← Quay lại trang sách

Chương 12 VINCENT

Tháng Mười, 1987

Mẹ nó bảo thậm chí mẹ cũng không biết cái ô vuông xây trong tường ở cầu thang để làm gì nữa. Mẹ nói ngày xưa, khi bố mẹ nó còn nhỏ, người ta thích để điện thoại trong khắp các góc nhà. Mẹ nói: “Cái nhà này có lẽ đã được xây từ thập niên sáu mươi. Có thể cái ô đó dùng để đựng điện thoại.”

“Tại sao người ta lại cần một cái điện thoại ở giữa cầu thang hả mẹ?” Nó hăm hở hỏi. Nhưng ngay lúc đó mẹ nó nhìn sững vào cái gì đó làm Vincent phải quay đầu lại xem mẹ đang nhìn ai sau lưng nó. Nhưng chẳng có ai cả.

Bà nội Rosie bảo Vincent rằng bà nghĩ những người đầu tiên sở hữu ngôi nhà này là những người ngoan đạo thật sự. Đêm trước ngày Giáng sinh, khi đi lên lầu, thấy Vincent núp ở cái ô vuông đó, bà đã nói: “Người ta thường để tượng Đức Mẹ Đồng Trinh hay thánh An Tôn trong đó. Nó không phải chỗ dành cho mấy đứa bé muốn thức cả đêm khiến ông già Noel ghét nên sẽ bỏ qua ngôi nhà này luôn mà không để quà gì lại hết.” Rồi bà đưa nó vào giường.

Bé Kerry, giờ đã biết nói, gọi đó là “ngôi nhà em bé” của nó. Nó bỏ vào đó mấy con búp bê, mấy cái bánh và chai xirô giả trông hệt như thật, còn Vincent giả làm khách hàng mua bánh của em. Hoặc nó có thể ngồi đó, xắn quần cao lên, như Vincent tưởng tượng mấy con chuột sẽ cảm thấy ra sao khi ở trong hang của chúng, ngồi nhìn xuống góc bếp – nơi có bồn rửa chén và cái máy pha cà phê tự động. Và nếu máy rửa chén không hoạt động, nó có thể nghe thấy hết mọi chuyện được nói dưới đó.

Cũng vì thế mà Vincent nghe thấy mẹ nó đang cố giết bố nó như thế nào.

Mới đầu, bố nó đặt tay lên ngực mẹ, ôm lấy một bầu vú của mẹ, bố nó hay làm như thế lắm, và Vincent nghĩ bố làm thế để mẹ thấy bố cũng dễ thương chứ chẳng chơi – giống như ông nội hay xoa đầu nó làm tóc nó rối tung rối mù lên ấy mà. Vincent không muốn ai làm bù xù tóc nó cả – nó muốn tóc mình luôn theo nếp, thật đẹp và mềm mại – nhưng nó biết rằng, với ông nội, làm như thế cũng giống như ông ôm nó một cái vậy. Vì thế nó chịu đựng được. Chuyện cái vú cũng thế. Nhưng mẹ nó lại không thích, y hệt như Vincent không thích tóc nó bị bù xù ấy. Mẹ hất tay bố ra. Rồi bố hôn mẹ. Lúc đó thì mẹ mỉm cười và nhìn xuống bồn rửa bát như thể mẹ đang cố tìm cặp kính sát tròng ở dưới đó.

Bố Vincent nói: “Bethie, cưng à, mình phải nói chuyện thôi.”

“Em còn phải rửa hình. Phải gọi bốn cuộc điện thoại. Lại phải chuẩn bị cho Vincent đi học nữa.”

“Nó chưa dậy đâu.”

Ha ha, bố ơi, Vincent nhủ thầm.

“Chắc nó dậy rồi đó.”

Bố Vincent thở dài. Cố ý thở dài đánh thượt một cái để mẹ nó phải quay lại và nói “Thôi được, anh muốn gì chứ?”. Nhưng mẹ nó không quay lại; mẹ cứ làm làm cái gì đó ở bồn rửa bát nên cuối cùng bố nó phải nói tiếp:

“Bố anh muốn mình trả lời, Beth à. Bố muốn anh nghĩ về chuyện đó thật nghiêm túc, và quyết định trong năm nay.”

“Vậy thì cứ quyết định ngay trong năm nay đi, Pat,” mẹ nói.

“Xét cho cùng thì đây là công việc anh đặt hết tâm trí vào để...”

“Pat, em nghe đến nhàm tai rồi.”

“Anh đã phấn đấu cật lực ở nhà hàng Cappadora trong mấy năm nay và trước đó là xếp xà lách khoai tây vào hộp ở nhà hàng của bố.”

“Pat, mình nói chuyện này nhiều lần rồi mà.” Coi chừng đó, bố, Vincent nghĩ. Đó là cái giọng nó không muốn nghe đâu, vì tiếp theo sẽ là mấy ngón tay mẹ như mấy cái càng tôm hùm quặp lấy cánh tay nó. Nhưng bố cũng khá thông minh. Bố đứng dậy vòng tay ôm mẹ; bố hôn mẹ. Mẹ để mặc cho bố hôn.

“Hôn, hôn, hôn,” bố nói nho nhỏ với cái giọng dễ thương như thể đang nói chuyện với con nít. “Mình không bao giờ thụt nữa à?”

Trước đây Vincent đã nghe bố nói cái từ đó rồi, nhưng giọng bố không dễ thương như lúc này. Nó chồm tới trước; họ không nhìn lên nên họ không thể thấy nó.

Mẹ nói: “Pat này, em phải đánh thức em bé....” – Kerry không còn là em bé nữa, nó sắp được hai tuổi rồi mà mọi người cứ gọi nó là em bé.

“Mình còn dư thì giờ mà,” bố nói.

“Được rồi. Anh lên lầu lấy cho em cái màng tránh thai với tuýp thuốc bôi trơn đi, rồi... để coi nào, mình có tám phút trước khi em làm thức ăn cho Vincent để nó lên xe buýt... muốn làm ngay tại đây không? Và vừa làm em vừa nướng bánh mì cho nó nhé?”

“Đừng nói khó nghe như thế chứ, Beth. Anh đâu có ấp trên người em suốt ngày đâu. Cả tháng em mới cho anh yêu em một lần mà.”

“Còn những gì khó nghe cần phải nói thì anh nói luôn đi....”

“Mà anh không hiểu sao em lại cần thuốc bôi trơn với màng tránh thai mỗi khi mình gần nhau?”

“Vì em không muốn có thai mỗi khi em buộc phải làm chuyện ấy với anh.”

“Beth, đó lại là chuyện khác....”

Mẹ lặng thinh. Tuy nhiên, bố không hiểu; bố cứ nói tiếp: “Bethie, chuyện đã qua hơn một năm rồi. Cả hai ta đều biết rằng Ben...”

“Hai chuyện đó thì có liên quan gì với nhau?”

“Lạy Chúa, Beth. Em không thấy là anh đau khổ sao?” Bố Vincent bắt đầu đi ra hành lang; Vincent co gọn người lại trong cái ô vuông. “Ý anh là thế này, Bethie, anh là một gã có ba đứa con. Mọi người đều nghĩ anh dở hơi, em biết không? Ba đứa con ư? Nhưng anh rất đau khổ khi nghĩ đến ngôi nhà này trước đây rộn ràng tiếng cười tiếng nói của chúng. Anh muốn được chạy tới chạy lui lăng xăng vào bữa ăn trưa....”

Mẹ Vincent chạy qua hành lang nhanh đến nỗi nó không thấy mẹ. Mẹ mở cửa trước. Mẹ hay làm như thế lắm, chỉ mở cửa trước và để không khí tràn vào, thậm chí vào một ngày rất lạnh. Chỉ đứng đó và thở hắt ra.

“Pat, em không muốn có thêm đứa con nào nữa hết,” Beth nói.

“Em nói sẽ suy nghĩ lại mà.”

“Em đã suy nghĩ lại. Và mỗi khi em nghĩ đến chuyện có thêm một đứa nữa trong bụng, mà lại có thể là con trai....” Giọng mẹ buồn cười cứ như mẹ đang bị nghẹn bánh mì ấy. “Pat, không thay đổi được gì đâu. Anh không hiểu à? Làm như thế để anh lại có ba đứa con à?”

“Không chỉ thế. Anh đâu có ngốc.”

“Không, em muốn nói nó chỉ có ý nghĩa về con số thôi. Sẽ là một đứa con để bù lại. Như một bộ phận thay thế. Như mua thêm một cái đồ đựng xốt để khỏi làm hỏng nguyên một bộ chén đĩa.”

“Em đáng ghét quá,” bố Vincent nói.

“Em biết em đáng ghét lắm. Nhưng chắc chắn là em sẽ không có con và em sẽ không chuyển đến Chicago để anh có thể mở nhà hàng chung với bố anh. Nếu anh muốn có con và một nhà hàng ở Chicago thì anh đi lấy vợ khác đi.”

“Anh muốn mình lại là một gia đình như trước đây, có một cuộc sống bình thường như cũ, như thế là sai à?”

“Pat. Không thể có một cuộc sống bình thường như cũ được.”

Vincent nghe tiếng cửa đóng sầm lại và nó có cảm giác đó không phải do mẹ nó làm.

“Nếu chúng ta cố thì sẽ có mà....”

“Pat,” mẹ nói thật dễ thương – với cái giọng mẹ thường năn nỉ nó đừng mở cửa khi mẹ đang rửa hình và đèn đỏ đang sáng. “Anh có biết đối với em như thế nghĩa là gì không?”

Bố Vincent lặng thinh.

“Anh biết không?” Không trả lời.

“Giống như em luôn có một tảng đá hay tảng tuyết lớn đè lên mình, và nếu em nhúc nhích, nếu em đổi vị trí dù chỉ một chút thôi thì tuyết sẽ trượt xuống đè lên người em và vùi chôn em....”

“Ôi, Beth...”

“Không, sự thật là vậy đó. Em không dám nghĩ về thằng bé trong trọn một phút. Em cũng không dám nghĩ đến cuộc họp mặt ấy. Chỉ nghĩ đến việc phải lái xe đi qua cái khách sạn Tremont đó mỗi ngày trong đời....”

“Mình đâu bị buộc phải làm như thế.”

“Pat, em nghe anh và Tree nói chuyện. Anh và Monica. Chúng ta sẽ lại có mặt bên nhau. Trong khu nhà xưa. Trong khi người lớn chơi bài xì phé thì lũ con núp dưới bàn. Y như ngày xưa. Anh tưởng em không biết là Tree ghét em vì đã giữ anh ở đây, xa cha mẹ đang rất cần anh đến nỗi đang phải chịu nhiều buồn sầu à? Anh không nghĩ là em biết bố em nghĩ em nên về nhà, nơi Bick có thể giúp em vì em nhếch nhác bẩn thỉu quá à.”

“Mọi người đều ghét em, phải không Beth? Không ai hiểu vì sao...”

“Nhưng Pat à, nếu em chỉ nhúc nhích một chút xíu thôi thì khối tuyết lở đó sẽ đổ ập lên người em và anh sẽ phải tự mình nuôi các con đó.”

“Thực tế là anh đã đảm đương việc đó rồi.”

“Thôi được, thôi được. Em công nhận chuyện này. Pat luôn luôn là người tốt mà. Pat luôn là chỗ dựa vững chắc. Là người đã giúp mụ đàn bà điên rồ tội nghiệp và mấy đứa trẻ đó đứng vững... như câu chuyện trong tờ People đó, Pat. Anh không thích thế à? ‘Hai tay anh ấy vững chãi nâng đỡ vợ và đứa con trai còn lại của mình.’ Anh đúng là anh hùng, Pat ạ.”

“Còn em đúng là người tử vì đạo, Beth ạ.”

“Em phải lên đánh thức Vincent dậy đây,” Vincent quỳ lên hai đầu gối, sắp sửa chạy lên lầu chui vào giường Ben nếu mẹ đi lên. “Nhưng Pat này, anh hãy biết rằng anh không thể bắt em làm theo ý anh được đâu. Không được đâu. Anh không thể đe dọa em như khi em còn học đại học vì em sẽ mặc xác anh nếu anh bỏ em, hay... hay... hay nếu anh có ngủ với hết tất cả mấy cô bán pizza ở Madison này.”

“Em nói gì thế?”

“Em muốn nói là anh chả là cái đinh gì với em cả, Pat. Điều tồi tệ nhất đã xảy ra rồi.”

“Anh thích cái kiểu nói ‘nó đã xảy ra rồi’ của em lắm. Cứ như nó là một cơn bão hay gì gì đó.”

Hành lang lặng như tờ đến nỗi Vincent có thể nghe tiếng miệng Kerry há ra kêu đánh póp. Chút xíu nữa thôi con bé sẽ đi lạch bạch xuống nhà, như thế thì tốt quá, vì Vincent đói rồi, và chúng sẽ cãi nhau chí chóe.... Ánh mặt trời như đang cuộn đám bụi xoay tròn rồi bay lên, xoay tròn rồi bay lên. Vincent đưa tay ra hứng bụi rơi vào lòng bàn tay. Họ vẫn chưa kết thúc. Nó cứ ước những gì nó muốn, nhưng họ vẫn chưa kết thúc, và nó có thể sẽ không được ăn sáng.

“Ý anh là gì?”

“Chẳng có ý gì cả,” bố Vincent đáp. Đó là cái giọng nói dối của bố khi bố bảo “Bố không mệt đâu,” nên Vincent biết có một điều gì ghê gớm sắp xảy ra. “Anh chẳng có ý gì hết.”

“Có. Anh muốn nói là vụ đó không tự xảy ra.”

“Nó tự xảy ra mà. Bỏ qua chuyện đó đi, Beth.”

“Không, anh giữ kín điều đó lâu rồi, và anh muốn em biết rằng anh trách em. Anh có nhận ra rằng em biết anh trách em vì nếu là anh thì Ben đã không bị lạc mất như thế không, Pat? Anh chưa từng là bậc cha mẹ tồi tệ đáng khinh chỉ lo cho bản thân mình như em...”

“Anh chưa từng nói như thế bao giờ, Beth.”

“Nói thế ư? Anh không cần phải nói ra. Chuyện đó rõ ràng như ban ngày mà, Pat. Cứ nhìn miệng anh bĩu ra thì biết, Pat. Anh ghét cay ghét đắng em và anh trách em vì em đã làm mất con anh.”

Vincent thấy bố chạy như bay ra khỏi phòng khách như thể bố sắp chộp lấy mẹ rồi quật mẹ xuống.

“Được lắm, Beth! Anh trách em à? Đương nhiên là anh có trách em! Candy và Bender trách em nữa. Ellen cũng thế. Tất cả mọi người đều nghĩ nếu em bỏ ra một phút để ngó ngàng đến con cái thì chuyện đó đâu xảy ra, em có biết thế không? Chỉ vì họ không nói với em à? Còn phải đợi đến khi một bức tường đổ ập xuống đầu em nữa à? Đúng thế, từ khi sinh ra cho đến nay em chỉ toàn gặp may mắn, Beth ạ. Em cứ làm mọi chuyện nửa vời rồi bỏ đi vì đã có anh ở đó để dọn dẹp cho em mà!”

“Anh là đồ bần tiện. Đồ tự cao tự đại...,” mẹ Vincent nói.

“Anh không tự cao tự đại, Beth. Anh chỉ nói đúng sự thật thôi! Trẻ con không biến mất như khói thuốc, Beth.

Chúng không ‘bị mất’. Người lớn đánh mất chúng.”

“Tôi ghét anh, Pat.”

Vincent nhảy lên rồi chạy ra hành lang vào phòng Kerry. Đầu nó nóng bừng bừng như đang lên cơn sốt. Nó chạy nhanh tới cũi của em bé, mở cũi ra, rồi đưa tay lên bịt chặt lấy mũi và cái miệng xinh xinh của em. Nó không muốn giết em... nó yêu Kerry. Giờ thì em nó vùng vẫy, cố đẩy tay nó ra, cố hít thở, cặp mắt xám to của em hoảng loạn, đầm đìa nước mắt... Vincent không biết nó đã có thể thả tay ra chưa, nhưng cuối cùng, Kerry cũng lắc được đầu nó ra, lắp bắp đôi môi đang dần tím tái và bắt đầu hét lên, không phải tiếng khóc của một đứa bé (Vincent biết kiểu khóc thút thít đó; nó nghe cả triệu lần rồi, lần đầu tiên là của Ben) nhưng là một tiếng thét như khi xem phim kinh dị, như tiếng một cô gái... và mẹ Vincent đã lên đến trên lầu cứ y như mẹ có cánh vậy, mẹ xô nó sang một bên rồi bế Kerry ra khỏi cũi (môi Kerry bắt đầu hồng trở lại), và mẹ thét lên: “Con đã làm gì em? Vincent, trả lời mẹ! Con đã làm gì Kerry?”

Bố nó đã đứng ngay sau lưng mẹ và giằng Kerry ra khỏi tay mẹ, bố nói khi em Kerry vẫn đang trong tay họ: “Beth, con không sao đâu... em còn nhớ chứ, bác sĩ nói nếu khóc được thì tức là không sao.... Con bé chỉ không thở được khoảng một phút thôi mà...”

Sau đó, mẹ vừa bế Kerry vừa khóc nức nở, còn bố cố ôm lấy mẹ nhưng mẹ đẩy bố ra, thậm chí còn mạnh hơn khi mẹ xô nó. Bố nắm hai cánh tay Vincent rồi kéo nó ra cửa: “Mặc áo gió vào, con. Mình đi.”

“Nó còn phải đi học!” mẹ hét lên.

“Hôm nay thì không!” bố la lên đáp lại.

“Anh đưa nó đi đâu chứ?”

“Chỗ nào an toàn, Beth! Tránh xa cô! Chẳng chóng thì chầy cô sẽ giết chết tôi, nhưng cô không được giết nó!” Và Vincent, với cái áo gió đang xỏ được có một tay, co chân lên khi bố bế nó đi xuống cầu thang vào nhà để xe.

“Bố, chờ con một chút. Con phải lấy thuốc bổ nữa.”

“Bố sẽ chờ ngoài xe,” bố nó vừa nói vừa mò tìm thuốc lá trong túi áo sơmi.

Vincent chạy ngược vào nhà – tốt rồi, mẹ vẫn còn trong phòng Kerry; nó nghe tiếng mẹ vừa ru em vừa khóc thút thít, tiếng sàn gỗ kêu cót két khi mẹ bế Kerry đi tới đi lui. Vincent đi thật nhanh, trước tiên là vào phòng làm việc của bố và vặn cho đồng hồ báo thức lúc mười một giờ khuya. Rồi nó vào phòng ngủ của bố mẹ (nó phải đi qua cửa phòng Kerry nhưng cửa phòng đóng im ỉm, may quá) rồi đổi giờ báo thức từ sáu giờ rưỡi sáng thành bốn rưỡi sáng. Và rồi, nó không thể nghĩ tiếp, được... đúng rồi, còn cái nút hẹn giờ cho bếp lò nữa. Nó chỉ cao vừa đủ để chạm được vào đó. Nó để chuông báo lúc năm giờ sáng. Có thể còn mấy cái đồng hồ báo thức khác trong nhà nữa, nhưng gấp quá nên nó chỉ nghĩ ra được chừng đó thôi. Chắc chắn mẹ nó sẽ nhận thấy. Nó đã đứng sát bên mặt mẹ khi mẹ ngủ, thậm chí nó còn đưa tay ra chạm vào mí mắt mẹ nữa mà mẹ không thức dậy. Nó đã gọi mẹ cả chục lần khi nó mơ những giấc mơ trong đó nó bỏ chạy mà mẹ có dậy đâu – tuy vậy thỉnh thoảng bố nó cũng thức giấc nếu nó gọi bố hai ba tiếng liên tiếp. Mẹ nó sẽ nhận thấy chuyện này, còn nó thì không quan tâm chuyện tối nay hai bố con nó có về nhà không; nó thoáng thấy rằng họ sẽ không về vì bố nó đã đem theo cái túi nhỏ đựng bàn chải đánh răng và dao cạo râu của bố. Nó cũng không quan tâm chuyện mấy cái đồng hồ báo thức đó sẽ đánh thức nó dậy. Hay thậm chí đến Kerry nữa, dù đây không phải lỗi của em nó.

Vincent lấy một viên thuốc bổ màu cam từ cái lọ phía trên bồn rửa bát rồi nhảy vào trong xe ngồi bên cạnh bố. “Thắt dây an toàn,” bố vừa chăm chú nhìn tới trước vừa nói; Vincent cài dây lại rồi ngả lưng ra sau. Họ lái xe ra xa lộ, đi qua đường rẽ vào nhà hàng Cappadora trên phố Park, qua con đường dẫn đến nhà bác Rob Maltese – bạn thân nhất của bố. Qua tiệm rửa xe. Đến ngã rẽ Janesville – dấu hiệu mà có lần bố nói với Vincent rằng nó nghĩa là “Mình đang đi thăm bà nội đây!”

“Mình đi Chicago hả bố?” Vincent hỏi.

“Con không muốn đến thăm bà nội Rosie à?”

“Hôm nay là ngày đi học mà. Đâu phải Chủ Nhật hay thậm chí thứ Sáu.”

“Đôi khi chúng ta cũng có thể đi thăm bà nội Rosie vào giữa tuần, như mùa hè đó.”

“Nhưng sao vậy bố?”

“Chỉ để gặp bà thôi. Con chưa bao giờ cảm thấy muốn gặp mẹ của con à? Bố chỉ muốn gặp mẹ của bố,” bố nó nói bằng giọng nhỏ nhẹ làm Vincent còn sợ hơn cả khi bố nói cái từ thụt đó hay cả khi bố la hét trong hành lang nữa. Pat châm thuốc rồi hạ kính xe xuống. “Đừng nói với mẹ là bố hút thuốc trong xe nhé,” bố nói hệt như những lần trước.

“Con không nói đâu.”

“Tốt lắm, anh bạn.”

Vincent dựa người vào chỗ để tay; bố đang hát theo ban nhạc Rolling Stones trên radio, hai cổ tay bố đập đập như đánh trống; Vincent nghĩ nó sẽ ngủ được nếu nó đừng sợ giấc mơ bỏ chạy của nó, giấc mơ đó không đáng sợ bằng cái cách nó cứ theo đuổi sau lưng Vincent, đó mới là điều kinh khủng nhất, còn kinh khủng hơn cả con quái vật nhũn nhũn trắng toát với cái miệng đỏ lòm Vincent tình cờ thấy khi thức giấc lúc bố nó đang xem phim kinh dị Shock Theater lúc nửa đêm.

Còn kinh khủng hơn thế nữa, Vincent nghĩ; nó muốn nói với bố như vậy, nhưng mắt nó đã díp lại.

Dậy đi con,” có một giọng nói, giọng nói luôn nghe như muốn ho hay có đá trong đó. A, đúng là ông nội Angelo rồi. “Dậy đi, cái đầu dormi.” Từ đó có nghĩa là “buồn ngủ,” một phần của bài hát ông nội Angelo hay hát khi Ben còn nhỏ. Vincent lạnh toát mồ hôi, nhưng vẫn đưa tay lên cho ông nội Angelo nhấc nó ra khỏi xe qua khung cửa và bế nó ép vào bộ đồ len thô màu xanh của ông. Ông nội Angelo lúc nào cũng mặc đồ màu xanh, thậm chí vào sáng thứ Bảy khi ở nhà, hay ngay cả khi ông đi lấy củi bỏ vào lò sưởi hay xịt thuốc cho mấy cây cà chua. Bà nội Rosie nói mặc đồ xanh cả ngày làm ông nội giống như dân nhập cư vậy, nhưng ông nói với bà: “Rose à, doanh nhân là người có một cái xe lớn và một bộ đồ sạch sẽ. Không chỉ khi làm việc mới mặc mà là suốt ngày.” Ngoại trừ khi chơi đánh bài. Khi ông nội Angelo chơi bài với các bạn ông – ông Ross, ông Mario và ông Stuey – thì ông mới mặc cái áo phông bằng vải có sọc với hai dây đeo qua vai. Người ta có thể thấy mớ tóc bạc của ông chĩa ra trên hai sợi dây như lông vũ vậy. Nếu thấy Vincent, ông thường kéo nó tới đặt ngồi lên lòng ông, cọ cọ cái má thơm mùi xì gà vào má nó rồi đổ rượu vang đỏ từ ly ông ra ngón tay cho Vincent liếm láp. Ông hay hỏi nó: “Giờ thì, thưa ngài, cho tôi xin người chia bài nổi tiếng này một quân bài được không? Hay hai?” – và thậm chí khi Vincent đã đủ lớn để phân biệt được mấy con số đen hay đỏ có chỗ trống ở giữa – mà thường là nó lắc đầu vì ông nội nói với nó bài ông đen lắm, không tới được đâu; vậy là xui tận mạng rồi. Đôi khi, lúc trời nóng và lũ châu chấu ca inh ỏi, Vincent còn thiếp ngủ ngay dưới cái ghế bằng sắt trắng của ông nội Angelo đặt trên hiên nữa, tiếng đồng ca của lũ châu chấu, tiếng quật bài xuống bàn, tiếng chửi thề bằng tiếng Ý và cái mùi hăng hăng, ngọt ngọt của xì gà quấn lấy nó cho đến khi tất cả dường như hòa làm một. Và nó thường thức giấc, người đẫm đìa mồ hôi, khi bầu trời đã chuyển từ nắng nóng sang hoàng hôn, hay từ mát mẻ sang chói chang trên đầu y như lúc này vậy.

“Cục cưng bé bỏng của ông. Cậu bé giỏi giang của ông,” ông bế nó lên ngồi trên bậc thềm trước cửa dưới bóng mát của mái hiên nhà lớn màu xanh lá cây. Vincent chết mê chết mệt cái mái hiên này, cái mái hiên duy nhất của cả khu phố, và nó cũng rất thích cái hàng rào vuông vắn màu xanh nhạt trông như bằng nhựa nhưng lại thoang thoảng mùi giấm.

“Cháu yêu ông, ông ạ,” Vincent vừa nói vừa rúc vào người ông. Và ông cũng dụi đầu vào người nó. Nó cũng yêu ông ngoại Bill nữa, nhưng ông ngoại Bill của nó lúc nào cũng có vẻ căng thẳng khi ở bên nó. Ông ngoại thường hỏi nó: “Này, Vincent, cháu lấy vợ chưa vậy?” Như thể một đứa trẻ chín tuổi phải có vợ mà thậm chí không báo cho ông ngoại nó nữa. Ông nội Angelo thì hay cho nó ăn nui xào với nước xốt đỏ hay xốt trắng nếu nó bị đau bụng, cho uống rượu bằng thìa và ăn sôcôla Hershey lấy từ túi áo ông ra, lại còn để mặc tình cho nó hái nho và cà chua nữa chứ, mà chỉ cười váng lên khi nó đánh rơi một trái – cũng không phải cái giọng cười giả tạo của người lớn, vẫn cười cho dù trong bụng đang giận sôi lên. Ông thật sự không quan tâm đến những gì một đứa trẻ làm miễn là nó biết nói làm ơn và cảm ơn và không phải là một diavolo – Vincent không biết chính xác từ này nghĩa là gì nhưng nó biết đại khái là một gã xấu.

Họ đang đi qua nhà bếp để ra sân sau thì Vincent nghe bố nó nói: “... phải làm gì khác, mẹ à. Con chịu hết nổi rồi.” Patrick, tesoro mio, cưng này,” bà nội Rosie vừa nói vừa đưa tách cà phê cho bố. “Vợ con đang phải chịu nhiều khủng hoảng nên không được bình thường. Con phải cho nó thêm thời gian.”

“Con không còn thời gian nữa, mẹ!” Vincent sợ quá vì bố nó đang khóc. “Con muốn có một cuộc sống, mẹ, chứ không phải cái... nhà tù này trên phố Post mà Beth không bao giờ bước ra khỏi đó – cô ấy chỉ đi lên đi xuống cái phòng tối của cô ấy như một cái máy thôi.... Mẹ ơi, con muốn thoát ra khỏi cái mớ bòng bong này!”

Bà nội Rosie quay đầu lại thật nhanh rồi nói to, cốt cho bố nó nghe thấy nữa: “Vincenzo, carissimo, cháu ngoan! Bà nội đến ngay đây.”

Ông nội đưa Vincent ra ngoài, đặt nó ngồi xuống cái ghế sắt rồi mang cho nó một ly nước cam.

“Chờ chút, rồi mình sẽ có mì ăn. Nhưng chờ cho bố nói chuyện với bà nội xong đã nhé.”

“Bố đang khóc,” Vincent nói.

“Bố đang rất buồn, ’Cenzo à,” ông nội Angelo nói rồi nặng nề buông mình xuống cái ghế đối diện. Ông bắt đầu lật lật mấy băng cátxét trên ghế dài, bên cạnh cái máy cátxét lớn. “Mình nghe nhạc nhé?”

“Vì sao thế?”

“Vì nó làm cho ta lên tinh thần,” ông nội đáp.

“Không, bố cơ. Vì sao bố buồn?”

“Bố buồn vì em cháu đó. Bố nhớ Ben.”

“Và bố ghét mẹ cháu. Mẹ nói thế.”

Không đâu, Vincenzo, bố cháu yêu mẹ cháu mà. Bố yêu mẹ từ khi bố còn bé như cháu vậy. Mẹ là bạn tốt nhất của bố đó.”

“Cháu cứ tưởng bác Rob mới là bạn tốt nhất của bố chứ.”

“À, mẹ là bạn tốt nhất của bố và là tình yêu đích thật của bố. Chỉ... đây rồi!” ông nội đã tìm ra được cuộn băng. “Chỉ vì mẹ quá buồn khổ và bố cũng quá đau buồn nên bố mẹ quên đi mất tình yêu của mình.”

“Mẹ quên đi họp cho con ba lần. Thầy hiệu trưởng phải gọi điện cho mẹ. Và bố phải đi thay.”

“Đấy, cháu thấy chưa? Đây là giai đoạn cực kỳ khó khăn cho chúng ta. Cho cả ông nữa. Khi ông nghĩ tới Ben thì tim ông quặn thắt.” Ông vỗ vỗ lên đùi và Vincent leo lên ngồi trên đó. “Cháu có bao giờ buồn chưa, ’Cenzo?”

“Thỉnh thoảng ông ạ.”

“Khi nào?”

“Hôm nay này. Bố mẹ đánh nhau và họ... họ làm Kerry sợ. Nó thét lên.”

“Khi ông còn bé ông cũng hay buồn lắm. Ông buồn hoài vì ông nhớ bố ông. Ông cho cháu xem ảnh bố ông rồi đó, Vincent. Ông cố là một người to con... rất to con và là típ người ăn to nói lớn... và ông cố hát những bài hát về tình yêu của xứ Naples, bằng cái giọng rất thánh thiện như của thiên thần Titian, bố ông ấy. Cháu biết không, đó là lý do cháu có tên là Vincenzo, cháu được đặt theo tên ông cố đấy. Và bác Paul được đặt theo tên anh của mẹ cháu là Paulie.”

“Còn bố cháu thì sao?”

“Thì sao cái gì?”

“Bố được đặt theo tên ai không ạ?”

“Có,” ông nội Angelo nói. “Đây lại là một câu chuyện buồn khác. Khi bà nội sinh bố cháu thì ông đang trên đường đi bán mấy dụng cụ nấu ăn. Dạo đó ông bà chưa có cửa hàng. Ông đang đi bán xa không thể về nhà được; còn bà nội Rosie chỉ là một cô gái trẻ, sắp sinh con so. Bà y tá chăm sóc cho bà nội đến từ một đất nước khác, y như ông bà nội vậy – bà ấy đến từ Ireland. Và khi bà nội Rosie lo sợ, bà nội khóc đòi ông nội về thì bà y tá này – hình như tên là Bridget, mọi người đều có tên là Bridget hay sao ấy – cầu nguyện thánh Patrick cho bà nội được vững tâm để sinh ra một em bé ngoan. Và thánh Patrick đã chấp nhận lời cầu nguyện ấy. Vì thế, dù đây là một cái tên Ireland, nhưng là cái tên bà nội Rosie đặt cho bố cháu.”

“Ông ấy ở đâu?”

“Ai chứ? Bố cháu à?”

“Không. Bố của ông cơ, khi ông nhớ ông ấy.”

“Cụ chết rồi, Vincent. Cụ chết ngay khi xảy ra Thế Chiến Thứ Nhất. Cụ là đầu bếp – tất cả chúng ta, những người nhà Cappadora, đều nấu ăn, nhỉ? Nhưng có mấy gã vô lại đến tấn công trại, và ông cố của cháu bị bắn, và cụ chết ngay tại chỗ, ngay chỗ cụ đang đứng. Cụ cũng được chôn ở đó chứ không phải ở quê nhà. Ông chưa được thấy mộ cụ.” Ông nội Angelo nhìn đau đáu ra phía cây nho gần hàng rào sân sau. “Còn mẹ ông, bà phải dọn dẹp nhà cửa, mọi người lúc đó đều mệt mỏi và nghèo khổ. Bọn ông nhớ cụ lắm nhưng không được nhắc đến tên cụ vì sẽ khiến mẹ của ông thêm đau khổ. Và đó là lúc ông phát hiện ra nhạc kịch opera. Có một thầy giáo ở trường làng, thầy có máy cátxét; thầy thường bật băng lên rồi bảo tụi ông nhắm mắt lại tưởng tượng xem nơi họ đang hát như thế nào. Lúc ấy, đối với ông, mấy từ đó nghe buồn cười lắm, Vincenzo, vì chúng buồn lắm! Buồn đến nỗi ông nghĩ chúng quá vớ vẩn; ông chỉ là một cậu bé, chưa lớn bằng cháu bây giờ đâu. Trong bài La Bohème, ông ấy hát ‘Bàn tay bé nhỏ của em lạnh giá’ và ông nghĩ Vớ vẩn quá. Tuy nhiên – tuy nhiên, nhạc thì tuyệt lắm!... Chỉ có nhạc kịch của người Ý mới thật sự là nhạc kịch, Vincenzo. Cháu biết đó. Cũng giống như thức ăn vậy. Chúng ta phải lịch sự với tất cả những người khác và nói: ‘Ồ, vâng, vâng, thức ăn Mexico này ngon lắm,’ nhưng chúng ta biết rõ mà, đúng không?”

“Đúng. Chúng ta biết rất rõ.”

“Và vì thế, sau này, khi ông trưởng thành, và là một chiến sĩ thì ông sợ chết lắm. Lúc đó đang là Thế Chiến Thứ Hai, còn ông đã là một chiến sĩ Mỹ, một công dân Mỹ rồi, ông chiến đấu chống lại chính kiều bào của ông, và người Nhật – phần lớn đối với ông là người Nhật, trên các đảo ở Thái Bình Dương.” Vincent nép sát người vào ngực ông hơn, cố hình dung ông nội mập tròn, rám nắng, tóc bạc phơ lúc đó gầy gò như bố, cũng sợ hãi như bố. “Ông sợ đến nỗi ông đã phải mua cái máy cátxét này và mở nhạc lên nghe. Bản La Traviata. Không phải nhạc của người Đức, không phải thứ nhạc khủng khiếp của họ. Nhạc opera thật sự. Nó làm ông vui lên và hết sợ.”

“Sao nhạc buồn đến thế lại làm ông hết sợ?”

“Ông sẽ cho cháu thấy ngay đây,” và ông bật băng lên. Có giọng hát của một phụ nữ; cô ta hát khá lớn, nhưng vẫn có thể thấy cô đang nghẹn ngào sắp khóc. Từ ngữ tuôn ra lộn xộn, y hệt như mấy bài hát trong băng của nhà hàng Cappadora.

“Cô ấy nói gì thế, ông? Cô ấy nói tiếng gì vậy? Tiếng Ý hả?”

“Ừ, tiếng Ý, Vincent. Nghe đi đã.”

Nhưng Vincent hãnh diện lặp lại mấy từ tiếng Ý ít ỏi mà nó biết ngoài vài từ chửi thề và bambino (em bé): “Non parlo Italiano.” (“Tôi không biết tiếng Ý.”)

“Ông biết, cứ nghe đi đã. Rồi ông sẽ cho cháu biết cô ấy nói gì. Cô ấy là ca sĩ Mirella Freni; một ngôi sao ca nhạc vĩ đại. Giờ thì cô ấy đã già rồi, nhưng khi cuộn băng này được thu âm thì cô ấy còn trẻ lắm. Cô ấy đang nói với đứa con trai nhỏ của cô ấy: “Tu, tu piccolo iddio” – Chúa trời bé bỏng của tôi. Cô ấy yêu đứa con trai bé bỏng của mình lắm mà nó lại sắp sửa đi xa làm cô tan nát cõi lòng.”

“Tại sao nó lại chạy trốn chứ?”

“Nó không chạy trốn, Vincenzo,” ông nội nói. Vincent có thể ngửi thấy mùi nước xốt từ trong nhà và nó đói khủng khiếp, nhưng nó không muốn tỏ ra bất lịch sự với ông nội. Dù ông nội nói đúng về nhạc opera nhưng nó vẫn thấy hơi ngớ ngẩn khi gọi một đứa bé là “Chúa”.

“Tại sao cô ấy lại gọi nó là ‘Chúa’?”

“Vì cô ấy rất yêu nó đến nỗi nó giống... giống một vị thánh đối với cô ấy vậy. Bố mẹ thường yêu con cái theo kiểu đó mà. Đó cũng là cách ông bà nội yêu bố con. Và là cách bố yêu con và Kerry và Ben. Và mẹ con nữa.”

“Rồi nó đi đâu hả ông?”

“Ai?” Hình như ông nội muốn đứng lên để nhảy theo tiếng hát của người phụ nữ đó.

“Thằng bé đó đó.”

“Bố nó đưa nó sang Mỹ. Thấy chưa, mẹ nó là người Nhật. Người ta gọi cô ấy là Bà Butterfly. Đó là tên câu chuyện. Do Puccini viết. Ông bố là một kẻ đốn mạt. Ông ta lừa gạt người mẹ làm cô ấy tưởng mình là vợ hắn, nhưng hắn đã có vợ rồi. Rất malo, malo. Xấu xa quá. Và giờ thì cô ấy trao đứa bé cho hắn.”

“Tại sao lại đưa đứa bé cho hắn nếu hắn xấu xa thế?”

“Ông không biết, Vincenzo. Có thể vì cô ấy nghèo quá. Và cô ấy buồn vì người bố đứa bé không còn yêu cô ấy nữa nên cô ấy muốn chết. Và nếu cô ấy mất đứa con trai bé bỏng của mình thì cô ấy càng muốn chết.”

“Mẹ con không chết,” Vincent nói và tự nhiên thấy buồn nôn. Nó ôm ông nội Angelo chặt hơn.

“Không, không, dĩ nhiên là không rồi. Nếu mẹ con chết thì mẹ sẽ ở đâu khi Ben về nhà? Ở trên trời với các thiên thần à?” Ông hôn Vincent, cằm ông lởm chởm râu, thơm mùi nước hoa, mùi trái cây nồng nồng của mấy ngăn kéo và tủ quần áo. “Chúng ta cầu nguyện cho Ben mau trở về nhà. Và người mẹ này, cô ấy là người Nhật, cháu biết không, Vincent. Người Nhật điên lắm. Pazzi. Họ nghĩ rằng nếu ai đó làm điều gì xấu với ta, hay nếu ta làm hại ai thì ta phải chết. Thật là điên rồ, Vincent. Người bình thường như người Ý và thậm chí người Ireland như ông ngoại Bill sẽ đá đít thằng nào chơi xấu họ. Họ đứng dậy và họ có tenoots....”

“Tenoots là gì?”

“À không. Họ có coraggio, họ có lòng can đảm. Họ cố sửa đổi điều gì đó.”

“Ăn thôi!” giọng bà nội Rosie vọng từ trong nhà ra.

“Momento!” ông nội hét lên đáp lại. “Giờ thì nghe bài này nữa này, Vincent. Bài này cũng buồn lắm dù lẽ ra nó phải vui mới đúng. Đây là lý do vì sao nhạc opera lại tuyệt đến thế. Có cả một câu chuyện. Nếu cháu muốn, ông sẽ sang cuộn băng này để cháu về nhà nghe. Trong đoạn này – đây là bài hát nổi tiếng nhất có tên ‘Un bel di’.”

“Nghĩa là gì?”

Ông nội đánh vần ra cho nó; đánh vần ra nghe nó khác với như khi đọc lên. “Nghĩa là ‘Một ngày đẹp trời’. Cô ấy hát về những suy nghĩ của mình khi nghĩ đến lúc gã tệ bạc đó cùng đứa bé sắp sửa về lại với cô làm cô vui...”

Giọng cô ấy thật mượt mà và giai điệu cũng hay nữa. Nghe giai điệu thì biết ngay đó là nhạc Nhật, nhưng bài này hay hơn nhạc Nhật phổ thông nhiều, loại nhạc Vincent đã nghe ở trường, loại nhạc giống như sữa đã được gạn hết chất béo, như thể không có nhạc cụ nào đệm theo cả. Nó nằm dựa vào người ông nội, lắng nghe giọng hát thánh thiện của người phụ nữ đó, và cố để nỗi buồn của nó trôi theo.

Nhưng tất cả những gì nó có thể nghĩ đến chỉ là nó không còn đói nữa, và giọng của người mẹ kia khi cô ấy nói với đứa con trai bé bỏng chưa bị mất tích, nhưng sao nghe như thể thằng bé đã cách mẹ nó cả triệu dặm đường, xa đến nỗi mẹ không bao giờ có thể ôm nó được nữa.