Chương 3
Người Ý rất giỏi giải quyết những tình huống như thế này. Trong một tình thế khó xử thì người Ai-len thường run rẩy van nài rất điệu nghệ; nhưng người Ý biết những gì là quan trọng trên đời này: rằng mọi người đều cần cái ăn và chỗ ở, quân đội chỉ chiến đấu được khi bao tử không sôi ùng ục, và trẻ con cần phải được tắm rửa rồi cho đi ngủ. Ngoại trừ tại các lễ tang khi họ bị kích động mà chẳng ai giúp được gì cho họ, thì người Ý làm những gì cần phải làm. Mẹ chồng Beth, bà Rosie, tay cầm chìa khóa bước qua cửa xoay. Bà đã lái xe. Ông Angelo rất muốn được cầm lái nhưng ông lớn hơn bà mười tuổi và thường sơ suất khi lái xe ngay cả những lúc minh mẫn nhất. Bà Rosie quán xuyến hết mọi việc trong nhà nên không tin tưởng ông mỗi khi gặp hoạn nạn. Bà Rosie nhỏ con, yếu ớt, chẳng hề giống mẫu các bà mẹ quàng khăn choàng đen của vùng Sicily - bà cắt tóc bum bê, và đeo một kẹp cài áo màu mận nơi áo khoác. Trông bà rất sang, Beth nghĩ, và rất tự tin khi bà vỗ nhẹ má Beth và nói nho nhỏ “Carissima, cưng của mẹ” rồi trao đổi một cái nhìn với Pat (không cần nói thêm lời nào). Sau đó, không chờ cho họ báo cáo tình hình - bà Rosie nói là mình sẽ biết ngay nếu có gì khả quan hơn - bà đi thang máy lên lầu để đưa Jill và Kerry xuống. Mẹ của Jill, cháu gái bà Rosie, đang có mặt ở nhà bà. Jill sẽ vui hơn khi được ở bên mẹ. Ellen đề nghị bảo chồng cô là Dan đến đón Vincent để nó có thể chơi với con trai họ là David; nhưng bà Rosie đã mỉm cười ngăn cô lại: “Vincenzo sẽ về nhà bác, Ellen yêu quý ạ. Như thế tốt hơn.” Ellen biết tính bà Rosie từ lâu nên không cãi lại. Với Beth, căn phòng bỗng trở nên tưng bừng như một buổi lễ hội khi bà Rosie đến. Cô biết người mình hôi hám vì mới nôn xong mà còn bốc mùi rượu nữa; nhưng bà Rosie, người thường trợn trừng mắt với những hành vi bà gọi là “stupida”, đã không chú ý, hay đã vờ không chú ý. Ông Angelo đi thật nhanh vào đặt một khay bánh ốc có kem lên bàn nơi chiếc điện thoại đang kêu rè rè để mời cảnh sát. Mấy người cảnh sát đưa mắt nhìn nhau cười gượng gạo. Beth nhủ thầm: Họ không hiểu rồi: có qua có lại mới toại lòng nhau chứ. Họ sẽ nhớ những bánh ốc kem và họ sẽ gọi thêm một cú điện thoại. Ông Angelo ôm lấy vai Beth và nhìn cô, rồi ông hôn môi Pat. “Lạy Chúa tôi.” Ông xé miếng giấy bọc mấy cái bánh ốc kem ra. Một cái bị chệch; theo thói quen, ông Angelo lật nó lại và đặt cho ngay hàng với mấy cái kia. Bà Rosie và ông Angelo là thế hệ đầu tiên, nhưng thực dụng và không sỗ sàng. Họ là những người cung cấp thực phẩm và phục vụ cho những bữa tiệc; không thể có đám cưới nào của đám găngxtơ diễn ra ở miền tây mà thiếu món bò cuốn phômai và bánh ốc kem của Rosie và Angelo, hay thiếu chú thiên nga bằng đá nhiều màu và suối rượu sâmbanh của họ. Nhưng không chỉ đám găngxtơ - bà Rosie và ông Angelo cũng phục vụ những đám cưới của những thường dân theo đạo Thiên Chúa, những người thậm chí không phải là người Ý, cho cả những người theo đạo Tin Lành và cả những người Do Thái. Họ ướp ức gà với mù-tạc và dấm đỏ; họ là những người đầu tiên rắc hột của cây sen đất nasturtium vào món xà lách; họ làm cho cô dâu và chú rể một bánh cưới nhiều tầng được đông lạnh và sẽ tan ra khi sinh đứa con đầu lòng. Họ biết cách làm nhiều thứ. Họ chưa có đứa con nào bị bệnh hiểm nghèo cũng như chưa mất đứa cháu nào. Họ lấy nhau đã được bốn mươi năm và theo Beth biết thì bi kịch đớn đau nhất trong đời họ là cái chết của chính mẹ cô, người bạn thân nhất của họ. Tuy vậy, Beth biết họ sẽ làm điều cần phải làm. Họ sẽ giúp tìm được Ben và họ sẽ tha thứ cho cô. Ngược lại, ông Bill cha của Beth, mặt đỏ phừng phừng, lại tỏ ra ngạc nhiên. Không phải vì cơn hoạn nạn này; ông đang chơi đánh gôn với mấy nhân viên cứu hỏa. Ông đã từng là sếp, suốt thời thơ ấu của Beth, dù giờ đây ông đã nghỉ hưu được mười năm. Beth thậm chí đã không cho ông biết cô sẽ có mặt trong thành phố - cô còn phải chụp ảnh cho công việc nữa mà, và buổi tối họp mặt với bữa ăn sáng trễ sẽ choán hết thì giờ của cô. “Con đang làm gì vậy, cưng?” ông hỏi Beth và vừa kéo áo len dài tay lại cho ngay ngắn vừa cúi xuống nắm lấy tay cô. “Ben bị làm sao? Nó đang nằm viện hả?” Bà Rosie đã để lại một lời nhắn ở lỗ thứ mười chín và một cậu bé đã lái chiếc xe đặc dụng trong sân gôn đưa ông đến khách sạn. “Bill à, Ben mất tích rồi...” Pat nói. “Mất tích? Nhưng nó mới hai tuổi thôi mà. Mất tích ở đâu?” “Nó ba tuổi rồi Bill. Ngay tại đây. Họ nghĩ chắc nó đang ở đâu đó trong khách sạn...” “Ba tuổi rồi sao? Ừ nhỉ. Có ai gọi điện báo cho cảnh sát chưa?” Pat thở dài. “Ờ, chắc đã gọi rồi nhỉ,” ông Bill tiếp tục. “Bố thấy phức tạp rồi đó. Có ai gọi cho Stanley chưa?” Stanley là cảnh sát trưởng ở Chester, khu ngoại ô phía tây nơi ông Bill đã làm trưởng đội cứu hỏa trong suốt hai mươi ba năm. “Đây là Parkside, Bill à,” Pat đáp. “Parkside thuộc quyền quản lý của họ. Nhưng cũng có cảnh sát của Chester ở đây, và của Barkley nữa. Thậm chí của cả Rosewell.” “Ờ, nhưng Stanley có thể giúp được,” ông Bill cho rằng người mà ông biết luôn có thể giải quyết những vấn đề như thế này. Ông nói với Pat: “Mấy tay cảnh sát này còn trẻ quá.” “Lúc đó con ở đâu hả Patrick, khi thằng bé bỏ đi ấy? Lúc đó Beth ở đâu?” Trong khi Ellen đang giải thích toàn bộ sự việc cho ông thì Beth đứng lên, đi thơ thẩn vào quầy rượu. Cô thấy tay pha rượu liếc nhanh cái áo sơ mi vải của cô vẫn đang còn ướt và ố nơi Ellen đã lấy miếng bọt biển chùi vết nôn. Nhưng tay pha rượu, một gã Bồ Đào Nha có bộ ria tỉa tót thật kỹ lưỡng, vẫn đưa cho cô ly vodka pha nước khoáng mà cô yêu cầu. “Bà Rosie!” ông Bill gọi oang oang khi bà Rosie bước xuống tiền sảnh, tay bế bé Kerry đang ngủ, dắt Jill đang nắm tay Vincent với cái túi ngủ và quả bóng của nó. “Chuyện gì xảy ra vậy, bà bạn? Toàn bộ chuyện này là thế nào?” “Hôn ông ngoại con đi, Vincenzo”, bà Rosie nói. Vincent, rất hay mắc cỡ khi mới gặp ông ngoại, ngước mặt lên cho ông ngoại hôn. Ông Bill bế Vincent lên và ôm lấy ông Angelo. “Ange, chuyện thế nào? Thằng bé đâu?” Beth uống hết ly rượu. Cô chẳng thấy say tí nào, thậm chí cũng không buồn nôn - rượu chảy xuống cổ cô chầm chậm, như sôcôla nóng vậy. Cô bắt đầu thu nhỏ lại. Cha cô không đứng ra chỉ huy; ông có thói quen hành động như thể thiên hạ luôn làm ông lúng túng. Beth biết thật ra không phải thế; chỉ vì ông luôn muốn người khác phải gánh vác, lo liệu hết mọi chuyện thôi. Khi mẹ cô hấp hối, ông đứng nơi tiền sảnh của bệnh viện, mặt nhăn nhó đau khổ, trong khi các bác sĩ giải thích rằng bà Kerry cần phải được thẩm tách, mà thậm chí như thế cũng có lẽ sẽ không làm bớt được.... “Sao hả?” ông Bill đã nói với họ. “Cái khối u này, nếu các ông cắt bỏ nó đi, tại sao lại ...?” Thật khôi hài khi ông vừa lỡ lời không phải lúc với họ, vừa hoang mang như thế. Chúng tôi đã nói là hai tuần à? Cô tưởng tượng ra cảnh các bác sĩ báo cho cha cô. Chúng tôi muốn nói là hai ngày. Mọi cuộc phẫu thuật để tạm thời làm nhẹ căn bệnh, mọi nhóm kháng sinh dự kiến sẽ làm bớt nhiễm trùng đều sinh ra một biến chứng mới, rất nhiều các mô khác bị hoại tử, một số chức năng không hoạt động được. Các bác sĩ tiếp tục thăm dò và hội ý để giúp bệnh nhân chống chọi lại căn bệnh. Ông Bill tiếp tục hỏi họ khi nào thì Evie sẽ khỏi, chứ không hỏi còn bao nhiêu thời gian. Beth và các anh cô, Paul và Bick, lúng túng, thương hại ông vì ông quá ngây thơ và cũng chính vì thế mà ghét ông. Họ muốn ông đứng ra chỉ huy họ như khi ông chỉ huy đội cứu hỏa của ông trong một vụ cháy ở khu công nghiệp, và muốn tự cáng đáng lấy công việc nên lay lay ông và nói: “Bố ơi, mẹ sắp mất rồi.” Nhưng bệnh của bà Evelyn ngày càng nặng thêm; và ông Bill vẫn bối rối khi bà chết. Ông nói với Beth tại phòng khách của nhà quàn: “Trông bà ấy đâu có giống như bị nhồi đầy thuốc độc, đúng không? Đúng mà, phải không?” Giờ đây ông cũng nhìn Beth y như thế. Như thể cô sẽ giải thích cặn kẽ cho ông. Một trong mấy nhân viên người to bè bè báo: “Chúng ta có một người không nhận dạng được, tại bệnh viện Elmwood.” Mọi người ngừng cả lại. Candy Bliss lao qua sảnh như đang chạy nước rút, chộp lấy điện thoại. “À, một thằng bé... Không, tôi không nghĩ là như thế.” Cô nhìn quanh tìm Beth. “Ben có nói được tiếng Tây Ban Nha không?” Beth lắc đầu và một lát sau, khi sực nhớ ra, Candy hỏi tiếp: “Còn tiếng Ý?” “Chỉ mấy từ chửi thề thôi”, Pat nói. Không ai cười cả. Và Pat lại tiếp: “Nó nói tiếng Anh. Tiếng Anh của chương trình Sesame Street.” “Chúng tôi sẽ gọi lại sau”, Candy Bliss nói. Đứa trẻ lớn tuổi hơn, cô nói với Beth. Nó bị xe hơi đụng khi đang đi xe đạp; nó không sao. Ít nhất cũng bốn hay năm tuổi. Và Elmwood cách đây mười lăm cây số. Nhưng tóc nó cũng nâu vàng. Beth ngước lên. Candy Bliss nhấn ngón tay trỏ vào khoảng giữa hai mắt. Cô gọi: “Jimmy! Anh gặp Ben rồi, phải không? Anh chạy tới đó ngó qua thằng bé này một chút nhé, được không? Xem nó bị làm sao?” Jimmy đang lấy áo choàng. “Mấy người gọi đến là ai vậy?” Beth hỏi. “Phần lớn là từ những sở khác, gọi để báo cho chúng ta những gì họ nghe được, vậy thôi”, Candy Bliss đáp. “Sau này, khi... à, nếu chúng ta phải đăng báo thì sẽ có rất nhiều cuộc gọi, thậm chí tự xưng là Elvis nữa, nói là mình đã gặp Ben.” “Quái gở.” “Người nước ngoài. Thỏ Phục Sinh. Và những khán giả quá cô đơn của mấy chương trình truyền hình thực tế.” “Nhưng nếu một người trong bọn họ thật sự thấy Ben thì sao?” “Đó là lý do chúng tôi vẫn nghe Thỏ Phục Sinh.” Đi qua chỗ họ là một loạt những gương mặt sầu thảm, hơi quen quen, những người tránh cuộc họp mặt. Ellen đã cho cô biết là có vài người ở lại, phần lớn là những người buộc phải ở lại đây vài ngày. Và họ muốn giúp cô. Nhưng đa số sẽ về nhà, hay đi thành những nhóm lớn ra phố ăn tối. “Chúng tôi vẫn có thể ở lại đây chứ?” Beth hỏi. Cô muốn tỏ ra dễ chịu, là người thưa kiện gương mẫu, là típ bệnh nhân các nha sĩ thích nhất vì luôn há miệng thật to. “Dĩ nhiên rồi.” Cô mỉm cười với Pat. Giờ thì anh đang phải nghe tường thuật lại vụ việc, đánh giá khả năng thành công. “Dù gì đi nữa thì bên ngoài trời đang đẹp lắm; chắc chắn nó sẽ không thấy khó chịu đâu.” Beth há hốc miệng nhìn đồng hồ. Đã chín giờ mười lăm. Ben đã mất tích tám tiếng rồi. Thời gian của một ngày làm việc. Một ngày đi học. Một khoảng thời gian không tình cờ chút nào. Cô nhảy dựng lên, mồ hôi toát ra đầm đìa. “Trễ quá rồi!” “Đó là những gì tôi muốn nói, thưa chị Cappadora. Về một mặt nào đấy thì đây là một thuận lợi. Giờ này bên ngoài đã yên tĩnh, và chúng tôi có thể bắt đầu biết chuyện gì đang xảy ra trong thành phố. Đội quân khuyển đang trên đường làm nhiệm vụ, và chúng ta sẽ có máy bay trực thăng yểm trợ từ Chicago. Chúng ta cũng sẽ có một đội tuần tra quanh khu vực này nữa...” “Máy bay trực thăng à?” Beth hỏi. “Được trang bị những bộ phận cảm biến hồng ngoại, Beth ạ. Khi mọi thứ trở nên yên tĩnh thì chúng có thể quét được những khu vực trống. Chúng dò ra được những vật tỏa nhiệt. Một người đang nằm chẳng hạn.” “Hay một người đã chết.” “Hay một cơ thể, đúng vậy. Nhưng đó không phải là những gì chúng tôi đang tìm ở đây. Chúng tôi muốn có được một dấu hiệu của Ben dù nó đang cố trốn không cho ai tìm thấy, ví dụ trong bụi rậm chẳng hạn. Chị hiểu chứ?” Cô ta xin phép ngừng một chút rồi nói nhỏ với một cảnh sát đang nói chuyện điện thoại, nhỏ đến mức Beth gần như không thể nghe được. “Họ đang gây giống lũ chó chết tiệt đó hay làm gì chứ?” “Rosie đâu?” Beth hỏi Pat, nắm lấy tay anh, bàn tay lạnh ngắt và ướt mèm. “Rosie đâu?” Bà Rosie đang chuẩn bị chở lũ trẻ về nhà. Nhưng bà đến bên Beth, lầm bầm nho nhỏ trong miệng như tiếng mèo rừ rừ, rồi bà vén mớ tóc rối bù của Beth ra sau tai như thể cô là một bé gái. Trên tay Jill, Kerry đang mút bình sữa chùn chụt; bà Rosie nắm tay Vincent thật chặt rồi bảo nó: “Hôn mẹ con đi. Con sẽ gặp lại mẹ sau. Mình về nhà bà nội ngủ nào.” Mắt nó ánh lên vẻ mệt mỏi, và có một vẻ gì khác, một vẻ ngượng ngập trước đây cô chưa từng thấy nơi đứa con đầu lòng bảo thủ của mình. Vincent nghiêng người tới trước. Beth hờ hững ôm lấy nó; nhưng trong một thoáng, nó níu lấy cô làm cô ngạc nhiên. Rồi Vincent nắm tay bà Rosie và bước đi vài bước mà không quay ra sau. Thình lình nó dừng lại. “Mẹ ơi,” nó gọi. Beth nghe, nhưng cô không còn hơi sức nào để trả lời nữa. “Mẹ ơi,” Vincent lại gọi, như muốn nói chuyện. “Ben về chưa?” Bà Rosie kiên quyết nói: “Chưa đâu con. Nhưng em sẽ sớm trở về thôi.” Nhưng Vincent đang nhìn thẳng vào mắt Beth, đôi lông mày rậm rì đến buồn cười xệ hẳn xuống vì nó đang cố tập trung hết sức. “Mẹ, con hỏi mẹ đó. Ben về chưa?” Beth đáp: “Cưng ơi. Chưa.” “Ôi,” Vincent thốt lên. Beth đưa tay che mặt, lấy mấy ngón tay cào cào. Cô nhìn xuống móng tay mình. Lớp thuốc sơn màu đỏ san hô bảohành-hai-tuần đã ố và nứt nẻ. Ông Angelo và ông Bill không đi về nhà. Họ ở lại nơi tiền sảnh, nằm ườn trên ghế bành dù người quản lý cứ lăng xăng khuyến khích mọi người nên chuyển lên phòng khách ở tầng trên. Người ta đi vào tiền sảnh Tremont, nhìn vào trung tâm chỉ huy, rồi biến đi thật nhanh. Ellen và Nick Palladino đang ở quầy rượu; Wayne đã tập hợp được một lực lượng tình nguyện viên khoảng mười lăm bạn học cũ lấy xe của họ đi kiểm tra khu nghĩa trang, bãi đậu xe của trường, và công viên Hester. Beth nghe hai cảnh sát nói với nhau rằng bên ngoài giống như thiên hạ đang chơi trò xe đụng vậy, nhưng không ai còn tâm trí nào để ngăn họ lại. Pat dìu Beth đến một cái ghế tiện nghi hơn cạnh chiếc dương cầm. Candy Bliss đi theo họ. Cô muốn một tấm ảnh của Ben để đưa cho giới báo chí. Giờ đã trễ rồi, và cô không muốn trễ mất hạn chót của tờ báo buổi sáng. Beth có ảnh không nhỉ? Cô có cả chục tấm - cô đem theo nhiều lắm vì muốn khoe với bạn bè trong buổi họp mặt. Nhưng cô không biết ví của mình hiện đang ở đâu - cô nói với Bliss như thế. Pat thấy nó dưới chiếc xe đẩy hành lý. Cái ví ướt mèm, mọi thứ bên trong lộn tùng phèo hết cả. Anh lấy ra một tấm hình Ben mặc áo bóng chày, miệng cười toe, tay giơ chiếc găng bắt bóng sát một bên má. Sau này Beth thường thắc mắc lúc đó cô đang tưởng tượng điều gì. Có phải cô đã tin, như trẻ nhỏ thường tin, rằng vì Ben đã đi xa nên cô không thấy được nó và nó có thực sự bị treo lơ lửng trong cái túi của vũ trụ không? Nó có ngồi trên một bong bóng, an toàn nhưng xa cách, chờ cho mẹ nó lại chú ý đến nó, để nó được trở lại thành một thực thể? Có phải Beth đã tin rằng vì cô, mẹ của nó, không thể thấy nó nên Ben đã không còn hiện hữu như một con người có thể cảm nhận được nỗi sợ cũng như những hoang mang? Ben là một đứa trẻ có thực trong cái đêm thành thị này. “Ben ơi!” Beth gào lên. Và một lần nữa, khi cái vỏ bọc bên ngoài sự tự chủ mong manh của cô rạn nứt rồi vỡ òa, cô lại hét lên: “Ben ơi! Ben! Ben ơi! Ben!” Đã dễ chịu hơn rồi. “Ben ơi!” Beth thét lên. “Ben ơi!” Khi Pat đưa tay định ấn cô ngồi xuống thì cô nghiêng người tới trước rồi cắn vào bàn tay anh thật mạnh làm nó chảy máu. Tiền sảnh khách sạn giống như phòng cấp cứu trong bệnh viện và tự nhiên mọi người đều lăng xăng. Pat và Jimmy cố ghì tay Beth lại; nhưng cô vùng ra được khi họ quờ quạng cố giữ cô. Cô như một con lươn, một thứ gì đó được phủ một lớp dầu bảo vệ bên ngoài. Người quản lý đi tìm mấy nhân viên bảo vệ mặc đồng phục tím đang thương hại nhìn Beth giẫy giụa đạp, và chặn hết các lối đi ra cửa mỗi lần cô định đứng lên. Cô mạnh thật, rất mạnh. Cô thấy hết mọi thứ: bàn tay chảy máu của Pat; những ánh mắt lén lút, sợ hãi; những ánh mắt nhìn đi chỗ khác của mấy cặp vợ chồng phải đi qua tiền sảnh. Cô thấy Nick đang ôm đầu với những lọn tóc óng ánh nâu; cô nghĩ chắc anh đang khóc. Lưng anh nhô lên thụp xuống. Beth ngừng lại, bất động một chút rồi lấy hơi thật dài tiếp tục hét lên: “Ben ơi! Ben! Ben!” Candy Bliss nói nhanh với người quản lý: “Gọi bác sĩ đến đây ngay đi.” “Tôi không biết vị bác sĩ nào cả”, người quản lý mũm mĩm nói. “Trời đất, ông không có một bác sĩ trực cho những trường hợp khẩn cấp như thế này sao?” “Chúng tôi chưa từng... Bà ấy muốn gì?” “Ông thật là...”, Candy Bliss vừa nói vừa bực tức thở hắt ra. “Mẹ kiếp. Gọi 911 đi.” Beth bắt đầu mệt; mấy bắp thịt nơi cánh tay cô nóng ran. Nhưng chỉ cần cô thấy mấy bức ảnh trẻ con chụp ở buổi tiệc lấp lánh sáng màu cơ bản đó trên chiếc bàn uống cà phê cũng đủ làm cô lại muốn hét lên, không thể cưỡng lại được như trong một cơn cực khoái. “Ben! Ben ơi! Ben ơi!” Người quản lý đem đến cho Candy Bliss chiếc điện thoại di động. “Người mẹ đang gặp vấn đề.... Vâng, bị kiệt sức.... Đúng vậy, anh có thể nghe thấy đó.... À, không, không cần phương tiện vận chuyển đâu.... Phái ai đó tới đây đi.” “Lạy Chúa tôi, Beth, thôi đi con!” bố cô bình tĩnh nói. “Ben!” cô hét vào gương mặt bì bì đầy gân của ông. Trông ông giống như con chó săn, cặp mắt buồn nẫu, sưng mọng. Một người đàn ông cục mịch đã từng rất đẹp trai mà giờ rượu đã làm mất hết những nét hấp dẫn. “Beeeeennnnn!” Mắt ông Bill đầy lệ. Pat lùi lại - run rẩy, anh lùi xa chiếc ghế nơi Beth đang vật vã. Beth nhìn đồng hồ. Nó mờ tịt. Mười một giờ rồi à? Cô hét lên: “Beeeennnn!” Một y tá, rất nhanh nhẹn, vòng qua cánh tay Beth cái đo huyết áp. Và vị bác sĩ mặc đồ thể thao đến mấy phút sau đó xịt mấy giọt nước vàng óng từ ống tiêm ra. “Chúng tôi sẽ giúp cô nghỉ ngơi, ngay tại đây.” Ông ta vừa nói vừa dùng bông thấm cồn lau cánh tay và bàn tay cô, bất cứ phần da nào ông có thể chạm đến được trong khi cô vật vã. “Nghe này,” ông nói với cả phòng, “chúng ta cần...” Nick chạy băng qua phòng và nằm đè nửa người lên mình Beth; mùi da thịt anh tuyệt quá, hấp dẫn quá. Ngực anh rắn chắc và rộng hơn ngực Pat. Anh ép chặt tay trái của Beth vào người cô trong khi cô y tá duỗi cánh tay phải của Beth ra. Thuốc bắt đầu thấm làm cô đau đớn, nhức nhối. “Bethie,” Nick nói, “anh biết, anh biết.” “Biết cái đếch gì chứ?” Beth vừa nói vừa cười vang. “Anh làm sao biết được. Thậm chí em còn không biết nữa là.” Thuốc lan xuống đùi cô, làm dịu phần ngực cô, lan vào hàm cô; cô cảm thấy có một dòng nước miếng ngay khóe miệng. Đó là thuốc mê. “Giờ thì ông có thể mổ tôi rồi đó,” cô nói với vị bác sĩ; ông ta không biết cô đang đùa. Rồi mấy cái cánh màu đen lướt qua mặt cô. Và rơi xuống. Khi Beth tỉnh dậy, cô bị lèn chặt vào một cái giường lớn. Chặt đến nỗi cô gần như đang mặc cái áo dành cho người điên vậy. Ben. Tất cả các ngọn đèn trong phòng đều đã được bật sáng. Ngay cạnh giường cô, trên một chiếc giường lớn, Pat đang ngủ trên tấm khăn trải giường. Cô gọi nho nhỏ: “Pat.” Anh không nghe thấy và vẫn tiếp tục ngáy. Beth muốn đi tiểu. Cô đứng dậy, loạng choạng một chút rồi đi vào phòng tắm lát gạch màu kem mát mắt. Cô tiểu, đều đều, bình thản, tiểu cho hết, như thể thuốc đã làm chết một mớ các dây thần kinh não. Cô muốn đánh răng. Mình đang làm những gì mọi người thường làm, Beth nghĩ, vẫn muốn tống các chất thải trong người ra, làm sạch bản thân, làm dịu cơn khát. Tự nhiên Beth nghĩ thậm chí khi mẹ cô mất, cô và Ellen đã choáng váng đến thế nào, không phải vì cuộc sống vẫn cứ tiếp diễn, mà vì sao nó tiếp diễn nhanh đến thế, sao nó không thay đổi. Người ta vẫn phải ăn, vẫn phải đọc báo, không thể trì hoãn được. Vị linh mục trẻ đã bảo Beth rằng toàn bộ việc ăn uống, nói năng này là những xác nhận về cuộc sống. Ông ta là típ người theo chủ nghĩa nhân văn; ông nghĩ mình có thể dụ người khác theo đạo Thiên Chúa bằng cách giả vờ nói rằng chương trình đó đã được sửa đổi. Lúc đó Beth biết rất rõ cô không muốn xác nhận cuộc sống cũng như sức khỏe của mình. Bây giờ cô thậm chí còn biết chắc chắn hơn. Cô chỉ muốn thoát khỏi những trói trăng của thân thể. Cô mở toang cửa sổ được ràng rịt đầy dây nhợ, và thò cổ ra, ngước lên. Có một lối đi dưới đó, rất hẹp, và một bức tường, khu khách sạn bên kia trải xa lên phía trên mà Beth không thể thấy hết được. Có một con mèo dưới đó, đang quậy quọ trong mấy thùng rác. Beth gõ gõ kính; con mèo nhìn lên. Cô thấy nó khép cặp mắt vàng của nó lại rồi nó nhe răng cười như điên. Cô không cảm nhận được Ben, cũng không cảm nhận được cái chết hay cái với tay của nó. Cô sập mạnh cửa sổ. Pat ngáy rền thêm nữa. Thật là một gã ngu xuẩn, cô nghĩ thế khi nhìn anh. Tôi không thích anh. Mở toang các tủ quần áo và các ngăn kéo, cô không thấy hành lý của mình đâu cả. Chẳng có thứ gì của cô hết. Cũng chẳng thấy cái đồng hồ treo tường nào. Pat nhăn mặt trong giấc ngủ. Beth thò đầu nhìn ra ngoài hành lang. Bên ngoài thật yên tĩnh, đèn mờ mờ. Cô không tìm được đôi giày của mình. Cô có thể nghe thật nhỏ tiếng cánh quạt trực thằng quay ở bên ngoài. Trong thang máy nơi tiền sảnh đèn mờ hơn nhưng tĩnh mịch. Nơi bàn giấy, một cô gái tóc hoe vàng đang chống cằm ngủ. Khi Beth đến gần, cô ta ngồi bật dậy, nén một tiếng kêu khẽ. “Cảnh sát đâu?” Beth hỏi. “Ồ,” ngay lập tức cô thư ký đáp lại với vẻ thông cảm. “Họ đi rồi.” “Họ đi rồi?” “À, nghĩa là không phải họ bỏ đi đâu - họ ở bên ngoài kia kìa, nhiều lắm ạ. Nhưng họ lấy điện thoại và các thứ xuống và về lại sở cảnh sát rồi.” Mặt cô ta bừng sáng. “Kênh truyền hình số 5 đang có mặt ở đây. Cả kênh 7 nữa - Bản tin Nhân Chứng. Họ đặt dụng cụ của họ ở đây, ngay trong tiền sảnh này cho bản tin mười giờ sáng. Nhưng bà thám tử trưởng không cho họ đánh thức bà dậy.” Beth gật đầu. “Tôi muốn lấy đồ đạc của tôi.” “À, thuốc đánh răng, phải không ạ? Bàn chải nữa. Để tôi lấy cho.” “Không, đồ đạc của tôi cơ. Túi xách của tôi ấy.” “Tôi nghĩ họ bỏ nó vào tủ và khóa lại rồi,” cô thư ký trẻ lục lọi dưới một mớ chìa khóa, tìm được chiếc túi vải của Beth và đưa cho cô. Beth kéo lê nó đến phòng vệ sinh cách xa tiền sảnh. Cô cởi cái áo hôi rình ra rồi mặc một áo phông mới vào. Cô thấy một áo len vải bông tay dài, màu sáng, có kết những hột đỏ và vàng. Để mặc trong bữa tiệc trưa ngày Chủ Nhật. Đôi giày đế bằng màu đỏ bóng lộn. Cô mặc cái áo đó rồi mang đôi giày đỏ vào. Những vật dụng cần thiết cho cơ thể. Rồi Beth đánh răng, rửa mặt. Khi nhồi xà bông và kem đánh răng vào lại trong túi đồ, cô thấy quần áo Ben lộn xộn giữa đống đồ lót của mình, đôi vớ dài nhỏ xíu và bộ đồ liền thân của Kerry. Đôi giày cao su của Ben. Cái áo thể thao Blackhawks của nó. Cô thật là cẩu thả, bừa bãi. Beth cột túi đồ của mình lại rồi nằm sấp đè lên nó, trán cô chạm xuống sàn nhà. Rồi cô đứng dậy, kéo cái túi trở lại phía quầy lễ tân. “Tôi phải đi ra ngoài”, Beth nói với cô thư ký. “Bà cần tôi gọi ai không ạ? Bạn của bà...” cô ta nhìn chiếc bìa kẹp hồ sơ trước mặt mình - “Thưa bà DeNunzio?” “Tôi phải ra ngoài, thế thôi.” “Đã nửa đêm rồi. Không còn tiệm nào mở cửa đâu ạ.” Ben đã mất tích hơn mười hai tiếng rồi. Cô gái này lại nghĩ Beth muốn đi mua sắm. Cô ta hỏi: “Bà muốn uống cà phê không ạ?” “Không, cảm ơn cô,” Beth đáp rồi đi ra ngoài, vào màn đêm Florida tinh khiết, ngát hương. Có sáu nhóm tạo thành một vòng tròn thưa đứng trên con đường vòng cung dẫn vào khách sạn, có cả một chiếc xe tải mà Beth đoán là một trung tâm liên lạc di động vì cô thấy một số thiết bị điện tử trên nóc xe. Dây cáp bò ngoằn ngoèo từ chiếc xe băng qua vỉa hè, chui xuống dưới các cánh cửa của khách sạn Tremont. Chiếc xe nổi tiếng quay chương trình Bản tin Nhân Chứng vẫn còn đó, ánh đèn trắng từ xe chiếu xuống vỉa hè tối đen làm ta có cảm giác như đang có mặt trong buổi lễ trao giải Oscar; và một nhóm người Beth nghĩ là phóng viên báo chí đang nói chuyện với anh chàng thám tử trẻ tuổi. Họ đang nói chuyện, nhưng anh ta chỉ cười và lắc đầu. Cô ngắm những nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp, tay lủng lẳng đầy những dụng cụ để tác nghiệp, đang xếp hàng chụp mấy chiếc xe cảnh sát đậu dưới cổng vòm có chữ “Khách Sạn Tremont”. Những bức ảnh chán ngắt, Beth nghĩ; đáng lý mình chụp mới đúng. Ờ, mà mình phải có mặt trong hình chứ, để làm tấm ảnh đẹp hơn. Cô lẻn ra phía sau xe, và không ai thấy cô băng qua. Ngoài đường yên tĩnh, chỉ có đèn đường - loại đèn sáng mà bố cô đã đổ khá nhiều cổ phần vào đó. Ben ơi. Một đêm không trăng. Nhìn qua bên kia đường, Beth thấy những ánh đèn xanh trên nóc trường Immaculata. Không có xe đậu ở đó. Beth băng qua đường, cô hít mấy hơi thật dài và thấy khỏe hơn. Cô nhìn vào cửa tòa nhà C. Bên trong tối đen. Nghĩ đến tòa nhà C đi, cô tự nhủ, mình sẽ không đau đớn khi nghĩ về nó. Sinh viên năm ba và năm tư thường tụ tập trong tòa nhà C trước giờ học. Một sinh viên năm hai có thể vào đó nếu cô nàng hẹn hò với một chàng sinh viên năm ba; nhưng những mối quan hệ như thế thường không bền. Beth có thể thấy cánh cửa dẫn đến văn phòng hội đồng sinh viên - cánh cửa mà Beth có chìa khóa riêng vì là nhân viên trong đó. Sau bữa ăn trưa, cô và Nick thường kéo rèm xuống, khóa cửa lại rồi nằm lên bàn họp, mướt mồ hôi vì mò mẫm sờ soạng nhau. Trong suốt giờ học lượng giác và tiếng Anh III, bụng Bethie quặn đau, co thắt. Lúc đó cô tin rằng bất cứ ai nhìn cô cũng đều biết, đều có thể thấy dấu tay Nick trên người cô như thể chúng được in bằng sơn dạ quang. Cô đi qua sân trong, qua bức tượng, qua cửa ra vào có băng rôn với những dòng chữ “Hãy xem “Dracula!” tại Olde Tyme Dramatics” và “Chúc mừng các bạn trở về với Lớp 70 của Immaculata!” Cô đi ra ngoài, qua nhà thể dục thể thao, qua mấy sân tennis, ra tận cánh đồng. Ngay trước cổng vào khán đài sân vận động, cô đi qua cây cầu gỗ màu đỏ bắc qua nhánh phụ của con suối Salt. Trong suốt một thế hệ, các kỹ sư trong vùng đã cố xây đập để ngăn dòng suối nhỏ này; vào mùa xuân, nước suối dâng lên làm sân bóng đá thành một đầm lầy trơn trợt. Nhưng tất cả mọi nỗ lực của họ đều thất bại. Con suối luôn trở lại với dòng chảy của nó. Cây cầu bị khắc chằng chịt đến nỗi nước sơn hầu như mất hẳn. Chỉ nhìn từ thật xa mới thấy nó màu đỏ. Thanh thiếu niên của những năm sau thời Beth khéo tay hơn các thế hệ đi trước trong việc dùng sơn xịt vẽ lên những tin nhắn ngoằn ngoèo đáng sợ: “Thanh niên của diễn đàn 2-và-2, Hãy hồi sinh”, “Luật Sức Mạnh Mới!”. Cũng có những câu lãng mạn thông thường: “Justin Làm Tan Nát Trái Tim Em”, “Christine Đã Bỏ Ryan”. Beth cũng đã khom người xuống để xem có còn không câu “Steven và Ellen bất diệt” được khắc vào đó. Hai từ “Bất Diệt” đã biến mất sau năm thứ ba; sau đó Ellen nói rằng đôi môi của Steven Barrett làm cô nổi da gà dù cô phải mất sáu tháng mới quyết định được đó không phải là lỗi của cô. Nhưng Beth biết vết khắc vẫn còn đó, để nhắc nhở một chuyện tình xưa cũ. Tối nay, thay vì ngắm nó, Beth đứng trên dòng suối sâu chưa được một gang tay, chú ý tìm một manh mối. Nhưng cô biết cô không cần tìm Ben ở đây. Ben không dám bén mảng đến gần nước. Một trợ giáo của Hiệp hội Thanh niên Cơ đốc có lần đã viết cho Beth: “Không thể đánh giá tiến bộ về bơi lội của Benjamin được vì cậu bé không chịu xuống nước.” Khi họ bơi, thậm chí trong một hồ bơi rất cạn và sáng sủa thì Ben cũng đeo cứng vào eo Beth như trăn quấn vào người. Nó thường rất vui khi đưa chân đá ướm thử gần chỗ mấy bậc thang. Nhưng nếu Beth đi xa thêm chút nữa, thậm chí chỉ đi đến chỗ nước lên đến bụng cô thôi là nó đã đưa chân níu chặt lấy cô như thể muốn nhập với cô làm một. Là một vận động viên bơi lội giỏi và rất mê nước, Beth không thể hình dung ra được nguyên nhân của nỗi sợ hãi này - cô có kể chuyện chết chìm để dọa con không nhỉ? Dọa cho chúng sợ một chút hay chỉ muốn ghẹo chúng? Chưa bao giờ, chưa hề. Đã có lần Ben ngã khỏi cầu tàu ở hồ Delavan. Nhưng chẳng phải anh cô đã túm được và nhấc nó lên khỏi mặt nước ngay trước khi nó bị ướt đó sao? Dù Beth luôn thét to như một gã thổ dân Comanche để nhắc Vincent phải cẩn thận hơn nữa.... Vincent đã bơi rất nhanh từ khi mới lên bốn. Thậm chí bé Kerry bây giờ cũng vùng khỏi tay bố để lội nước. Khi họ đến thăm cô của Pat ở Florida, Vincent nhảy xổ vào các con sóng; Pat đã phải đuổi theo nó để giải thích về những con sóng dội từ bờ. Còn Ben thì thậm chí không dám bước đi trên cát ướt. Nó nghiêm trang nói với Beth: “Có nhiều nước quá.” “Ben,” cô đã dỗ ngọt nó, “cứ bước xuống đi, một chút thôi. Mẹ sẽ giữ con mà.” Ben, lù đù trong chiếc quần bơi màu hồng cánh sen, đưa tay chỉ: “Đó có phải là chỗ sâu không mẹ?” Nỗi sợ làm nó rất tinh. Ben thậm chí không tin Beth khi cô đến quá gần nó, như thể cô sẽ túm được nó rồi xô nó xuống nước. Beth nghĩ lúc đó nó trở thành con tin của chúng ta - con tin của những người to lớn có thể bắt nó làm hầu như bất cứ điều gì. Cô không nhớ rằng mình đã từng rất nhỏ nhoi, rất dễ bị tổn thương, rất lệ thuộc vào thiện chí. “Không phải là đáy đại dương đâu, Ben,” cô nhẹ nhàng nói với nó. “Đó là bờ biển. Và nó kéo dài mãi, dọc theo nơi này, dài hàng mấy cây số. Con phải đi ra mãi, ra thật xa mới đến chỗ sâu được. Ở tít đằng kia, chỗ mấy con thuyền đó.” “Vậy thì chỗ này sâu cả thước phải không?” Ben vẫn khăng khăng hỏi. “Cũng không phải vậy đâu, Ben. Thậm chí nó còn không sâu như hồ bơi mà, dọc theo mép nước ở đây. Nhìn này, còn chưa tới đầu gối anh Vincent nữa mà.” “Con không muốn đi trong chỗ sâu của biển. Có cá mập ở đó. Con có phải đi không?” “Không đâu, Benbo”, Beth đã nói thế và bế nó lên, không biết liệu có nên đi ra khỏi chỗ đó rồi nhúng nó xuống nước cho nó quen dần hay không. Cô không muốn con trai mình lớn lên mà rụt rè, sợ hãi đủ mọi thứ. “Đừng sợ. Mẹ sẽ ở bên con mà. Mẹ sẽ không để biên cuốn con đi mất đâu. Mẹ sẽ ôm con thật chặt, chặt thật chặt mà.” “Mẹ biết không?” Ben nói tiếp để câu giờ. “Mẹ có thể đi tới chỗ sâu nhất. Mẹ có thể đi đến đó. Mẹ chỉ cần đi cho tới khi nước phủ qua đầu mẹ rồi mẹ cứ đi mãi trên đáy biên. Nhưng rồi nếu mẹ muốn trở lại thì khó lắm vì nước cứ xóa hết, hết...” “Hết gì hả Ben?” “Hết dấu chân. Mẹ không bao giờ quay lại để đi về được. Mẹ không tìm được chúng đâu.” Thế là Beth đã lạnh mình mà ngồi với nó suốt buổi chiều dài dằng dặc đó, ngồi trên bờ biên vọc cát. Beth bò lên hàng trên cùng của khán đài, tay bấu thật chắc. Mấy hàng ghế đầy sương, trơn trượt, dính nhơm nhớp vì lớp sơn đã tróc hết. Cô khoanh tay ôm lấy thân người, hơi rùng mình vì lạnh. Gió từ bầu trời đầy mây dường như sà xuống phía cô. Săn đuổi. Thúc vào cô. Beth nằm trên ghế khán đài, duỗi dài tay chân, rồi khóc nức nở cho đến khi hai vai áo cô ướt đầm nước mắt, còn trán cô đập mạnh trên gỗ. Khi cô nhìn lên, không nhìn vào một âm thanh mà là vào một điều gì khác, một nhiễu loạn trong khoảng không thì thấy Candy Bliss đang đứng nơi cuối băng ghế. Cô ta giơ cao một túi nhựa, đủ đựng một miếng xăng- úych. Trong đó là chiếc giày ba-ta của Ben, thật sạch, thật mới và con vẹt đỏ vẫn sáng rõ trong đêm đen.