Chương 5
Chiều thứ hai, mặc cho Beth phản đối, Pat khăng khăng đòi rời khách sạn Tremont. Dù cô không thể giải thích lý do cho anh, nhưng cô biết sự nóng nực ngột ngạt, mùi nấu ăn, và bầu không khí như đưa đám trong một gia đình Ý đang lan khắp nhà bố mẹ chồng cô sẽ khiến cô ngộp thở. Nếu thế thì còn tệ hơn ở khách sạn; ít nhất bầu khí ở đó tuy đáng sợ nhưng cũng đã được che đậy lại. Cô không phải chịu cảnh cứ mỗi năm giây lại va vào một người mà cô đang mắc nợ điều gì đó.
Nhưng Pat rất kiên quyết; thế này thì thật ngu xuẩn quá. Gần hai ngày nay cô không thấy mặt mũi Vincent hay Kerry. Pat muốn được ở bên bố mẹ và các anh chị em của anh. “Anh phải nói với em điều này, Bethie, anh nghĩ em sẽ nắm vững vấn đề hơn nếu mình về nhà ông bà nội. Em sẽ... có thể đi loanh quanh đâu đó. Còn bây giờ chúng ta chỉ ngồi đây và nhìn vào nơi chuyện đó xảy ra.”
Thế là họ ra xe, người quản lý khách sạn đi theo họ ra tận vỉa hè, băng qua bãi đậu xe, vừa đi vừa lải nhải giải thích rằng đương nhiên là họ sẽ không phải trả tiền khách sạn, rằng ban quản lý khách sạn Tremont - thật ra là tất cả các Khách sạn Hiếu khách ở khắp nơi (khắp nơi trong dải ngân hà này, Beth nghĩ) - đều rất lấy làm tiếc vì vụ việc đã xảy ra đó, như thể kỳ nghỉ của vợ chồng họ chỉ bị quấy rầy vì một cái máy điều hòa không khí quá ồn. Các phóng viên lẵng nhẵng bám theo tay quản lý hét to những câu hỏi: Có phản hồi gì từ những kẻ bắt cóc không? FBI có đặc biệt nghi ngờ ai không? Trước đây Beth không hiểu vì sao những người bị báo chí bao vây lại có thể làm ngơ những nài nỉ như vậy được, đặc biệt là trong những giây phút căng thẳng đến thế.
Giờ thì cô biết rồi. Ta không nghe thấy họ. Thậm chí ta còn không biết họ đang bám theo mình để quấy rầy như một lũ ruồi đen nữa. Ông Angelo cho biết điện thoại réo ỏm tỏi suốt ngày ở nhà ông, đám phóng viên đang cố gắng, như họ đã phân bua, để hiểu rõ hơn về “quan điểm của gia đình trong vấn đề này”. Một viên cảnh sát được cắm chốt tại gia đình Cappadora, chỉ để nhận điện thoại, lịch sự giải thích rằng không ai trong nhà có thể nói gì về cuộc điều tra đang được tiến hành rồi cúp điện thoại. Đôi khi có vài chiếc xe săn tin bám theo mấy chiếc xe tải giao đồ ăn của nhà hàng Golden Hat do ông Angelo và bà Rosie làm chủ khi chúng rời nhà hàng của họ trên đường Wolf. Thậm chí khi Beth vào xe, một cây bút trẻ của tạp chí People đã dúi vào tay cô - thật ra là đặt nó vào tay Beth và cố bẻ cụp mấy ngón tay cô vào - để giữ một tấm danh thiếp và nói với Beth rằng People rất nổi tiếng về sự quan tâm, tính chính xác và tính hiệu quả. Cô ta dặn Beth: “Nói chuyện với chúng tôi đi, rồi những lời nói ấy của chị sẽ hiện diện ở khắp các sân bay và hiệu thuốc trên toàn nước Mỹ. Vì thế hãy gọi điện cho tôi nhé.” Beth gật đầu, đóng cửa xe, khóa lại, rồi quay kính xe lên. Cô vò nát tờ danh thiếp và bỏ nó vào gạt tàn thuốc.
Rốt cuộc thì, cô tự hỏi, báo chí, cảnh sát, hay gia đình, có ý nghĩa gì đâu chứ? Người ta có thể mở miệng nói về cô nếu họ muốn. Cô không còn có thật nữa. Cô là đồ giả, một người giả. Cô đã khoác lên người chiếc áo tàng hình, nhét cái gấu áo đen tối đó quanh trí óc cô để che toàn bộ thông tin và ánh sáng. Cô có thể về nhà gia đình chồng, hay về Madison, hay Amarillo, thậm chí lên cả sao Thiên Vương nhưng cô sẽ chẳng bao giờ tìm được sự phấn khích hay bình an nữa.
Pat đã nhẹ nhàng trách cô vì trở nên “xa vắng”. Mặt anh sần sùi những mụn; người anh nồng nặc mùi thuốc lá; tóc anh bết bệt dầu. Khi ngủ, anh thường thét lên. Beth đề nghị anh uống thuốc để khỏi la hét, nhưng Pat nói anh cần phải tỉnh thức để giúp cảnh sát trong khả năng của mình. Beth lại nghĩ khác. Cách duy nhất cô có thể giúp cảnh sát hay bất cứ ai là không được tỏ ra ngu xuẩn, phải ngăn được những thôi thúc mạnh mẽ muốn được làm chuyện ngu ngốc, muốn được khóc sướt mướt và được cào cấu.
Khi họ bước vào phòng khách nhà ông Angelo và bà Rosie thì Vincent chạy bổ vào lòng Pat, còn Beth chỉ nhẹ ôm và xoa đầu nó một cái. Jill đưa Kerry cho Beth bế và cho bú; nhưng khi Pat thấy Beth để mặc chai sữa rớt khỏi miệng Kerry thì anh bước tới, bế lấy nó rồi cầm bình sữa cho nó bú đến khi nó ngủ thiếp đi. Monica, em của Pat pha hết bình cà phê này đến bình cà phê khác và mỗi lần đi qua cái đàn dương cầm lại lướt tay trên mấy phím đàn. Bất cứ người nào bước vào nhà thì Teresa, em út của Pat cũng chỉ hỏi một câu duy nhất “Chúng ta sẽ làm gì đây?” cho đến khi Pat bực mình hét lên bảo cô thôi đi. Beth ngồi trên một chiếc ghế bành lớn ngay phía sau cửa ra vào, và dường như tất cả mọi người đều khom lưng đi ngang qua chỗ cô ngồi để vào nhà. Gia đình Comos đến, rồi Wayne Thunder, hai lần, và cả chục người bạn làm ăn với ông Angelo đem các giỏ trái cây và những xoong đựng món lasagne, dù Wayne nói rằng đem lasagne đến cho nhà Rosie chẳng khác nào chở củi về rừng.
Beth và các anh cô đều không thể ăn lasagne từ khi mẹ họ mất, khi mà hằng mấy tháng trời, lasagne cứ nằm trong tủ đông giống như bánh mì hay cá vậy - rằng nó sẽ không hết được, như thể nó cứ tự sinh sôi nảy nở. Và họ đã phải tặng lasagne cho ông đưa thư, cho những người lạ đi quyên góp cho các tổ chức vì môi trường, cho các gia đình bạn học của họ.
Nhưng giờ thì bà Rosie trân trọng nhận hết các món quà đó. “Chúng tôi không có thì giờ nấu nướng nữa - quý vị thật tử tế quá.” Bà thường nói thế với giọng thật ngạc nhiên, trong khi thật ra bà không làm gì ngoài việc nấu ăn từ sáng thứ bảy, nấu như quán tính, và dọn những bữa ăn thịnh soạn cho bất cứ ai có mặt trong nhà, và thậm chí bây giờ nữa, trong cái nóng hừng hực của buổi chiều tháng Sáu, bà bật máy lạnh hết cỡ để có thể nướng sườn với đậu và cà chua trong lò mà không làm ai bị đột quỵ.
Ngay trước bữa tối, khi bà Rosie tỉ mỉ bày bàn trong phòng ăn với gương gắn khắp tường thì Beth nghe tiếng ông Angelo nói chuyện với một người đàn ông khác, một giọng nói lạ. Cô giật mình, đứng lên đi vòng tới cuối hành lang cho đến khi cô đứng phía trong cửa phòng tắm sát bức tường phía đông nhà bếp.
Vậy mà ông ta cũng vẫn thấy Beth.
“Chào bác Charley,” Beth lên tiếng.
Người đàn ông mặc cái áo trắng tinh, cà vạt sọc chìm đỏ thẫm và xanh thốt lên: “Bethie con yêu. Bethie cưng yêu, ta thề với Chúa. Ta thề với Chúa. Thế giới này là thế nào đây chứ?” Ông ôm cô vào lòng và dù rất cố gắng, Beth thấy không thể cưỡng lại được vòng tay ôm của một người đàn ông Ý trạc tuổi cha cô, cái cảm giác giống như khi ta vừa bò lên được bờ biển rồi bị đá nhọn cứa, nhưng khi ta mặc quần áo khô vào, mọi chuyện lại trở nên tốt đẹp ngay.
Cô không biết tên thật của ông. Có chứ, thình lình Beth nghĩ, cô biết mà. Ruffalo. Con gái ông tên Janet. Bác Charley Ruffalo. Nhưng cô toàn gọi ông là Charley Hai, dù không gọi trước mặt, đương nhiên rồi, vì hễ mở miệng là ông phải lặp đi lặp lại hai lần. Hình như ông có họ xa với ông Angelo - họ gọi nhau là “anh em họ” - và Charley quản lý cái Pat gọi vui là công ty giao hàng-một xe-tải sinh-lãi nhiều nhất ở Bắc bán cầu. “Bethie, ta đã làm hết sức mình. Ta đã làm hết sức mình rồi. Ta đã nói chuyện với vài người.
Bethie, và Angie này, tôi thề có Chúa, thề có Chúa, không có gì. Không có manh mối gì bên ngoài kia hết.”
Ông ấy muốn nói, Beth hiểu - và ông Angelo biết cô hiểu - rằng Ben không phải do một tên tội phạm chuyên nghiệp bắt cóc.
“Cảm ơn bác, bác Charley,” cô đáp và nghe ông Angelo thở dài thật to. Rồi họ nói chuyện bằng tiếng Ý với nhau. Charley hôn Beth, má ông mềm như găng tay da nhúng trong nước hoa Aramis vậy.
“Thôi ta ăn nào,” bà Rosie mệt mỏi nói. Mọi người ngồi xuống, Vincent ăn thật ngon lành, cả viên cảnh sát đang làm nhiệm vụ ở Parkside cũng vậy, một cậu nhóc da đen tên Cooper, nhưng không người lớn nào, theo như Beth quan sát cho đến lúc đó, nuốt trôi được một miếng ngoài việc cứ cắt cắt, chọc chọc vào miếng sườn của mình. Chồng Teresa, Joey, cuối cùng đành bỏ khăn ăn lên bàn rồi rút đi, Teresa cũng hối hả đi theo anh, không quên quay lại nhìn mẹ với ánh mắt xin lỗi. Vào giữa bữa ăn tối không ai ăn đó, Bick xuất hiện và nói với Beth rằng anh của họ, Paul vừa đi công tác về và đang trên đường đến đây. “Anh không biết nói gì với anh ấy cả, Bethie. Có tin gì mới mà đài chưa đưa không?”
Từ khóe mắt mình, Beth thấy cậu cảnh sát trẻ đơ người ra. Nhưng cô nhủ thầm: Đây là anh mình mà, một người ngây thơ, một luật sư chứ không phải
một nhà báo nhiều chuyện. Rồi cô nói lớn: “Họ đã tìm thấy chiếc giày của nó. Họ tìm được giày nó trên kệ đựng sách báo.”
Bick lại nắm hai cánh tay cô. “Vậy là họ nghĩ có ai đó đang giữ nó?”
“Vâng, họ nghĩ có ai đó đang giữ nó.”
“Vậy cảnh sát địa phương đã gọi cho FBI chưa?”
Thế là Pat phải giải thích về sự phức tạp của luật bắt cóc theo như những gì anh hiểu - Beth biết chắc anh không hiểu cặn kẽ về nó - về việc liệu nó thuộc về liên bang hay tiểu bang - nếu tên bắt cóc băng qua biên giới của tiểu bang bằng đường bộ hay đường hàng không, hay đi quá hồ Michigan hay vượt qua biển thì đó là tội phạm liên bang, nếu hắn chỉ đi từ đầu này của tiểu bang California đến đầu kia, thậm chí bằng máy bay, thì hắn chỉ là tội phạm của tiểu bang, và luật của từng tiểu bang về tội bắt cóc lại hơi khác nhau. Chỉ nghe được nửa chừng mà đầu Beth đã nhức như búa bổ nên cô đi lên lầu tìm chai thuốc và vật đùng xuống giường của bà Rosie; trong giấc mơ cô nghe có nhiều giọng nói như tiếng sóng vỗ, tiếng của Candy, của ông Angelo và của Bick, rồi cuối cùng có tiếng gọi: “Mama.”
Beth hét lên. Cô ngồi bật dậy và hét thêm một tiếng thật to. Vincent đang đứng bên giường cô, chỉ mặc áo phông và quần đùi, cũng thét lên rồi bật khóc. Bà Rosie, có Monica theo sau, chạy xuống bế Vincent lên dỗ dành: “Ngủ đi cháu, ngủ đi Vincenzo, cháu yêu.”
“Chuyện quái quỷ gì thế, Beth?” Pat chộp lấy tay cô ngay lập tức.
“Em tưởng... em tưởng đó là Ben.” Anh thả cô ra rồi đỡ phía sau đầu cô dịu dàng đu đưa. Ben là đứa con ngủ cùng giường với họ. Ngay từ khi còn bé, dù không chịu về phòng mình nhưng khi đã ngủ thì Vincent nằm xoãi dài chân tay ra, nằm một mình với tư thế rất tự tin. Ben thì không đêm nào không trèo qua cũi như một huấn luyện viên thể dục đến nỗi Beth chịu thua phải bỏ cái cũi đi, nó bò xuống rồi đi vào phòng bố mẹ, đôi khi tiểu ướt cả khăn trải giường của họ. “Con ngủ-đi.” Nó thường giải thích cho họ như thế trong mấy tháng gần đây vì giờ nó đã nói sõi hơn. Cũng chính Ben là đứa gọi Beth là “Mama” chứ không phải “Mẹ” hay “Ma” như Vincent thường gọi. Đang mơ mơ màng màng nên Beth đã không nhận ra đó là giọng của Vincent.
Cô loạng choạng đứng lên rồi đi dọc hành lang ra phòng dành cho khách. Đó là lần đầu tiên từ khi biết bà Rosie - chủ yếu là những năm Beth có thể nhớ - cô thấy mẹ chồng nhìn mình khinh bỉ. Bà vừa ru Vincent, đã ngủ nhưng còn nấc sau cơn nức nở, vừa xua cô đi chỗ khác. Beth bước ra sân thượng bên ngoài phòng dành cho khách. Joey và Teresa đang ngồi ở đó, dù rõ ràng là họ chưa ngủ. Xe hơi đậu đầy khu phố, phóng viên ngồi trên mấy tấm chăn nhâm nhi cà phê và cô-ca trong ly giấy như thể họ đang dự lễ hội âm nhạc. Họ không thấy cô. Có một đội cảnh sát của Parkside đậu ở góc phố, một cái giá cưa được dựng lên như rào chắn dã chiến - khi Beth đang nhìn một chiếc xe của Kênh 9 đang chạy vòng qua nó. Sau lưng cô, Joey mở cửa phòng ngủ.
“Joey, cậu có thuốc lá không?” Beth hỏi.
“Chị Bethie, em tưởng chị bỏ thuốc rồi,” Joey, người hiền nhất trong cánh đàn ông, nói nhỏ.
“Tôi bỏ lâu rồi,” Beth đáp.
Họ ngồi cạnh nhau trên sân thượng ngắm các phóng viên, vài người đang đứng để đọc bản tin phát thanh sáng sớm, lưng họ quay về phía ngôi nhà đá trắng của ông Angelo và bà Rosie được chiếu đèn sáng lóa, với một dãy cửa chớp ở mặt tiền.
“Chúng ta sẽ tìm được cháu, chị Bethie ạ,” Joey sôi nổi nói.
“Ôi, Joe,” Beth vừa nói vừa vòng tay ôm lấy cậu, lòng tràn đầy thương mến đối với cậu em cột chèo này, sự thương mến cô không thể nào cảm nhận được một cách thoải mái với chính đứa con nhỏ của cô, cuối cùng cũng đã ngủ lại ở dưới sảnh. Mà sao lại như thế nhỉ?
“Chị Bethie, em sẵn sàng đánh đổi cả tứ chi em để Ben trở về với chúng ta.”
“Chị biết, em yêu,” cô nói.
Teresa mặc áo ngủ bước ra. Thình lình cô báo: “Em có thai rồi.”
“Trời đất ơi, em điên hả Tree?” Chồng cô nghiến răng đứng lên.
“Joey, có sao đâu mà. Xin chúc mừng em, Tree. Buona fortuna. Chúc may mắn. Mấy tháng rồi em?” Beth hỏi.
“Dạ hai tháng,” Teresa đáp.
“Anh Pat biết chưa?”
“Dạ chưa. Em có nên cho anh ấy biết không? Mẹ biết rồi. Mẹ nói em không nên cho anh chị biết. Em xin lỗi vì đã nói với chị. Em không giữ mồm giữ miệng được. Em điên mất rồi. Tất cả chúng ta đều điên cả rồi.
“Chị hiểu,” Beth nói. “Còn điếu nào không, Joey?”
Sau khi Joey và Teresa nằm lên tấm chăn bông, Beth ngồi nhìn trời dần sáng. Cô nhẩm đi nhẩm lại trong đầu bảng tuần hoàn Men-đê-lê-ép. Ô-xy, Ni-tơ, Cacbon, Silic, Natri, Clo, Nê-ông, Stronti, Agon. Cô biết có mấy thứ chưa có khi cô còn học trung học. Technetium ư? Californium ư? Hay mình đang bịa ra nhỉ? Điếu thuốc cháy sát tận mấy đầu ngón tay cô. Cô nằm xuống sàn nhà bằng gỗ sơn. Kerry đang khóc. Sẽ có ai đó cho nó ăn.
Lúc tám giờ, Candy đến đưa Beth và Pat đến một phòng thí nghiệm ở Elmbrook để làm các kiểm tra phát hiện nói dối. Sau này, Pat nói với Beth rằng tay kỹ thuật viên trẻ tuổi đó đã đọc thuộc lòng cùng một bài cho cả hai người: “Hãy thư giãn đi,” anh ta nói. “Đây sẽ là điều ít đau đớn nhất cho cơ thể quý vị. Tôi luôn nói với mọi người là hãy thoải mái, nhưng dĩ nhiên là họ không thể thoải mái được, đây là một máy đo tim mạch - cho nên ai lại có thể thoải mái được chứ? Nhưng cũng không sao nếu quý vị không thoải mái được vì tôi sẽ đọc được cả quá trình về tâm trạng của quý vị. Và tôi cũng thấy rằng hiện giờ tâm trạng của quý vị đang không ổn. Giờ thì tôi sẽ bắt đầu với câu hỏi khó nhất. Tên ông là gì?” Sau đó cả Beth và Pat mới biết rằng câu trả lời của họ đều cho thấy là dối trá khi họ được hỏi liệu họ có là người phải chịu trách nhiệm về sự biến mất của Ben không.
“Chuyện nhỏ!” Candy nói với Beth. “Chúng ta có thể kiểm tra lại nếu cần mà.”
Khi họ về đến nhà ông Angelo và bà Rosie thì Ellen đã có mặt ở đó để
đưa họ đến trung tâm tình nguyện ở tầng hầm dưới tiền sảnh của nhà thờ Immaculata. Beth hỏi: “Trung tâm tình nguyện gì thế?”
Ellen nói: “Đó là trung tâm phát truyền đơn và tìm kiếm. Có một phụ nữ từ Chương trình Chống Tội Phạm đến đây sáng hôm qua dạy cho tụi mình làm thế nào để thành lập một trung tâm như thế. Bảy mươi hai tiếng đồng hồ đầu tiên là quyết định đó.”
Đã có ba trăm hai mươi sinh viên của Immaculata tham gia. Và sau này Pat nói chắc cũng có một trăm năm mươi người tự liên hệ để đến tầng hầm của nhà thờ, chưa kể đến mấy người hàng xóm của bà Rosie, bạn gái của Bill, và những bạn bè khắp các nơi, những người đã từng lớn lên cùng anh chị em của Beth và Pat. Vợ Nick, Trisha, cũng đã có mặt ở đó; và tất cả các thành viên đội cổ vũ, rồi vợ của Jimmy Daugherty, cùng với hai mươi bà mẹ, bạn học và vợ các bạn học khác. Có cả hiệu trưởng của trường Immaculata nữa, bà xơ duy nhất còn lại trong số các giáo sư giảng dạy ở đó, và bốn vị khác trong trường gồm cả vị giáo sư dạy tiếng Anh, cô giáo cũ của Beth, cô Sullivan, đã nghỉ hưu được mười năm nay. Wayne, người rất bận rộn với việc huấn luyện ban quản lý cho tập đoàn viễn thông AT&T, chỉ nghỉ làm ba ngày một năm (tất cả đều là Chủ Nhật) cũng có mặt ở đó và đã hủy tất cả các cuộc hẹn vô thời hạn lần thứ nhì trong cuộc đời làm việc của mình. (Lần đầu tiên anh nghỉ để đi chơi biển bằng tàu đến Úc với chín trăm người đàn ông đồng tính khác. “Tụi anh đang ở giữa đại dương mà anh thì không thể có được một cuộc hẹn hò nào.” Sau này anh thất vọng kể với Beth. “Anh còn biết làm gì khác ngoài húc đầu vào công việc?”) Wayne khoe với Beth anh phụ trách về truyền thông đại chúng. Anh thường phải kiểm tra tất cả các yêu cầu phỏng vấn, chụp hình rồi chuyển những thứ đó đến các bộ phận có liên quan đến cuộc tìm kiếm. Thậm chí Cecil Lockhart cũng đã đăng ký nhưng phút cuối lại không đến được vì mẹ cô bị ốm. “Nhưng nó gửi lời thăm cậu, Beth à,” Ellen kể. “Và tớ tin nó định đi thật đấy. Nó sẽ đến và làm việc khi mẹ nó khỏe hơn. Cậu biết không, nó có một thằng con trai không lớn hơn Ben bao nhiêu, với ông chồng thứ hai - hay thứ ba, hay thứ năm nhỉ. Tớ cũng không biết nữa, nhưng nghe nó có vẻ chán ngán vụ đó lắm. Tất cả mọi người đều vậy, Bethie. Tất cả mọi người.”
Ngay khi Beth và Pat đến, Laurie Elwell bước vào, mang theo một chồng bìa hồ sơ. Trông cô như thể đang phải nằm trên giường vì bị cúm và lẽ ra không nên dậy. Từ khi học đại học Laurie đã là bạn thân nhất của Beth ở Madison; đôi khi cô còn nghĩ đó là người bạn duy nhất của mình. Laurie không giống Beth chút nào - thậm chí khi còn là sinh viên năm thứ nhất đại học cô đã rất điềm tĩnh và tự tin theo cách mà Beth biết chắc rằng mình sẽ không bao giờ được như thế. Laurie là một cô gái dường như biết hết mọi người trong văn phòng trợ giúp tài chính; các chủ tịch của các hội nữ sinh nhắn tin cho cô, chứ không phải ngược lại. Dường như Laurie được sinh ra dưới một ngôi sao may mắn: cô biết tất cả những thông tin thiết yếu trong vũ trụ, và cứ nhìn mấy bìa hồ sơ là biết cô định lưu trữ tất cả vào máy tính.
Beth và Ellen vẫn cãi nhau và cúp điện thoại của nhau mỗi năm ít nhất một lần; nhưng mối quan hệ của Beth với Laurie luôn trong sáng như một buổi chiều hè, vẫn như khi họ còn thơ. Họ đã gặp nhau lúc thiên hạ tự đổi mới bản thân, tâm sự với nhau về nỗi buồn chán khủng khiếp, niềm tự hào thật sự cũng như nỗi sợ hãi với bổn phận làm cha làm mẹ, và những cuộc hôn nhân dai dẳng.
Khi Beth thấy Laurie và những người bạn khác, cô thoáng nghĩ Giờ đã
đến lúc họp lớp rồi đây. Giờ là lúc ta sẽ có thể hành động.
Beth đã nói rằng Laurie có thể đoạt giải Nobel về đầu óc tổ chức; và cô ấy rất đáng được giải thưởng. Những bàn dài thường dùng để đặt thức ăn trong các buổi uống trà trong xứ đạo và những buổi ăn sáng cho các lễ cưới nay được dàn đầy điện thoại và những chồng truyền đơn, áp phích trên giấy đỏ, vàng và xanh. Pat cầm một tờ lên, và Beth đọc tiêu đề được in đậm “HÔM NAY BẠN ĐÃ THẤY BEN CHƯA?”, trên một tấm ảnh lạ của Ben mà Ellen đã chụp hồi hè vừa rồi trong sân nhà cô ấy và một số điện thoại Wayne đã trưng dụng cho dễ nhớ: mấy con số nếu phiên ra chữ sẽ là TÌM BEN. Từ một cuốn sổ tay, Laurie lấy ra một bản đồ chi tiết của khu vực phía tây gồm ba bảng được bấm dính với nhau bằng kim rồi gắn lên tường ở chỗ dễ thấy nhất.
“Chúng ta sẽ có một đội đỏ, một đội xanh và một đội vàng,” cô vừa nói với Beth và Pat vừa mở một bìa hồ sơ khác đến những danh sách được in rõ
ràng mà cô đã biên soạn cùng Wayne và Ellen qua điện thoại. “Đội trưởng của mỗi đội sẽ chịu trách nhiệm cho những khu nhà đã được phân công để các thành viên phát truyền đơn. Và rồi mỗi đội sẽ có các tình nguyện viên ở đây để phối hợp các cuộc gọi chúng ta nhận được từ các khu vực.”
“Khi nào thì sẽ bắt đầu phát truyền đơn?”
Laurie có vẻ ngạc nhiên. “Ngay bây giờ chứ sao nữa,” cô nói.
“Cậu ở lại đây được bao lâu?” Beth hỏi.
“À, tớ ở luôn đây,” Laurie nói với cô.
Candy nói ngắn gọn với những tình nguyện viên đang tập hợp ở đó rằng mọi thông tin họ thu thập được đều có khả năng là thông tin vàng đưa họ đến với Ben. “Các bạn không thể xem thường sự hiện diện quan trọng của các bạn ở đây, đối với Beth và Pat và cả với chúng tôi nữa. Các bạn sẽ là tai mắt của chúng tôi ở vùng này trong mấy ngày sắp tới, và dù ít hay nhiều thì thời gian các bạn dành cho chúng tôi cũng thật quý báu.” Cô nói về các cuộc tìm kiếm vaisánh-vai được hoạch định cho các khu vực ngoài trời vào buổi chiều, để thậm chí những người đi làm ban ngày cũng có thể tham gia với cảnh sát trong các nỗ lực tìm kiếm vào lúc chạng vạng. Cô cảnh báo các tình nguyện viên không nên tự phỏng vấn dân cư ở đó hay tự chỉ đạo các cuộc tìm kiếm. “Chúng ta phải là một đơn vị duy nhất, với đầu não nằm ở đây.” Cô quay sang Pat. “Pat, anh muốn nói gì thêm không?”
Mắt Pat nhòe lệ. “Chỉ xin nói rằng chúng tôi cảm ơn các bạn. Chúng tôi cảm ơn các bạn. Ben cảm ơn các bạn.”
Chính Anita Daugherty đứng dậy vỗ tay đầu tiên, và rồi tất cả mọi người đều đứng lên vỗ tay.
Vẻ kỳ lạ của cảnh tượng đó làm Beth sững sờ, cô quay đi rồi chạy đến cầu thang lên tầng một; cô nghĩ việc đó đồng nghĩa với sự khuyến khích, tình đoàn kết. Nhưng nghe sao giống như một buổi cổ vũ trước trận bóng quá; và với các tình nguyện viên mang hàng chồng truyền đơn sắp sửa tràn qua những bậc thang đằng sau cô, Beth có cảm giác như một con thú bị ốm đang tìm nơi trú ẩn để nghỉ ngơi.
Nhà Nguyện Đức Mẹ mở ngay ra bên phải bàn thờ. Ngay tại đó, Beth trong bộ áo đầm trắng giống áo cô dâu đã đem hoa lên để trước mặt Đức Mẹ Đồng Trinh trong lễ ban thánh thể đầu tiên. Cũng tại đó cô đã luôn tin tưởng mình sẽ bước lên như một cô dâu. Giờ thì cô chỉ ước ao rằng căn phòng nhỏ màu xanh da trời với những ngôi sao được mạ đã phai màu trên trần có một cái cửa để cô có thể khép lại sau lưng. Beth quỳ xuống, chắp hai tay. “Lạy Đức Mẹ rất nhân từ...” cô thầm thì. Nhưng dẫu sao cũng chỉ là những lời nói suông. Chúng chỉ phát ra từ cổ họng cô. Trong suốt cuộc đời mình, Beth nhớ mình chỉ thật sự cầu nguyện hai lần - khi thiết lập mối liên hệ giữa chính cô và một ý thức khác: một lần trong phòng mẹ cô tại bệnh viện ngay sau khi bà mất; và một lần khi cô không còn ra máu nữa, khi đó cô tin mình đã sẩy thai Ben. Phần lớn quãng đời sau đó của cô, dù cô thuộc kinh Xưng Tội, kinh Mân Côi, kinh Tin Kính (ít nhất là bằng tiếng La-tinh) cũng như cô biết đánh vần tên mình, thì cô vẫn thấy bị chia trí khi đọc những bài kinh đó, thậm chí khi sức mạnh ngôn ngữ của chính những từ đó làm cổ họng cô nghẹn lại vì xúc động. “Lạy Đức Mẹ Maria,” cô lại thì thầm và nghĩ: Nếu bây giờ mình không thể tin, nếu mình không thể xin được cứu giúp, thậm chí mặc cho nỗi nghi ngờ mãnh liệt rằng chỉ có không khí đang nghe mình, rằng mình sẽ chẳng nhận được gì ngoài sự an bình giả tạo nhờ suy ngẫm, nếu mình không hé mở được một chút bàn tay đang nắm lại của mình thì mình không xứng đáng với Ben. Mình phải cầu nguyện cho Ben. “Lạy Đức Mẹ Maria,” cô thốt lên, các từ ngữ kêu lách cách, khô khốc trong vòm họng khô queo của cô. “Mình không làm được rồi,” Beth nói.
Cô nhận thấy mùi hương của Candy trước cả khi cô ấy xuất hiện, mùi chanh đặc biệt trong nước hoa của Candy, như một bức điện báo sự trong sạch. Hàng ghế quỳ bọc nhung xanh kéo dài cả mét rưỡi dọc theo chấn song bằng vàng trước nếp áo bằng cẩm thạch trắng của Đức Mẹ Đồng Trinh. Candy đang quỳ cách Beth khoảng một mét, một tay che mắt.
“Chị cũng theo đạo Thiên Chúa à?”
“Không. Tôi đang chờ chị.”
“Không cần phải chờ nữa,” Beth thở dài. “Tôi xong rồi. Tôi chưa từng bắt đầu. Tôi không cầu nguyện được.”
“Mẹ tôi luôn nói rằng không có cách đúng để làm việc đó.”
“Tôi không tin.”
“Tất cả mọi thứ ư?”
“Ý tôi là tôi không tin vào Chúa.”
“Chị theo thuyết vô thần à?” Candy hỏi.
Beth khịt khịt mũi. “Không. Muốn thế thì cần phải can đảm lắm mới được.”
“Có thể chính niềm tin thật sự làm ta can đảm. Niềm tin vào những thứ vô hình.”
“Nghe như chị là dân Thiên Chúa gốc, nhỉ?” Beth nói.
“À, tôi là Do Thái gốc,” Candy vừa nói vừa đứng lên. “Và có rất nhiều sự so sánh. Tội lỗi. Tính ghét phụ nữ. Tất cả mọi điều chị có thể nghĩ ra.” Cô đưa tay sờ mấy đầu ngón tay bằng cẩm thạch của Đức Mẹ. “Nhưng cũng có một vài điều khác. Tỉ như việc chị dọn đi chỗ khác để chăm sóc cho ai đó. Chị hy sinh tất cả cho một đứa con - và đương nhiên là chị làm cho nó nhớ về điều đó cho đến khi chị không còn sống trên cõi đời này nữa.” Candy ngước lên nhìn gương mặt thanh thản của Đức Mẹ. “Bà là một bà mẹ người Do Thái, chị biết chứ, Beth? Và nếu có ai đó giúp chị trong lúc này thì có lẽ sẽ là một bà mẹ người Do Thái.”
“Tôi nghĩ ngay lúc này điều đó thật dễ chấp nhận. Họ nói khi ta đang sợ hãi tột cùng, ta luôn tìm đến một thế lực siêu nhiên để tin, đúng không?”
“Beth này,” Candy nói tiếp, “chị không buộc phải tin tất cả mọi thứ đâu. Có lẽ chị không cần phải biết cách cầu nguyện. Có lẽ tất cả những gì chị có thể làm lúc này là vững tin chờ đợi. Có lẽ chỉ cần thế là đủ.”
Beth nhìn lên tượng Đức Mẹ. “Vững tin chờ đợi?” cô thầm thì. “Chờ cái gì chứ? Đức Mẹ ư?”
“Nếu chị muốn thì sẽ là như thế.”
“Và nếu ở đó chẳng có gì thì sao?”
“Thì... chị có thể chờ tôi.”