ư? Vì giờ đây, ông có cái thế dời non lấp biến, giúp cho Tây Sơn không biết kể bao nhiêu cho hết. Nhưng, ông (hãy nhớ lại đi), khi mới được trao quyền cầm quân rồi được phong tước Hầu, có gì là không phải ơn huệ của Chúa đâu? Thế mà bây giờ ông làm cái việc nên danh nghĩa (phù Lê) diệt Trịnh thì thật là quá quắt lắm. Nếu ông cho việc chúa Trịnh hiếp đáp vua Lê là có lỗi, thì tại sao ông không nghĩ đến công lao tôn phò (của nhà Chúa đối với vua Lê) từ hơn hai trăm năm trước đây? Chuộng mới mà bội phản cũ là bất nghĩa, tìm vạch lỗi (của Chúa) mà che lấp công (của Chúa) là bất nhân. Vì (gồm đủ cả) bất nghĩa và bất nhân nên mới gọi là thằng giặc tàn bạo. Nam nhi lập thân, lẽ đâu lại chịu mang tiếng là thằng giặc tàn bạo?
Chỉnh nghe vậy thì tái mặt, nhưng vẫn từ tốn trả lời:
-Gầy dựng là ơn riêng, cương thường là đạo lớn. Tôi làm việc này cũng chỉ để vun đắp cho cương thường, phải nói là chí nhân và đại nghĩa, hà cớ gì mà bác lại nói là thằng giặc tàn bạo? Chuyện này, nếu tôi không sai thì bác nói quá đáng.
Long nói:
-Vua Lê đã được tôn rồi, cần gì phải đợi ông phò? Chẳng qua ông giả mượn danh nghĩa để hòng tranh đoạt mà thôi. Nước nhà đang như chiếc âu vàng chưa hề sứt mẻ, thế mà ông vô cớ đưa người khác đến, trên thì giết chủ soái, dưới thì hại nhân dân, người ta còn cho ông là cú vọ lang sói nữa kia. Tôi bảo ông là thằng giặc tàn bạo thì đã có gì là quá đáng? Này ông dựa vào Tây Sơn thì có khác nào cáo mượn oai hùm, nếu những người có lòng trung thành với chúa Trịnh mà biết, ắt sẽ có biến loạn. Một mai Tây Sơn bỏ ông mà đi, thì với thân phận bé nhỏ như vậy, lại cộng thêm cái tội tày trời kia, hỏi ông còn biết nương vào đâu?
Chỉnh tuy chỉ muốn nghiến răng căm giận, nhưng vẫn cố đổi nét mặt rồi tươi cười mà nói rằng:
-Vậy thì bạn của lang sói và cú vọ thử bàn tính lối thoát cho lang sói và cú vọ xem sao?
Long liền nói:
-Ông ra đây chẳng qua là chỉ cốt để báo thù bọn kiêu binh đã giết quan Trấn thủ trước đây là Quận Huy mà thôi. Nay, kiêu binh đã bị diệt, ông đã toại nguyện rồi còn gì. Nếu ông biết mau chuyển lối, khéo điều hành với bọn (Nguyễn) Huệ và (Vũ Văn) Nhậm của nhà Tây Sơn, khiến cho họ được no say rồi quay về, xong, chọn lấy người hiền tài trong tôn thất họ Trịnh mà lập làm Chúa, còn ông chỉ lo việc phò tá, thì đó là công hiếm có ở đời.
Chỉnh nói:
-Phải đấy. Để tôi suy nghĩ. Bác hãy về đi, nhớ kiếm câu gì nên nói và cố sửa sang lời lẽ sao cho đẹp rồi đợi xem có ai ưa mà trổ tài, may ra có thể tốt đấy!
Long vừa ra khỏi, Chỉnh nói:
-Long là rồng. Nên cho rồng uống nước chớ không nên cho nó ở trên cạn khiến nó có thể làm mê hoặc thiên hạ.
Xong, Chỉnh liền sai người đón ở ngoài cổng, bắt Long trói lại, đưa đi dìm xuống dưới nước sông Nhị, để cho... rồng theo nước.”
Nguyễn Hữu Chỉnh và Đỗ Thế Long gặp nhau trong tù không đáng kể bằng việc gặp nhau trong sự... giảo hoạt, cổ nhân có câu: “ngưu tầm ngưu, mã tầm mã” là để chỉ những trường hợp đại loại như thế này đây. Song le, kẻ giảo hoạt làm gì có nghĩa tình, cho nên, chúng đánh giết lẫn nhau thì có gì là lạ đâu.
Nguyễn Hữu Chỉnh giết Đỗ Thế Long để rồi sau đó không bao lâu, đến lượt Nguyễn Hữu Chỉnh bị Tây Sơn diệt. Thế gian nhờ đó mà bớt được một kè thất đức, nhưng âm phủ từ đó lại phải nhận thêm một hồn ma bạo tàn.
Than ôi, nếu ai cũng biết trước rằng cái chết sẽ đến cụ thể ra sao thì có khi họ sẽ sống tử tế hơn. Chắc chắn là như thế mà.
ĐẠM AM NGUYỄN CƯ TRINH: TÀI KIÊM VĂN VÕ“(Nguyễn) Cư Trinh học rộng, thơ hay, tài kiêm văn võ. Khi cầm quân đóng ở dinh Bình Thuận và Gia Định, ông thường cùng tổng binh Hà Tiên là Tông Đức Hầu Mạc Thiên Tứ lấy văn chương đáp tặng nhau, ông có hoạ 10 bài thơ vịnh Hà Tiên của (Mạc Thiên Tứ)”.
Lê Quý Đôn (Phủ biên tạp lục) Nguyễn Cư Trinh hiệu là Đạm Am, người làng An Hoà, huyện Hương Trà, (nay thuộc tình Thừa Thiên -Huế). Tổ tiên Nguyễn Cư Trinh vốn người họ Trịnh. Khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, một người của họ Trịnh, tên là Trịnh Cam (quê ở vùng Thiên Lộc, nay thuộc huyện Cam Lộc, tỉnh Hà Tĩnh) nuôi chí báo thù cho họ Lê, bèn chạy vào làng An Hoà, huyện Hương Trà, âm thầm chuẩn bị lực lượng để dấy nghĩa. Nhưng việc đang tiến hành dở dang thì ông qua đời, con cháu của ông thấy không thể nối chí đánh đuổi nhà Mạc, liền đổi thành họ Nguyễn và định cư tại An Hoà, đến Nguyễn Cư Trinh là đời thứ sáu.
Bấy giờ, huyện Hương Trà có hai làng rất đặc biệt. Một là làng Đồng Di lừng danh hiếu học. Hai là làng An Hoà nức tiếng đỗ đạt cao, vì thế, dân gian vùng Hương Trà có câu rằng: “Học Đồng Di, thi An Hoà”. Thân phụ của Nguyễn Cư Trinh là Nguyễn Đăng Đệ. Đại Nam liệt truyện (Tiền biên, quyển 5) chép rằng: Nguyễn Đăng Đệ “là người ôn nhã và trung chính, văn chương uyên bác. Khi Nguyễn Đăng Đệ còn nhỏ, có thầy tướng trông thấy, nói rằng, mắt ông có tàng thần, đấy là cốt cách cao quý, chỉ phải tội tai thấp cho nên không thể đỗ cao. ” Về sau, quả là ông chỉ đỗ có Sinh Đồ (tức Tú tài), nhưng làm quan cẩn trọng, đức độ thanh liêm, trên thì phù chúa, dưới là dân gian, thảy đều mến phục, ông làm quan, trải thăng dần đến chức Kí lục. Nguyễn Đăng Đệ có hai người con được chính sử nhà Nguyễn trân trọng ghi chép, đó là Nguyễn Đăng Cẩn và Nguyễn Cư Trinh.
Nguyễn Cư Trinh sinh năm Bính Thân (1716). Ngay từ nhỏ, ông đã được thân phụ là Nguyễn Đăng Đệ trực tiếp dạy dỗ. Vốn thông minh và hiếu học, lại may mắn được thụ bẩm tri thức từ người cha đức độ và tài ba, chẳng mấy chốc, Nguyễn Cư Trinh đã nổi tiếng là thần đồng. Bấy giờ, đất Hương Trà có đến hai thần đồng. Một là Nguyễn Cư Trinh và hai là người anh con bác của ông: Nguyễn Đăng Thịnh. Sau, cả hai thần đồng này đều làm quan cho chúa Nguyễn Phúc Khoát. Đại Nam liệt truyện chép rằng: “phàm là điển chương pháp độ (của phủ Chúa) đều do Nguyễn Đăng Thịnh tạo lập rành mạch, còn phàm là tư lệnh (của phủ Chúa) thì đều do Nguyễn Cư Trinh soạn ra. ”
Năm Canh Thân (1740), Nguyễn Cư Trinh đỗ Hương cống (tức Cử nhân). Năm đó ông 24 tuổi. Suốt 27 năm làm quan. Nguyễn Cư Trinh đã có ba cống hiến nổi bật như sau:
Về chính trị: Nguyễn Cư Trinh là người có nhiều ý tưởng cải cách khá táo bạo. Những ý tưởng cải cách này thể hiện tập trung nhất trong bức thư ông dâng lên chúa Nguyễn Phúc Khoát vào cuối năm Tân Mùi (1751). Mở đầu bức thư đầy tâm huyết này, ông viết: “Dân là gốc của nước. Gốc mà không vững bền thì nước chẳng thể yên. Nếu ngày thường mà không biết lấy ơn nghĩa để cố kết lòng dân, thì thử hỏi đến lúc có việc sẽ nương tựa vào đâu?" Sau lời tâm huyết nói trên, Nguyễn Cư Trinh đề nghị phủ Chúa cần lưu ý bốn điều đang gây lo ngại cho xã hội. Một là nạn quan lại gây phiền hà nhũng nhiễu. Hai là tệ nạn ăn hối lộ của quan lại địa phương diễn ra rất trắng trợn mà không thấy xử phạt gì. Ba là nên miễn hoặc giảm thuế cho những người nghèo khó. Và, bốn là hạn chế việc sai quan của phủ Chúa về các địa phương mà không nói rõ chức phận, khiến cho bọn này cứ mặc sức tác oai tác quái đối với dân.
Thư ấy lời lẽ thống thiết mà chân thành, tiếc thay, Chúa đọc xong rồi... đem cất, không một lời nói lại. Nguyễn Cư Trinh buồn rầu xin từ chức nhưng không được.
Về quân sự: Nguyễn Cư Trinh là người có biệt tài cầm quân, dẫu ông chưa từng học ở bất cứ một lớp đào tạo võ quan nào. Thời chúa Nguyễn Phúc Khoát trị vì (1738 -1765), ông là người được tin cậy, trao quyền trấn giữ ở Bình Thuận và ở Gia Định. Chính ông là người đã có công vỗ yên dân chúng và mở rộng đất đai cho xứ Đàng Trong. Các vùng đất như Tầm Bôn, Lôi Lạp và Tầm Phong Long (nay tương ứng với khu vực miền Trung và một phần miền Tây Nam Bộ) là do ông đem về. Nói theo cách nói của các sử gia nhà Nguyễn thì: “Cõi Nam mở đất đến đây rất rộng, tất cả đều là do công của Nguyễn Cư Trinh”. Điều đáng nói là Nguyễn Cư Trinh cầm quân, nhưng thường thu phục đối phương bằng uy đức chứ không phải là bằng trận mạc.
Về văn chương: Nguyễn Cư Trinh là một trong những cây đại bút của xứ Đàng Trong giữa thế kỉ 18. Năm 1750, khi còn làm Tuần phủ Quảng Ngãi, để trấn an đồng bào các dân tộc ít người (mà sử cũ coi là mọi Thạch Bích), ông đã viết Truyện Sãi Vãi và cho lưu truyền trong nhân dân địa phương. Tuy lí do ra đời chỉ đơn giản như vậy, nhưng Truyện Sãi Vãi thực sự là một trong những án văn Nôm có giá trị của xứ Đàng trong, được nhân dân đương thời ưa thích. Khi cầm quân trấn giữ ở Gia Định, Nguyễn Cư Trinh có dịp được tiếp xúc với những áng thơ văn của các tác giả trong Chiêu Anh Các do Mạc Thiên Tứ sáng lập năm 1736. Ông đã viết nhiều bài thơ chữ Hán, hoạ lại mười bài xướng của Mạc Thiên Tứ về mười cảnh đẹp của Hà Tiên. Những bài thơ hoạ này của Nguyễn Cư Trinh đã được Bảng nhãn Lê Quý Đôn trân trọng ghi lại. Theo Lê Quý Đôn, chính nhờ những người như Nguyễn Cư Trinh mà: “Văn mạch một phương dằng dặc không dứt, thực đáng khen lắm”, cần lưu ý rằng, Bảng nhãn Lê Quý Đôn là một người cực kì khó tính, ông không dễ gì ban lời khen tặng đối với bất cứ ai.
Bởi ba cống hiến nổi bật kể trên, sinh thời, Nguyễn Cư Trinh rất được nể trọng. Đại Nam liệt truyện (Tiền biên, quyển 5) nhận xét về ông như sau: “Nguyễn Cư Trinh là bậc tài lược hơn người, đã thế lại còn giỏi quyết đoán. Những việc ông tâu bày phần nhiều đều tỏ được lòng trung và sự phải đạo. Khi coi việc quân ở cõi Nam, ông có công mở đất đai, giữ yên biên cõi, có huân vọng thật là siêu việt. ”
Sinh thời, Nguyễn Cư Trinh cũng là người nổi danh cương trực. Cũng sách Đại Nam liệt truyện nói trên đã chép lại chuyện cương trực của ông như sau: Năm 1765, khi Nguyễn Phúc Khoát qua đời, Nguyễn Phúc Thuần được đưa lên nối nghiệp, ông cũng được gọi về phủ Chúa để cai quản bộ Lại kiêm quản Tào Vận Sứ. Bấy giờ, quyền thần Trương Phúc Loan bắt đầu lộng hành, thường hay triệu các quan tới nhà riêng bàn việc chứ không bàn ở phủa Chúa. Nguyễn Cư Trinh biết được, liền nghiêm mặt mắng rằng:
-Bàn việc công ở phủ đường là chế độ đã định rõ từ lâu, Trương Phúc Loan sao dám vô lễ mà làm trái như thế? Thiên hạ mà loạn thì hẳn là do con người này thôi.
Các quan nghe Nguyễn Cư Trinh nói vậy, liền không dám đến nhà của Trương Phúc Loan nữa. Trương Phúc Loan giận ông lắm, nhưng cũng chẳng dám làm gì.
Năm 1767, Nguyễn Cư Trinh qua đời, hưởng thọ 51 tuổi. Đất nước mất một đấng tài hoa, văn võ song toàn, ông có hai người con trai là Nguyễn Cư Tuấn và Nguyễn Cư Sĩ, cũng đều đáng xếp vào bậc có tài.