Chương 6
Ngay cả Laurie cũng không thể ở mãi được.
“Tớ sẽ trở lại đều đều mỗi cuối tuần cho đến khi tìm ra Ben,” cô vừa nói vừa nâng cằm Beth lên, mắt cô nhìn thẳng vào mắt Beth với vẻ tha thiết đặc biệt chỉ Laurie mới có. Cả hai đều biết Laurie không thể trở lại mỗi cuối tuần – không thể được – tuy nhiên không gì có thể làm tắt mọi hy vọng ngọt ngào trong lời hứa đó. “Vẫn còn nhiều việc chúng ta có thể làm lắm. Mọi người đều nói thế. Người phụ nữ của Chương trình Chống Phạm cũng nói. Tuần này chúng ta sẽ phân phát một số lượng thư khổng lồ đến tất cả các tiểu bang nơi các sinh viên đang sống, và số thư ấy sẽ được các tình nguyện viên ở đó phân phát tiếp. Tớ sẽ gửi đi một đống thư này từ chỗ tớ ở. Ngày Chủ Nhật thì mình sẽ có một bảng thông báo trên đường cao tốc do Hiệp Hội Lính Cứu Hỏa tài trợ, nên mỗi ngày sẽ có hàng trăm ngàn người thấy nó. Vợ của Jimmy cũng sẽ làm việc với Trung Tâm Quốc Gia Giúp Trẻ Em Mất Tích và Bị Lạm Dụng. Và sẽ có chương trình truyền hình đặc biệt nữa, chương trình với tên gọi Mất Tích – Sarah Chan nói chúng ta có rất nhiều cơ hội để được xuất hiện trong chương trình đó, đặc biệt là giờ Ben đã...” – cô ngừng lại.
“Mất tích lâu quá rồi,” Beth tiếp lời cô. “Mất tích lâu đến nỗi vụ đó bây giờ lại trở thành đề tài nóng hổi.”
“Lạy Chúa,” Laurie nói.
Đó là dấu chấm hết cho một điều gì đó. Không ai có thể nói đó là gì, nhưng họ đều cảm nhận được dấu hiệu suy giảm. Nó hiện diện trên gương mặt các cảnh sát ở Parkside, ngày càng thưa đi; hiện diện cả trong mắt các tình nguyện viên, và sau hai tuần thì cả thảy chỉ còn lại khoảng hai mươi người. Mùi nước hoa Channel No. 5 của Barbara Kelliher đã thành một chủ đề lặp đi lặp lại trong những ngày đó; nó tràn vào căn phòng dưới tầng hầm của trường Immaculata trước khi Barbara xuất hiện, rồi sau đó cô bước vào với nụ cười luôn căng thẳng, mắt chú mục vào những bản đồ đã được đánh dấu và các tin nhắn qua điện thoại trong đêm qua. Trước đó Beth không hề nghĩ rằng đối với vài tình nguyện viên, việc tìm kiếm Ben là lao động vì tình yêu thật sự – nhưng không phải tình yêu dành cho cô. Họ hy vọng nếu họ tìm ra được Ben, nhà họ sẽ không bị sét đánh. Đó là thứ mặc cảm tội lỗi để tự vệ, thứ tội lỗi khiến người bàng quan cũng phải nhảy vào chỗ nước giá lạnh để cứu một con chó hay một con vật vô chủ – và bằng cách đó cứu rỗi chính bản thân họ. Beth yêu trung tâm này, nó có mùi những ram giấy mới được xé ra và mùi cà phê cũ, cộng với vẻ sôi nổi gần như lãng mạn. Chỉ có nó và cái văn phòng bừa bộn khủng khiếp của Candy trên tầng hai Sở Cảnh sát Parkside là những nơi tạm tách Beth ra khỏi sự mất tích của Ben – dù chỉ một giây; ra khỏi cái sức nặng cô thỉnh thoảng cảm thấy đang nén cô nhỏ lại chỉ còn bằng một mẩu da.
Chính tại trung tâm này, ngay sau khi chia tay với Laurie, Beth biết được một thông tin. Một phát hiện, không giống những phát hiện khác, nghe có vẻ thật lắm. Một phụ nữ ở Minnesota, bà này từ chối không xưng tên, đã gọi điện báo có một đứa bé bà vừa thấy tại một trung tâm mua sắm ở Minneapolis đang đi cạnh một phụ nữ đeo kính râm và đội mũ rộng vành. Bà ta chắc chắn đứa bé ấy là Ben. Nó đang ăn một cái bánh hot-dog. Chính cái hot-dog ấy không hiểu sao đã khiến Barbara tin rằng thông tin ấy là đúng. Barbara nói: “Tôi nghĩ chị nên đi hỏi Candy xem cô ấy có định tiếp tục tìm hiểu về thông tin này nữa không. Tôi sẽ lái xe đưa chị đi.”
“Tôi có thể tự lái xe đi được. Cảm ơn chị,” Beth đáp.
Thật ra Beth chẳng cần phải lái. Chiếc xe được điều khiển tự động rẽ vào bãi đậu xe của Sở Cảnh sát Parkside; cô đơn giản chỉ để tay trên vô-lăng thôi. Nhưng hoàn toàn không hiểu vì sao, khi đến đó cô lại lái xe ra ngoài, chạy thêm vài khu phố để đến nhà hàng Golden Hat Gourmet, vào khu ướp lạnh và lấy vài cái bánh cannoli.
Joey đang đứng bán thức ăn trưa gói mấy cái bánh đó cho cô. “Đói hả, Bethie?”, anh phấn khởi hỏi, sau khi liếc cái quần jeans rộng thùng thình của Beth, được sợi dây lưng của Pat siết cho chặt lại. Xương hông cô lộ rõ mồn một nơi túi quần.
“Ừ,” Beth đáp và nhoẻn miệng ra như thể cô đang cười. “Tự nhiên thấy thèm cannoli quá, như Tree đó.”
Joey ôm cô chào từ biệt rồi giúi vào tay cô một bao thuốc lá Camel và Beth đi ra xe. Cô đặt chiếc hộp trắng có nơ lên chiếc ghế bên cạnh ghế tài xế.
Không ai trong các văn phòng được khóa ở Parkside thắc mắc về sự hiện diện của Beth nữa; họ chỉ lẳng lặng cho cô vào. Dù có thang máy, Beth luôn đi cầu thang bộ, và hôm nay khi cô mở cánh cửa bằng thép dẫn thẳng đến cửa văn phòng đang hé mở của Candy nơi góc tòa nhà thì cô nghe Candy nói: “... phái ai đó đến đấy kiểm tra xem sao.”
“Xin cô thứ lỗi cho, Candace,” một giọng nam lạ đáp lại. “Nhưng ông ta sẽ không chịu phái một đội cảnh sát lái xe đến thành phố Minneapolis chết tiệt đó để nói chuyện với một khách hàng ầu ơ nào đó nghĩ rằng mình đã thấy một đứa trẻ. Minneapolis lận đó? Chẳng có ai trong cuộc họp mặt đó đến từ Minneapolis cả. Có sáu mươi cảnh sát làm việc cả ngày ở sở này chứ không phải sáu trăm.”
“Từ đây đến Minneapolis bao xa? Thiên hạ vẫn lái xe đi rầm rầm đấy thôi, McGuire,” Candy nói, giọng đanh lại. “Đó là đơn vị cơ động mà.”
Beth cố đứng yên để nghe tiếp.
“Candace à, tôi biết chị lo lắng vì vụ này, nhưng đứa bé này chết rồi. Nó chết rồi, và theo quan điểm của ông ấy thì có lẽ đó lại là điều tốt, và...
“Đừng có nói là tôi biết điều này nhé, vì tôi không biết,” Beth nghe tiếng gõ tẩy quen thuộc của Candy trên cuốn sổ ghi chép việc xảy ra hàng ngày của cảnh sát. “Dù gì chăng nữa đây cũng là một vụ liên bang. Tôi sẽ gọi cho Bender.”
“Và anh ta sẽ nói: ‘Xin chào, Thám tử, hãy gọi lại cho tôi một lúc nào đó của thế kỷ tới hay khi địa ngục đóng băng nhé.’”
“Nhưng đây là một đầu mối cần kiểm chứng nằm vượt ra khỏi ranh giới một bang rồi mà.”
“Chỉ là thêm một...” viên thám tử mặc thường phục Beth chưa từng gặp quay lại và trông thấy cô. “Ô, xin chào chị Cappadora.”
Beth mỉm cười.
“Beth, vào đây đi,” Candy nghiêm khắc nói với cô. “Gặp lại anh sau nhé, McGuire.” Viên thám tử bỏ đi. “Chị nghe hết rồi, nhỉ.” Đây không phải một câu hỏi.
“Tôi nghe được đoạn nói về ai đó tên Bender.”
“Không phải, chị đã nghe hết. Nhưng điều chị cần biết nằm ở chỗ đây là lý do tôi phải gọi cho FBI, và Bender là ai – Robert Bender là người đứng đầu FBI ở Chicago.”
“FBI à, để làm gì chứ?” Beth hỏi.
“À, không phải vì chúng tôi không thể tự lo được vụ này, dù gặp khó khăn về nhân sự như chị đã nghe. Chúng tôi còn phải đối mặt với mấy ông lớn chuyên nổi khùng chỉ vì chúng tôi không giải quyết xong một vụ và có được lời nhận tội trước bữa trưa.” Cô húng hắng ho. “Nhưng có lẽ đây là lý do tồn tại của FBI, để ủng hộ quyền hạn xét xử của địa phương liên quan đến những vụ vi phạm luật lệ cấp liên bang.”
Candy đứng lên đi đi lại lại. “Theo ý tôi thì các nhân viên FBI với tư cách những nhân viên điều tra tội phạm là các nhân viên kế toán rất xuất sắc. Công việc chính của họ là trữ những ngân hàng dữ liệu trong máy tính và xuất hiện thật nhanh khi cần bắt ai đó. Đặc biệt khi có sự hỗ trợ của các camera giám sát. Nhưng tôi không muốn chị biết những điều chán ngắt này. Mà tại sao tôi lại đi kể với chị nhỉ? Tôi chỉ đang nghĩ vậy thôi. Mệt thật.” Cô ấn ngón tay trỏ lên nếp nhăn mỏng giữa hai mắt. “Mấy bộ đồng phục chết tiệt. Nhưng, mẹ kiếp, biết đâu Bender đang có một ngày dễ chịu thì sao. Tôi nghĩ mình sẽ gọi cho anh ta. Anh ta đã cố vỗ mông tôi một lần rồi mà. Biết đâu chừng anh ta có cảm tình với tôi đấy.”
Beth tự động ngồi xuống nhìn Candy quay số điện thoại.
“Bob hả?” Giọng Candy thật vui khiến Beth không thể tin được chỉ ít phút trước đây cô vừa mới nhăn nhó bực bội. “Vâng... Ồ, đương nhiên rồi, giữ kỹ lắm, tôi mà.” Cô ngừng một chút. “Không, thật ra là có đến ba giả thuyết, tôi sẽ giao cho anh hai nhé... Bob, đúng vậy, anh thật là thiên tài. Vấn đề là chúng tôi có một đầu mối ở Minnesota.” Lại ngừng, Candy cầm ống nghe đặt lên giữa trán. “Không đâu, Bob này, cũng có vẻ đúng mà... Sao anh biết chuyện đó?... À, dĩ nhiên, chúng ta sẽ kiểm tra nó trước, nhưng cũng có thể bà ta đã đi khỏi phố đó rồi, Bob. Khỉ thật, đâu có luật nào cấm mấy bà già đi vào tiền sảnh khách sạn đâu... Được rồi... Được. Tôi sẽ gọi lại cho anh sau.”
Candy gọi cô thư ký và đề nghị cô ta để cho Taylor kiểm tra lần nữa danh sách những người khách của khách sạn Tremont, những người lớn tuổi không có phụ nữ hay đàn ông đi cùng, rồi nói chuyện với người quản lý và các nhân viên trong khách sạn. Khi cô đang nói, một cảnh sát tập sự với vẻ mặt lo lắng mang vào một chồng thư. Candy lơ đãng lật lật rồi ngừng lại ở một gói bưu phẩm to gần rách. Cô vừa móc điện thoại lên vừa cười toe với Beth.
“Lại một cái khác nữa đây này,” cô nói.
“Từ một kẻ thú tội à?” Họ gửi những bản đồ vẽ tay dẫn đến những địa chỉ không thật và những tòa nhà bỏ hoang nơi họ nói Ben đang bị bắt giữ. Họ gửi những quần áo mới tinh và nói là của Ben. Họ gửi những bức ảnh các ông chồng họ nghi đã bắt cóc Ben, và – kỳ lạ nhất với Beth – là những băng thu âm dài thoòng trong đó họ tả Ben đang sống vui như thế nào trong một gia đình Thiên Chúa giáo. Beth nghi là còn có những băng khác nữa, những cuốn băng độc địa mà Candy giấu biệt không cho cô xem. Hôm đó Candy đã nói với cô rằng chỉ có ba lý do khiến một ai đó bắt cóc một đứa bé: vì muốn đích thân tiếp cận được với bố mẹ nó để tống tiền; vì muốn có một đứa con và họ cũng điên điên khi nghĩ bắt cóc con người khác là bình thường; hay, điều này ít xảy ra nhất, để hành hạ đứa bé đó. Candy nói với Beth rằng trong ba lý do trên thì Beth nên hy vọng vào lý do thứ hai, vì những kẻ đó rất muốn được làm bố làm mẹ nên sẽ chăm sóc đứa bé rất tốt.
Cho nên một bưu kiện có thể chứa tất cả các thứ thượng vàng hạ cám: một áo phông dính máu, một quần soọc tím xơ chỉ, bị rạch và cứng ngắc với...
Nhưng Candy nói: “Ồ, không phải, đây là của Rebecca, cô bạn thân của tôi ở học viện và giờ đang làm môi giới cổ phiếu.” Candy dùng móng ngón tay cái rạch gói bưu phẩm rồi đổ một đống quần áo màu cánh sen ra – một cái áo thắt ngang lưng, một quần bó eo, một khăn quàng cổ, và một thắt lưng. “Thấy chưa, cứ khoảng sáu tháng thì cô bạn Rebecca của tôi tăng giảm khoảng mười lăm ký lô. Thói quen này hao tài lắm vì ngay khi mập ra, cô ấy gửi toàn bộ quần áo khi còn gầy cho tôi.” Candy lắc đầu. “Nhưng khổ nỗi, thậm chí khi Becks thật đẹp thì cô ấy vẫn cứ như một bà thầy bói tại hội chợ đường phố. Và thế là tôi đem hết mấy thứ này đến cho tổ chức thiện nguyện Thánh Vincent De Paul – cũng may là Becks sống ở California nên nó không bao giờ biết chuyện này. Mà đống này chắc cũng tốn cả mấy trăm chứ có ít đâu.”
Beth mỉm cười. “Tôi thấy nó có vẻ như một tiếng kêu cứu nghẹn ngào vậy.”
Candy giơ gói bưu kiện lên. “Thật ra thì đó là một tiếng kêu cứu bị độn bông.”
Và Beth sợ hãi khi nhận ra mình đã cười váng lên, cô lập tức lấy tay che mắt và có cảm tưởng mình sắp chết nghẹt. Candy vội vàng đứng lên đi vòng qua bàn.
“Beth, Beth, nghe này. Chị vừa cười. Chị chỉ cười thôi mà. Nếu chị cười thì đâu có nghĩa là phe ta thua một điểm. Nếu chị cười, hoặc đọc sách cho Vincent, hay ăn thứ gì chị thích thì nó cũng chẳng biến thành điểm cộng hay trừ trên bảng điểm may mắn to lớn kia đâu.” Beth bắt đầu khóc. Candy tiếp tục nói: “Chị phải tin tôi. Chị tưởng khi mình xem một bộ phim, hoặc nghe một bài hát hoặc làm bất cứ điều gì khiến chị thoát khỏi cái cảm giác khốn kiếp kia, thì giây phút hạnh phúc ngắn ngủi đó sẽ bị trừng phạt bằng việc mất Ben mãi mãi. Nhưng Beth này, không phải như thế đâu. Không phải vì chị còn cười được thì con trai chị sẽ chết đâu.”
Dù mắc cỡ nhưng Beth vẫn nắm lấy tay Candy áp lên má. Nhưng Candy gạt phắt nó ra khiến Beth nhảy dựng lên làm cái ghế gần đổ.
“Tôi không có ý gì hết...”
“Tôi biết. Tôi biết. Tôi ngốc quá. Chị làm như thế hoàn toàn là chuyện bình thường. Tại tôi nhạy cảm quá đó thôi,” Candy nói.
“Chị không thể trở nên thân thiết được,” Beth ngập ngừng.
“Không. À, mà có, đến một mức độ vừa phải. Ta không thể thân thiết quá đến nỗi đánh mất khả năng nhìn nhận những điều có thể giúp được người khác. Nhưng vấn đề là... Tôi là một phụ nữ, là một thám tử trưởng, là người Do Thái. Và tôi là dân đồng tính, chị không biết sao? Chuyện kỳ quái gì cũng có thể xảy ra mà. Vì thế tôi có cảm tưởng như mọi người ở Texas lúc nào cũng nhòm ngó mình. Tôi có cảm giác cứ mỗi lần mình ôm Katie Wright của Chương trình Chống Tội Phạm thì có ai đó lại nghĩ tôi đang tán tỉnh cô ấy...”
“Tôi không có ý...”
“Tôi biết. Lạy Chúa, tôi ngốc quá,” Candy ngồi xuống. “Nhưng chị biết không? Mấy cái quần áo xấu xí này lại khiến tôi nảy ra một ý hay. Tôi muốn ta đi gặp một người, được chứ, Beth? Chị muốn thử không?”
“Ai?”
“Thiên hạ gọi bà này là Mary Điên; tên thật của bà ta là Loretta Quail. Tên cũng khá dở. Nhưng những gì Loretta làm là giúp mọi người tìm lại những thứ thất lạc. Chó đi lạc. Tiền đã mất.” Cô nhìn Beth chằm chằm. “Và đôi khi cả người mất tích nữa.” Candy kể có lần, một bà mẹ trẻ từ Parkside lái xe rớt từ trên cầu xuống một dòng suối trong cơn bão tuyết. Xe cô ta chúc thẳng đầu xuống nước và chìm nghỉm; rõ ràng là dây an toàn đã bị hỏng. “Cô ta chìm sâu cả mét rưỡi ấy, Beth ạ. Nhưng vấn đề là bọn tôi không biết. Bọn tôi không biết chuyện gì đã xảy ra. Người phụ nữ này đi mua một túi tã. Và cô ta không bao giờ về nữa. Chúng tôi nghĩ ông chồng là một gã vụng trộm lén lút, chị biết đấy, người phụ nữ này đang ở sân sau dưới cái nhà nhỏ dành cho bọn trẻ chơi. Trước đó họ đã có một khoảng thời gian không hòa thuận với nhau. Nhưng không, anh ta đang ở nhà với đứa con suốt khoảng thời gian đó – người phụ nữ này đã biến mất. Chiếc xe của cô ấy cũng vậy. Và không một người bạn nào thấy cô. Cô cũng không hề đi mua sắm. Thế là, chị biết không, hoàn toàn mất phương hướng.”
Candy kể có ai đó đã nhắc đến Loretta. “Beth này, chị phải hiểu rằng tôi là loại người không mê tín dị đoan. Vì thế tôi đã nghĩ Chà... ta nghe nói có những khoa có bác sĩ tâm thần cho mấy con thú cưng, nhưng ta chưa từng nghĩ... Dù sao, bà Loretta đã hít hít cái áo khoác dùng để đi trượt tuyết của bà mẹ trẻ này như mấy con chó Holmes và Watson, rồi nói cô ấy đang ở trong xe dưới một núi tuyết, mặt ngước lên. Và Beth này, đúng ngay chỗ đó. Chúng tôi tìm được cô ấy vào tháng Ba sau đó khi dòng suối tan giá, dây an toàn vẫn đang khóa, cô đang ngước mặt lên mui xe. Núi tuyết là những gì cả làng san từ trên đường xuống dòng suối.”
“Vậy nên chị nghĩ bà ta có thể giúp tìm ra Ben ư?”
“Tôi nghĩ mình nên đưa ý này ra để tùy chị quyết định, và tôi muốn chị đừng nói cho người nào khác biết. Ngoại trừ Pat; dĩ nhiên chị có thể nói cho Pat biết.”
“Tôi không muốn cho Pat biết.”
“Tôi lại nghĩ chị nên cho anh ấy biết.”
“Thôi, tôi không muốn cho Pat biết. Khi nào mình có thể gặp bà ấy được?”
“Để tôi gọi ngay cho bà ấy,” Candy nói; nhưng chuông điện thoại reo vang và Candy đưa tay ra hiệu cho Beth ra cửa. Khi nhìn qua cửa kính, cô có cảm tưởng Candy đang tranh cãi; cô lấy hai tay xua Beth đi chỗ khác – cô kẹp điện thoại giữa má và vai để ra hiệu như thể người gọi có thể thấy được cô. Cô gác máy và ngay lập tức lại gọi một cuộc ngắn khác.
Cuối cùng, mệt lử, cô mỉm cười bước ra. “Là Bender. Anh ta đã quyết định cứ tà tà tính tiếp. Thôi để sau,” cô nói nhỏ. Tự dưng Beth sực nhớ ra mấy cái bánh cannoli, cô đưa hộp bánh cho Candy. Vừa mở hộp Candy vừa nói: “Chị cứ làm thế này thì tôi phải nói Rebecca gửi thêm cho tôi quần áo cỡ lớn hơn mất.” Rồi cô tiếp: “Mình đi đến chỗ Loretta nào. Bà ấy đang ở nhà đó.”
Nhà Loretta Quail ở một nơi bố Beth thích gọi là “khu láng giềng đã đổi thay” – nói cách khác, theo từ ngữ của ông Bill thì đó là một khu nhà đã thua trận từ lâu rồi. Những học sinh da đen khoảng chín đến mười ba tuổi – có cả một cô bé đang có thai thật to làm Beth rất sốc – đang chơi khúc côn cầu trên vỉa hè. Nhà Loretta trông như một chốn thần tiên tiêu điều giữa những cửa sổ che bằng ván và những bãi cỏ xơ xác. Trên sân cỏ, từ đầu này đến đầu kia của hàng rào dài có những chú lùn bằng gốm lòe loẹt đang nô đùa với nhau, những quả bí đỏ và những quân bài nằm ngửa trên mấy chiếc nấm dù to. Khi Loretta mở cửa, một làn không khí tù hãm bên trong có mùi hành và bột khoai tây phủ lên mặt Beth như một khăn mặt ướt. Trong nhà cũng hằng hà sa số thứ như bên ngoài – bất kỳ chỗ nào trống cũng đều có một món đồ thượng lên trên: mèo bằng gốm, mèo bằng gỗ khắc, mèo nhồi bông, và một số lượng đáng kể những món y như thật. Khi Loretta nắm tay Candy đưa họ vào nhà, Beth đếm được sáu con mèo. Bà ta lăng xăng xuống bếp đem lên một khay đựng mấy cái vại và một bình trà được ủ ấm. Trong phòng chắc cũng khoảng tám mươi độ F, và thậm chí từ xa Beth cũng có thể thấy mấy sợi tóc vương vãi trên vại; nhưng cô vẫn bắt chước Candy dũng cảm đưa tay đỡ tách trà xanh rồi nhận một bánh nướng xốp từ tay Loretta. Beth rùng mình khi nghe Loretta nói bà tự làm lấy bánh.
“Loretta này, bà cũng biết là chúng tôi đến vì con của Beth,” Candy bắt đầu.
“Đúng rồi, đương nhiên là thế. Mà tôi còn biết là quý vị sẽ đến nữa cơ. Nhưng tôi đoán phải đến thứ Sáu. Đêm qua tôi nằm mơ thấy sẽ là thứ Sáu. Tôi thấy Beth.” Trời ạ, Beth nghĩ, cô đưa mắt liếc mấy con mèo quanh phòng. Tại sao mấy bà điên thường nuôi mèo nhỉ? Tại sao không nuôi chó thay cho mèo, chó cũng phấn khích khi thấy chúng ta sau khi ta lái xe đi mua sữa về y hệt như lần đầu chúng gặp ta vậy? Pat luôn nói mèo xem con người như những đồ đạc có máu nóng. Để không tỏ ra bất lịch sự, Beth nhìn xuống cặp đùi to mập của Loretta trong cái quần bằng vải polyester có màu xanh kỳ lạ cô chưa từng thấy. Tại sao mấy bà điên tuổi khoảng sáu mươi lăm có nuôi mèo lại mặc mấy cái quần ống loe đến thế nhỉ? Với mấy cái áo hoa tưởng như được chọn lựa kỹ càng nhưng lại làm người mặc giống mấy thằng hề? Vì khi còn trẻ họ mặc những thứ này rất đẹp ư? Vì mấy thứ khác trông xấu hơn? Khi cô liếc cái đầu đầy ống lô cuộn tóc của bà ta – như một cái đầu đầy những chồi hoa vào cuối xuân – cô nghe bà ta hỏi Candy: “Vậy thì cô có muốn tôi thôi miên không? Hay chỉ nói cho các cô biết cảm tưởng của tôi thôi?”
Thêm một miếng rau cải thái trộn lên trên đó thì sao nhỉ?, Beth nghĩ. Cô thấy ngượng quá. Chưa bao giờ trong đời – kể cả lần duy nhất cô làm đổ axít vào năm cuối đại học – Beth có một trải nghiệm ngoại cảm thật sự. Những linh cảm, cảm giác, những lời cầu nguyện nửa vời trùng hợp ngẫu nhiên – cái này thì có; trong gia đình thời thơ ấu của cô có mấy thứ này, cứ như thể mê tín là thứ không thể thiếu được ấy. Nhưng dù đầu Beth đầy ắp những chuyện mẹ cô kể về người dì đã chết, người mà linh hồn đã bay đến Chicago không cần đến máy bay để bảo rằng Katie hay Mary từ Louisiana đã chết trong trận dịch cúm thì Beth vẫn chưa từng ngửi thấy mùi nước hoa của mẹ Evie của cô hay thấy linh hồn bà lướt qua người cô, mặc dù vài người bạn rất thông thái của cô còn đảm bảo rằng những điều này sẽ xảy đến với cô.
Vì thế khi Loretta bắt đầu giải thích nguồn gốc tài năng của bà ta, những mùi hương làm bà ta mê đi như thế nào từ khi mới sáu tuổi, thì Beth phải cố gắng lắm mới không để lộ sự khó chịu ra mặt. Như thế là bất lịch sự, nhưng khi nghĩ kỹ lại thì Beth thấy có lẽ Loretta đã quen tiếp các khách hàng có hành vi kỳ quặc. Bà ta thậm chí cũng không bực mình khi Beth đưa tay lên che mắt như thể đèn quá sáng. Với giọng đều đều như đọc thuộc lòng một kịch bản, bà ta giải thích cho Beth rằng lần đầu tiên xảy ra chuyện đó là sau khi bà khỏi bệnh sởi, và rằng trong những khi bị mê đi “có một chuyện luôn xảy ra – tôi luôn thấy mọi thứ ở những nơi buồn cười nhất. Những điều tôi không giải thích được. Những thứ không phải của tôi. Một cái ví đàn ông nằm dưới bánh xe ngựa. Một người đàn ông ở trạm xe buýt đang cố giấu mặt sau chiếc khăn rằn. Một cái nhẫn ở lỗ thông hơi của máy sấy quần áo. Và sau vài năm thì những chuyện này tiếp tục với cường độ hai lần một tháng. Tôi bắt đầu kể cho mẹ nghe, mẹ tôi kể cho bạn mẹ tôi nghe, và rồi tất cả những thứ đó biến mất hết. Cả người nữa. Rồi khi tôi nhớ ra từng bức tranh mình đã thấy – tôi thường gọi chúng là ‘những bức tranh của tôi’ – thì chao ôi, lạy Chúa, người ta tìm lại được tất cả mọi thứ.”
“Bà có bao giờ sai chưa?” Candy hỏi.
“Chưa bao giờ,” Loretta đáp.
“Chưa bao giờ ư?”
“Cũng có khi người ta không tìm được những thứ họ mất. Không phải lúc nào tôi cũng chỉ cho họ được rằng ‘Món nữ trang này, hay tài liệu này, đang nằm trong tủ đựng hồ sơ dưới tầng hầm một căn nhà ở đường Adison.’ Tôi không thể cho mọi người một địa chỉ cụ thể được. Có những lúc tôi không thể nhập thần, thường là vì mấy người bị mất đồ không thật sự muốn tìm lại chúng. Các cô biết không, giống như chuyện một cô gái tuổi vị thành niên có thể là gái điếm vậy. Chuyện đó xảy ra nhan nhản. Nhưng mỗi khi tôi thấy một thứ gì đó thì quả thật là tôi thấy nó. Nó nằm ngay chỗ tôi thấy nó. Tôi biết điều đó. Phần lớn các nhà ngoại cảm đạt tỉ lệ trung bình là năm mươi phần trăm; còn mấy người huênh hoang trên báo chí thì tôi nghĩ họ chỉ thành công được hai mươi phần trăm là cùng. Họ nổi tiếng là do họ quan hệ tốt với quần chúng. Hầu hết mấy người đó sẽ nói với cô đây là quà của Thượng Đế, thậm chí họ còn đưa tay ra để nhận nữa. Tôi tin có Thượng Đế, nhưng tôi không nghĩ đây là quà của Thượng Đế; tôi nghĩ đó là do trong đầu tôi bị trục trặc gì đó. Tôi đã giúp được hơn năm trăm người. Nhưng tôi nghĩ mình không nên mua bán từ chuyện này. Tôi chưa lấy của ai đồng xu nào và trong tương lai tôi cũng sẽ không lấy. Tôi chưa hề nói chuyện với giới báo chí và tôi cũng sẽ không nói với họ.” Bà ta cay đắng nhìn quanh căn phòng nhỏ xíu rồi nói. “Nếu làm thế thì tôi đã sống ở đại lộ One Michigan chứ không phải ở đây. Tôi đã tìm được vài thứ... rất có giá trị.”
Candy lấy chiếc giày của Ben từ trong túi có niêm phong ra đưa cho Loretta. Bà ta cầm lấy rồi thò mũi vào trong giày hít một hơi thật sâu. Bà cười với Beth. “Giày mới. Nhưng có thể nói chắc như đinh đóng cột rằng nó đã xỏ chân vào chiếc giày này. Đúng vậy.”
Loretta cắn thêm một miếng bánh nữa rồi lật qua lật lại chiếc giày trong tay. Và thình lình bà làm rơi miếng bánh. Beth giật mình kêu lên. Người phụ nữ to béo bật ngửa ra trong ghế; miệng bà ta há to và một dòng nước miếng chảy chầm chậm xuống chỗ trũng giữa môi và cằm bà. Beth nhìn chằm chằm vào Candy đang giơ tay lên ra hiệu. Bỗng nhiên Loretta nhổm dậy phủi vụn bánh trên đùi.
“À, Chuyện này mới buồn cười đây. Tôi thấy một cậu bé, nhưng chỉ thấy có một thoáng thôi. Thấy nó. Thời gian còn lại tôi thấy những gì nó đang nghĩ. Chuyện như thế này chỉ xảy ra có hai lần trong đời tôi thôi.”
“Nó đang nghĩ gì?” Candy chồm ra phía trước hỏi nhỏ.
“À, nó không suy nghĩ gì nhiều... mà là nó đang mơ. Đúng rồi, đúng như vậy đó. Đang mơ. Đang ngủ. Nó đang nằm trong một cái thùng gỗ bóng loáng. Nó đang nằm trên một loại vải giống như ren. Cái thùng có nắp thật to che lên người nó, cong vòng...”
“Nó đang nằm mơ thấy nó ở trong thùng à?” Candy thúc giục.
“Trong cái... kiểu thùng này. Dài hơn chiều dài nó...”
Chỉ có thể là một thứ mà thôi, không còn gì khác. Beth không muốn hét lên. Cô cố bịt chặt miệng bằng cả hai tay nhưng rồi cũng phải hét lên: “Tôi biết rồi!” Mấy khớp ngón tay cô cạ vào hàm răng cửa bắt đầu chảy máu.
“Beth, chờ chút! Nghe cho hết đã!” Candy cố ấn Beth ngồi yên trên ghế nhưng cô đã bật dậy vùng vằng thoát ra. Tất cả lũ mèo trong phòng đều đứng bật dậy rít lên.
Loretta nhẹ nhàng quay sang Candy lắc đầu. “Thỉnh thoảng vẫn xảy ra như thế khi tôi nói rõ cho họ biết. Họ chẳng muốn nghe đâu. Cô có muốn tôi ngừng lại không?”v