Chương 9
Tám mươi phần trăm trong số chúng ta li dị,” Penny vừa nói vừa nhích cái thân hình khá đồ sộ của mình ra mép ghế xếp. Công tâm mà nói thì đó là loại ghế nhỏ xíu: Beth thấy ngay cả Laurie mảnh mai cũng chỉ ngồi vừa khít. Và Pat thì cứ như một ông khổng lồ ngồi thườn thượt trên ghế.
Tay mân mê cái nút áo có ép hình Casey, đứa con bốn tuổi bị giết, Penny nói tiếp: “Tính ra là hơn ba mươi phần trăm tỉ lệ ly dị chung của cả nước. Nếu chỉ vì những căng thẳng nhỏ nhặt trong cuộc sống mà phân nửa các cặp vợ chồng Mỹ ly dị thì những người mất con y như chúng ta chắc phải ly dị hết. Và vào những lúc khó khăn nhất trong cuộc hôn nhân thì bạn sẽ mất phương hướng, bạn cứ như đang ở trong mê hồn trận ấy.”
Đó là lý do cuộc họp mặt ngày hôm nay của nhóm Vòng Tròn Trắc Ẩn, Penny nhấn mạnh (“vì lợi ích của những người tham gia lần đầu tiên tại đây”), sẽ tập trung vào hậu quả của việc mất mát các mối quan hệ trong gia đình. Rồi cô bỗng nở một nụ cười làm sững sờ người đối diện – như thể cái cánh cửa nặng nề trên gương mặt to bè sầu thảm của cô vừa mở toang ra: “Cuộc họp mặt năm ngoái về chủ đề này đã là một trong những thành công nhất mà nhóm chúng ta có được.”
Ngồi trên ghế của mình, chỗ ngồi danh dự bên phải của Penny, hít mùi nước hoa thơm lừng của cô ta, Beth mơ màng – đây không phải là lần đầu tiên – nghĩ đến chuyện mình có thể bị điên. Nếu cô thực sự điên thì giọng nói sốt sắng của Penny giờ chỉ còn là những tạp âm rì rầm. Đáng ra Laurie đã không thể kéo cô và Pat đến đây. Những người điên thật có một vẻ xa vắng nào đó, một nhân cách riêng, họ bị buộc phải điên. Mọi người bỏ mặc họ. Cô thắc mắc không biết những người điên trong các bệnh viện có thật sự thấy những người họ giả vờ như không thấy, hay họ có ý thức được rằng mũi dãi họ đang chảy lòng thòng xuống quần áo? Và họ có ngoan cố từ chối phản ứng một cách có ý thức không? Phải chăng điên thật sự chỉ là một quyết tâm rất mạnh mẽ đến nỗi nó vượt qua mọi phản ứng của con người? Hay những người như thế đang thật sự lang thang trong tâm tưởng sâu kín của họ, trong một bối cảnh đứt đoạn, quá mải mê vào chính bước chân của họ đến nỗi thế giới bên ngoài lu mờ đi?
Đó là những gì mình muốn, Beth nghĩ. Để thật sự được chứng thực. Cho sự ngu đần. Cho những ngớ ngẩn của mình.
Nhưng thậm chí khi rất muốn được điên, cô vẫn thấy mình không thể điên được. Đơn giản là những cơn điên dại cứ lẩn đi, không chịu nhập vào cô. Trong vòng nửa tiếng ngắn ngủi tại nhóm Trắc Ẩn, hai trong số mười ba người tham gia đã lặp đi lặp lại từ “suy sụp tinh thần” để tả tình trạng của họ ngay sau khi mất con.
Beth không nghi ngờ họ; cô chỉ muốn biết Làm thế nào bạn vượt qua được điều đó?. Cô chỉ có thể nhớ lại một trạng thái lờ đờ miên viễn trong đó cô biết gần hết những việc mình không làm nhưng lại hoàn toàn không biết hầu hết những việc cô thực sự đã làm.
Lúc đầu, chỉ là cái giường. Beth cư xử như thể từ lâu cô đã mắc bệnh đổ mồ hôi trộm của trẻ nhỏ. Cô có cái bình lớn thật đẹp đựng những quả bóng đá màu xanh nước biển nhỏ do vị bác sĩ ở Chicago bỏ lại, và hai quả bóng trong số đó đã làm cô ngầy ngật mê mệt suốt sáu tiếng đồng hồ liền. Khi Pat từ nhà hàng về trước khi đêm xuống, cô ra khỏi giường, bế Kerry trong lòng và nhìn Vincent. Rồi cô đưa trả con bé lại cho Jill và chui vào giường lại. Hai đứa trẻ đã thấy mặt cô. Chúng biết cô còn sống.
Rồi cô bắt đầu thấy mình bốc mùi. Đồ lót của cô bắt đầu cứng còng; đầu cô bết dầu và cô có cảm giác như mấy con chấy đang bò lổm ngổm trên đó. Vì thế cô đi tắm, mặc đồ lót sạch và một áo phông vào rồi lại leo lên giường, rất sạch sẽ. Nếu cô cứ tiếp tục như thế này mãi thì liệu hai đứa con cô có nói rằng chúng không hề có mẹ? Dĩ nhiên là không rồi. Chúng sẽ nói là chúng có mẹ và mẹ chúng ở nhà suốt ngày. Một bà-mẹ-ở-nhà, vai trò mà trước đó Beth chưa từng làm. Chắc chắn là Pat không dám hy vọng rằng cô sẽ đi làm trở lại.
Ấy thế mà cô chỉ mới ba mươi ba tuổi. Cô không còn uống rượu thường xuyên nữa. Cũng không hút thuốc, cô hầu như đã bỏ hẳn. Huyết áp của cô là một trăm mười trên bảy mươi. Trọng lượng cô cũng không vượt quá giới hạn cho phép. Cô không còn chạy bộ hay đi đến các lớp tập thể dục nhịp điệu nữa; nhưng cô đã làm mấy chuyện đó hằng bao nhiêu năm nay rồi, và vì thế cô vẫn giữ được thân hình khá săn chắc ngoại trừ cái hông. Mẹ Beth mất khi còn khá trẻ, nhưng về bản chất là do xui rủi chứ không phải vì bệnh di truyền. Ông bà ngoại cô sống thọ lắm cơ mà.
Lịch sử của dòng họ Kerry cho thấy cô có thể sống đến bảy mươi tuổi – trừ những bệnh ác tính chưa phát hiện ra hay trừ khi cô tự tử thôi – và Beth biết mình không thể tự tử được, thậm chí “tình cờ” bằng những viên thuốc ngủ. Trời đánh thánh vật cô đi nếu cô biết mình có thể làm gì trong khoảng thời gian này. Mọi người đương nhiên là ai cũng muốn cô ra khỏi giường. Chỉ nghĩ đến việc phải ra khỏi giường rồi chơi với Vincent và Kerry, hay đi siêu thị hoặc trồng trọt gì đấy hay chiên một cái trứng là cô đã không chịu nổi rồi. Ở Chicago cô làm những việc thường nhật – lái xe, nói chuyện – để không làm Candy, Ellen, Barbara Kelliher và nhóm tình nguyện viên thất vọng. Cô có thể trở lại đó – trao đổi với các thám tử tư, làm việc tích cực hơn để tìm ra giải pháp. Nhưng cô lại không chịu nổi việc phải thấy mấy con phố phía Tây cũ kỹ đó. Chỉ nghĩ đến việc thấy cái chữ “I” màu vàng bị che phủ bởi những đóa hoa tulip nơi góc lối vào trường trung học cũng đủ khiến cô phải lấy gối trùm đầu lại rồi.
Nhưng vài tuần sau khi cô về nhà, Laurie đến nhà Beth, đem theo bữa ăn tối và vài hộp đựng những tấm áp phích để tìm Ben. Beth nghe tiếng Laurie gọi mình từ hành lang dưới nhà. Cô nhắm tịt mắt lại.
“Tớ biết cậu còn thức mà, Beth,” Laurie giờ đã đứng bên giường Beth. “Tớ thấy mắt cậu chớp chớp mà.” Laurie ngồi xuống mép giường. “Sao không dậy đi, Beth?”
“Tớ đã dậy rồi. Tớ muốn nằm một chút,” Beth đáp.
“Jill nói cả tuần nay cậu chưa ra khỏi giường.” Beth không đáp lại. “Tớ biết cậu không thích dậy, nhưng cậu phải nhúc nhích một chút đi, nếu không cơ bắp của cậu sẽ teo lại. Cậu sẽ bị đau nhức đó.”
“Tớ chẳng cần. Tớ muốn bắp thịt mình teo hết đi.”
Laurie chạy hơn sáu cây số bốn lần mỗi tuần, thậm chí ngay cả vào những ngày có tuyết. Đã có lần cô ngã xuống trên lớp băng trước nhà một người láng giềng rồi vừa đi tới hàng hiên của nhà đó vừa giữ lớp da cùi chỏ che chỗ xương bị lòi ra. Cô nhờ bà ta gọi 911 rồi ngồi xuống nơi hàng hiên để chờ xe cứu thương đến. “Beth này, không phải chỉ là chuyện thiếu hoạt động mà còn là ngốc nghếch nữa. Cậu chưa biết chuyện gì xảy ra cho Ben mà. Nếu cậu không nói chuyện với những người của đài truyền hình và cậu không gọi điện thoại thì ít nhất cậu cũng phải gửi mấy cái này qua thư cho những người từ khắp mọi miền đất nước đã đề nghị đưa chúng lên chứ. Đó là chuyện nhỏ nhặt nhất cậu có thể làm cho Ben đó. Tớ xin lỗi cậu, nhưng nếu cứ thế này thì cậu chẳng xứng đáng nữa.”
“Tớ chẳng cần.”
Laurie tặc lưỡi. “Beth, tớ chưa bao giờ nói với cậu như thế này. Nhưng giờ thì dậy ngay, nếu không tớ không làm bạn với cậu nữa và rồi người ngợm cậu sẽ ngày càng tệ hại hơn đó.”
Beth đưa chân qua mép giường rồi đặt xuống sàn.
Và rồi Beth ra khỏi giường hầu như mọi buổi sáng. Thường là vì điện thoại của Candy, Laurie hay bà Rosie. Lại có một thi thể nữa cần nhận dạng; Bick đã đi làm chuyện này. Cậu bé đó ở Gary, bang Indiana, ít nhất đã bảy tuổi. Một cú điện thoại khác: Cô có biết rằng có một bảng yết thị có gương mặt Ben trên đường cao tốc xuyên bang I-90, ngay gần trung tâm thương mại đồ sộ không? Có, Beth sẽ trả lời như thế, có cho mọi câu hỏi, chắc chắn rồi. Và cô thức dậy, đánh răng, rửa mặt. Cô có thể ngồi cuộn tròn trên góc chiếc trường kỷ cả ngày, âm thầm ngắm con phố, nhưng như thế là cô đã ra khỏi giường rồi. Có hai lần cô ra ngoài để lấy thư. Giây phút kinh hoàng nhất là một sáng Chủ Nhật khi cô thức dậy lúc trời còn tờ mờ, cô lén nhìn vào phòng hai cậu con trai và thấy Ben nằm cuộn tròn trên giường nó.
Pat chạy đến khi nghe cô hét; Beth đã tiểu ướt quần.
“Là Vincent mà,” anh vừa giải thích vừa đỡ lấy cô đang run bần bật. “Là Vincent đó mà. Giờ thì nó ngủ trong giường của Ben. Nó đã ngủ ở đó từ hôm anh đưa nó về nhà. Lúc đầu thì anh còn bế nó về giường nó, nhưng giờ thì anh không làm thế nữa. Anh nghĩ.... Anh nghĩ như thế làm nó thoải mái hơn, Beth ạ. Nó cũng ngủ với... với con thỏ của Ben, con Igor ấy.” Pat đưa cô về lại giường, anh lấy khăn ấm lau đùi cho cô, và rồi, bị kích thích bởi cặp đùi và cái hông trần của cô, anh đã làm tình với cô. Khi anh cố hết sức thọc sâu vào, Beth nghĩ nếu anh làm thế với một giỏ quần áo dơ sắp mang đi giặt chắc anh sẽ thấy sướng hơn. Hai đứa trẻ tiếp tục ngủ. Tiếng thở của Pat là âm thanh duy nhất trên cõi đời không ngưng nghỉ này.
Đến giữa tháng Chín, Laurie đưa họ đến nhóm Vòng Tròn Trắc Ẩn, một nhóm cô đã phát hiện ra trong những ngày còn làm việc bên phòng quan hệ quần chúng, lúc ấy Laurie làm các sách quảng cáo và viết các bản tin nội bộ cho hầu như mọi tổ chức có tiếng ở Madison, nơi tập trung các chương trình trợ giúp. Nhưng những đứa con của các bố mẹ trong nhóm Trắc Ẩn không chết vì bệnh xơ hóa bào thai. Một vài đứa chưa chết. Laurie nói danh mục liệt kê các câu chuyện kỳ lạ đó rất đáng kinh ngạc. Trong số đó thì trưởng nhóm Penny Odin lại là người có câu chuyện rùng rợn nhất. Ông chồng cũ của cô đã đến đón đứa con trai bốn tuổi của họ trong ngày sinh nhật của nó. Một tiếng đồng hồ sau hắn gọi điện thoại cho cô, đưa ống nghe cho thằng bé nói chuyện với mẹ rồi chĩa súng bắn vào phía sau đầu nó.
“Tại sao một người với nỗi đau như thế lại muốn nghe chuyện tớ chứ?” Beth hỏi.
“Tớ nghĩ có thể cậu muốn nghe chuyện của họ,” Laurie nhẹ nhàng đề nghị. “Họ nói nó giúp cậu biết cậu không phải là người duy nhất.”
Nhưng mình là người duy nhất mà, Beth nghĩ. Một câu thơ bỗng xuất hiện trong đầu cô: “chẳng có ai khác.” Trường hợp của mình là duy nhất. Những chuyện hoang đường, những bất hạnh và những kế hoạch để đối phó của những người đang phải chịu đựng đó thì có liên quan gì đến cô chứ? Cô đồng ý đi đến một buổi họp thôi, và chỉ đi khi có Pat cùng đi. Nhóm Vòng Tròn Trắc Ẩn họp dưới tầng hầm một nhà thờ. Beth bắt đầu nghĩ đến những tầng hầm nhà thờ như một loại hình đường sắt ngầm dẫn đến sự cứu rỗi cảm xúc – tỏa khắp nước Mỹ, đến nơi nào con người đang biến đổi, đau buồn, kết hôn, sinh con đẻ cái và chết, đang tụ họp quanh những bàn thánh trong các căn phòng có tường đầy tranh vẽ của trẻ em về ngày lễ Truyền Tin.
Penny nói tiếp: “Trong cái tên ‘Nhóm Vòng Tròn Trắc Ẩn’ thì phần có ý nghĩa nhất đối với tôi là ‘vòng tròn’. Một vòng tròn bao hàm cả bốn chiều: đông, tây, nam, bắc. Đối với nhiều người trong chúng ta cũng có bốn loại cảm xúc: vui và buồn, nhận biết và huyền bí. Với vài người chúng ta thì thật đúng là huyền bí. Chúng ta không biết con mình đang ở đâu nữa, còn sống hay đã chết. Thậm chí đối với những người biết điều gì xảy đến với đứa con đã mất, như tôi chẳng hạn, vẫn có những sự huyền bí. Tôi tin bé Casey nhà tôi đang là một trong những ca sĩ hay nhất trong ban đồng ca của Chúa. Nhưng tôi không biết chắc lắm vì tôi chưa đạt tới được trình độ đó. Tuy nhiên, mỗi sợi tóc bạc xuất hiện lại là một niềm vui cho tôi vì nó đem tôi đến gần với đứa con trai nhỏ của tôi hơn, và đến gần ngày đoàn tụ của chúng tôi hơn.” Cô lại cười thật tươi – trước đây ít lâu, Beth nghĩ, chắc hẳn Penny rất xinh đẹp. “Nắm tay nhau đi nào,” Penny thúc giục mọi người.
Beth ngồi im cho đến khi Laurie giật mạnh bàn tay đang nắm lại trên đùi cô giơ lên cao.
“Chúng ta gặp nhau trong một vòng tròn, với hy vọng rằng chúng ta sẽ được chữa lành như chúng ta thường hát trong nhà thờ khi còn bé,” Penny nói. “Đó là lý do chúng ta có mặt tại đây để khám phá xem chúng ta có được sống trọn vẹn cuộc đời mình không thay vì cứ phải chịu đựng những khổ đau. Tôi nghĩ chúng ta có thể đó.” Cô cầm một chồng sách mỏng lên rồi phân phát cho mọi người. “Đây là vài vấn đề thường xảy ra nhất trong những gia đình mất một đứa con. Rắc rối trong đời sống tình dục. Sự bùng nổ bốc đồng không thể kiểm soát được của người anh hay em, những đứa cảm thấy bị bỏ rơi, phản bội hay sợ hãi. Mục tiêu khác biệt – một trong hai vợ chồng muốn trở lại làm việc như bình thường còn người kia vẫn mắc kẹt... Chúng ta đã cho nhau biết tên và lý do mình có mặt tại đây. Giờ thì ai muốn nói về vài vấn đề mà cuốn sách này gợi ý?”
Jean là mẹ một cô bé tuổi vị thành niên đang mang thai bị người yêu lớn tuổi hơn, đã có gia đình đẩy xuống từ vách đá cao. Jean nhẩy nhổm trên ghế, hăng hái phát biểu. “Khi Sherry mất, bước ngoặt đối với tôi là đám tang của nó. Tôi đến nhà tang lễ và nhìn nó nằm trong quan tài và dù những nhân viên dịch vụ lễ tang đã làm hết sức của họ thì qua các bắp thịt căng cứng nơi cổ, ta vẫn có thể thấy nó đã phải chịu đựng đau đớn đến dường nào khi nó lao qua...”
Beth nhìn xoáy vào Laurie. Cô phải ngồi đây để nghe chuyện này sao? Laurie nhìn lại cô ra hiệu im lặng khiến Beth ngồi sụp xuống ghế, cố chú tâm vào hoa văn trên cuốn sách mỏng trong tay: một vòng tròn chung quanh có những tia như mặt trời. “Và mục đích suốt cuộc đời của chồng tôi là làm cho kẻ đã giết con chúng tôi phải bị vào tù. Anh rất tức giận vì ở Wisconsin không có án tử hình vì thật ra, gã đàn ông này giết những hai mạng sống: con tôi và cả con nó nữa. Anh nói chuyện điện thoại với cảnh sát và luật sư cả ngày, còn tôi thì không muốn tham gia gì vào đó cả. Ý tôi là làm như thế có đem Sherry về lại cho tôi được không? Anh ấy muốn chúng tôi được bồi thường – tiền nong chúng tôi có được nếu Sherry trưởng thành, tiền nong cho những đau khổ của chúng tôi. Gã đàn ông giết nó có rất nhiều tiền; hắn có một việc làm rất ngon trong ngành xe hơi. Tôi không chú ý mấy về điều đó. Vì thế tôi đã cố theo chồng, nhưng anh ấy biết tôi không thật sự thích chuyện này, và bắt đầu đổ thừa là tôi chưa từng quan tâm đến Sherry nhiều bằng anh ấy.”
Jean và chồng cô giờ không còn ở với nhau nữa, hai năm sau khi con gái mất, họ chia tay nhau. Jean đang học khiêu vũ tập thể và lần đầu tiên trong đời cô đi học đại học để thành một y tá. Chồng cô sống trong một căn hộ nhỏ gần bờ hồ, đồ đạc duy nhất của anh ta là một cái giường xếp và những tủ đựng hồ sơ đầy tài liệu và các báo cáo được đăng trên báo về cái chết của Sherry. Jean nói nó là một ngôi mộ thật sự cho Sherry – với nến được thắp suốt ngày dưới hình của cô bé trong khắp căn hộ. “Một ngày nào đó anh ta sẽ bị chết cháy thôi.”
“Có lẽ anh ta biết điều đó,” một người khác tên Henry xen vào. “Tôi cũng vậy, tôi đã gần như tự hủy hoại cuộc đời mình sau khi vợ tôi bắt cóc con trai tôi. Ở lì trong các quán rượu. Tán tỉnh hết phụ nữ này đến phụ nữ khác chỉ để tìm quên trong tình yêu. Sáng sáng thức dậy đầu nhức như búa bổ....” Mọi người quanh bàn cười râm ran tán thưởng.
Một phụ nữ rất trẻ – cô này nắm tay chồng suốt buổi họp mà đến giờ này Beth đau khổ thấy đã kéo dài gần chín mươi phút rồi – lên tiếng: “Các anh chị biết không, em cứ thắc mắc không biết có gì trục trặc với chúng em không vì chúng em chưa từng phải đối mặt với những khó khăn giống như vậy bao giờ. Cái chết của Jenny đã đưa chúng em lại gần nhau hơn và gần với Chúa hơn.” Jenny, đứa con hai tuổi của họ, một đêm nọ đã bị xe của chính người trông nó cán qua khi bà ta (một kẻ nghiện rượu, điều mà hai vợ chồng không hay biết) lùi xe ra khỏi lối vào nhà để đi về. “Chúng em thấy rằng bất cứ khi nào một trong hai đứa em cần một bờ vai để dựa vào mà khóc thì đứa kia luôn có mặt bên cạnh. Chúng em ngắm ảnh của Jenny và đương nhiên là dù luôn buồn sầu, chúng em vẫn cố nhớ những niềm vui Jenny đã mang đến cho mình, và nhận ra rằng chúng em được an ủi rất nhiều. Chúng em rất may mắn vì đã có Jenny.”
Laurie viết ngay góc của cuốn sách mỏng rồi nhẹ nhàng đẩy nó qua cho Beth: “Có lẽ ngay từ ban đầu họ đã không muốn có con.” Beth đưa một bàn tay lên che mặt.
Người mẹ trẻ nói tiếp: “Vì thế chúng em đang nhận ra rằng trải nghiệm này, dù khó khăn, đã thật sự là một khoảng thời gian để trưởng thành... để khi chúng em có một đứa con khác, mà chắc chắn là chúng em sẽ có thôi...”
Henry cay đắng hỏi: “Vậy tại sao hai bạn lại có mặt ở đây? Nếu hai bạn tốt lành đến thế thì tại sao hai bạn lại muốn đến để có mặt với những người không làm được những chuyện to tát phi thường như các bạn?”
Penny nhẹ nhàng nhắc anh: “Henry này, anh biết điều lệ của nhóm rồi đó. Chúng ta không ghen tị và chúng ta cũng không hận thù. Mọi người đều có quyền hành động tùy theo mất mát riêng của mình...”
“Nhưng dường như họ không cần giúp đỡ mà,” Henry nói.
Người phụ nữ đáp: “Nhưng chúng tôi cần. Chúng tôi cần biết rằng chúng tôi không đơn độc.”
“Dĩ nhiên là hai người cần đến điều này,” Penny nói và bất ngờ quay sang Beth. “Giờ thì hai vị khách mới của chúng ta, Pat và Beth, đang bắt đầu con đường mà vài người trong số chúng ta đã đi trong một thời gian dài. Tất cả các anh chị đã đọc về Ben Cappadora, cậu con trai nhỏ của Beth. Chúng tôi tin chắc rằng con trai của chị sẽ trở về, Beth ạ, nhưng gia đình chị ắt hẳn đang phải trải qua những đau buồn. Chị có muốn nói về chuyện đó không?”
“Không,” Beth đáp, và rồi, chính cô cũng ngạc nhiên, cô hỏi: “Làm thế nào chị vượt qua được chứ?”
Penny có vẻ bối rối. “Làm thế nào tôi...?”
“Được như ngày nay. Thật là khoan dung. Thật là tử tế. Chị đã từng như thế à? Ý tôi là trước đây ấy?”
Penny bật cười. “Chắc chắn là tôi không được như thế này rồi. Mấy tháng đầu sau khi Casey bị chồng cũ tôi bắn, điều duy nhất tôi cho phép mình cảm nhận là thịnh nộ. Tôi giận chính tôi vì đã ngu ngốc mà tin và giao con cho chồng cũ, vì tôi biết hắn luôn nghiện ngập. Tôi nổi cơn thịnh nộ với chính hắn vì đã làm như thế. Tôi không đến nhà thờ nữa, và tôi bắt đầu ăn bất cứ thứ gì trong tầm tay tôi...” Cô chỉ vào chiếc áo dài đến ngang đùi màu đỏ tươi trên người. “Kết quả là bây giờ tôi như thế này đây. Nếu các anh chị bảo tôi rằng mọi chuyện rồi sẽ nguôi ngoai thì tôi sẽ cho rằng các anh chị là người ngu, các anh chị không thể hiểu được những gì tôi đã trải qua đâu...”
“Vậy thì làm thế nào?” Beth hỏi và thấy khâm phục Penny, cô muốn cấy được một chút thanh thản của Penny vào bên dưới quả tim chính mình.
“Beth ạ, những gì tôi làm là... cuối cùng tôi buộc mình... làm những điều như ngắm hình của Casey sau khi cháu mất,” Penny nói với vẻ ngập ngừng Beth đã nghe suốt cả buổi tối. “Casey bị bắn thẳng vào sau đầu. Và tôi buộc mình phải nghĩ Thằng bé cảm thấy thế nào nhỉ? Nó biết gì?. Và câu trả lời là: nó không biết gì hết. Nó đang nói chuyện với tôi, và rồi nó biến mất, chỉ đơn giản là biến mất. Khi tôi nhìn sự việc dưới nhãn quan của Casey, tôi phải nghĩ rằng nó đã chết, nhưng là một cái chết thật hạnh phúc, thật nhanh và không đau đớn, và người đau đớn nhất lại không phải là nó. Mà là tôi. Và chồng... chồng cũ của tôi. Vì Wisconcin không có luật tử hình nên hắn phải sống mãi với nỗi đau này, thậm chí khi giờ đây hắn không còn nghiện ngập nữa.”
“Và chị thấy tội cho hắn? Hắn có được giảm án vì bị điên không?” Beth hỏi.
“Tôi nghĩ là không. Tôi không tội nghiệp hắn. Dù sao tôi thật sự thấy rằng sự hối tiếc và đau buồn của hắn cũng chính là một kiểu công lý được thực thi.”
Beth ngước lên. Pat đã đứng dậy. Suốt buổi tối anh đã không nói thêm lời nào ngoại trừ nói tên mình ra, nhưng giờ thì anh nói: “Tôi rất lấy làm tiếc. Tôi không thể chịu nổi nữa.”
“Tôi hiểu. Hãy trở lại nhé,” Penny đáp. “Bất cứ lúc nào. Bất cứ lúc nào các bạn muốn. Hay gọi điện cho tôi cũng được.”
“Tôi sẽ làm thế,” Beth đáp.
Bên ngoài, ánh sáng cuối cùng của bầu trời thu trong veo đã tắt. Beth khó nhọc hít mùi hoa hồng dại trong khoảnh đất nhỏ của nhà thờ, hít mùi khói xe buýt đang chạy ngược lên phố Park.
Laurie hỏi Pat: “Anh ổn chứ?”
Anh đáp: “Tôi chỉ có cảm giác như tôi không thể... Tôi chưa bao giờ tưởng tượng được rằng có nhiều đau khổ đến thế trên cõi đời này.”
Ồ, Pat, Beth nghĩ, chỉ trong cõi của anh mới chưa bao giờ có.
Nhưng đêm đó, cô không thể quên được gương mặt thánh thiện ngơ ngơ của Penny Odin. Penny có ngủ không nhỉ? Beth bật dậy sang phòng hai cậu con trai rồi đứng nhìn Vincent đang nằm cuộn mình trên giường Ben. Mỗi đứa có một kệ trên đầu giường để đựng sách và đồ chơi; đứa nào cũng có một chỗ riêng trong tủ đựng quần áo có ghi tên mình bằng những mẫu tự cắt dán.
Laurie đã làm rất tốt. Cô thận trọng giấu hết mọi thứ của Ben đi. Chỉ còn vài vật được treo kín đáo tận trong góc tủ của Ben. Đồ chơi của nó phần lớn đã được cất đi (được bỏ vào hộp và đút xuống dưới gầm, Beth biết chứ, không thấy nhưng vẫn không quên được). Đã bớt được nhiều những dấu vết của Ben, như một sự củng cố, nhưng cũng không phải là một sự gột sạch hoàn toàn. Cảm ơn bạn Laurie thân mến của mình nhé, Beth vừa nhủ thầm vừa quỳ xuống bên cạnh Vincent. Cảm ơn vì đã giúp mình có thể vào lại trong này.
Trước đây Vincent thường ngủ rất mê. Cô chưa từng thấy nó tỉnh dậy dễ dàng bao giờ cả; nó giống một võ sĩ quyền Anh bị hạ đo ván vậy – thức giấc mà không biết mình đang trong cõi u minh nào, mắt hoa lên, trụi lủi như chú gà con mới nở. Nhưng giờ nó đang lăn qua lăn lại, người giật giật đầy mồ hôi như một vận động viên chạy đua. Cô nghĩ có lẽ nó bị ốm. Từ khi về lại nhà nó đã hỏi cô nhiều câu rất lạ.
“Ở Madison có bao nhiêu người xấu hả mẹ?”, có lần Vincent hỏi. Nó không phải típ người dễ bị lừa.
Cô nói đại cho qua chuyện: “Có ba mươi người.”
“Mẹ chắc không?”
“Chắc.”
“Ai nói vậy?”
“Thám tử Bliss. Cô ấy đếm rồi.”
“Ở Los Angeles thì có bao nhiêu?”, nó hỏi tiếp.
Beth thở dài: “Có hai trăm.”
Những gì nó muốn hỏi là Con có phải là người kế tiếp không?. Beth biết điều đó. Cô biết nói gì với nó đây? Trước đôi mắt dọ hỏi của nó cô thấy mình có tội và bực bội khó chịu. Chẳng phải cô đã để cho mọi chuyện trở nên tệ hại đó sao?
Một kỷ niệm, một kỷ niệm sắc nét vụt qua trong trí cô. Ngay trước khi Ben ra đời, Vincent đã nhìn chăm chú vào bụng cô rồi nói: “Mẹ sẽ thích em bé. Nhưng sẽ không giống nhau đâu. Mẹ sẽ không thích em bé nhiều như mẹ thích con đâu.” Và Beth đã lo sợ chính điều đó.
Thật vậy, Ben đã đóng trọn vai trò đứa con thứ hai, không đòi hỏi và luôn hài lòng, đứa con mà cô biết mình sẽ không cần phải lo lắng cho nó, không cần phải lo lắng... và cô đã không lo.
Cô đã không lo lắng chút nào.
Giờ thì cô đang phải lo rồi. Về Vincent. Nhưng cái hệ thống đánh hơi của người mẹ cùng với niềm tin của cô về tài đánh hơi đó đã biến mất rồi. Cô không thể làm gì cho Vincent được. Cúi người thấp xuống, cô thì thầm: “Mẹ yêu con.” Các nghiên cứu cho thấy rằng thậm chí trong giấc ngủ sâu con người vẫn có thể nghe được, thậm chí có thể học được các ngôn ngữ đến từ trong tiềm thức. Có lẽ sẽ có kết quả đấy, và nó sẽ thức dậy với cảm giác được thương yêu, thậm chí nó không biết chắc rằng ai yêu nó. Hoặc cô có còn hiện diện bên cạnh nó không.