← Quay lại trang sách

Chương 20 ---

Beth dùng kẹp treo mấy bức ảnh lên dây.

Thậm chí từ cái cửa mở của phòng tối, đứng cách xa chỉ hơn một mét thì nhiều bức trông rất giống như bản sao, hay là một chuỗi các ảnh trong đó màn trập của máy ảnh đã mở rồi đóng, mở rồi đóng, cùng một đối tượng ở cùng một vị trí. Nhưng khi đến gần, người ta có thể thấy mỗi góc chụp có hơi khác nhau, mỗi tấm thể hiện một thay đổi rất nhỏ trên gương mặt đẹp đẽ của cậu bé với cái cằm nhọn, cái quầng tàn nhang nhạt bên dưới mắt như của mấy chú gấu trúc. Những tấm còn lại, chỉ vài tấm thôi, chụp được toàn thân. Đôi chân nó dài – phần lớn sức mạnh của nó tập trung vào đó – và nổi cuồn cuộn bắp thịt nó có từ khi còn bé.

Thật vậy, vẻ cuồn cuộn cơ bắp nó đã có từ khi mới sinh.

Khi cô lên lầu thì Vincent đã vào lại phòng nó, còn Kerry, mắt đỏ ngầu, vừa xem phim hoạt họa xong suốt hai tiếng đồng hồ liền.

Beth tắt máy và Kerry chuẩn bị đi ngủ theo lệ thường.

Nhưng Beth kéo Kerry xuống đầu chiếc ghế dài nơi đã lõm xuống vì bị ngồi quá nhiều. Cô ôm Kerry và lặng yên cọ cọ cái má nham nhám của mình vào đôi má đầy lông tơ của nó rồi đong đưa con bé thật nhẹ, thật nhẹ. Kerry không phản đối nhưng Beth có thể thấy nó đang cẩn thận cựa quậy trong vòng tay mẹ để sửa lại tư thế – thường thì Beth không ôm nó âu yếm đến thế.

Nhưng bất kể điều gì xảy ra tiếp theo trong ngày hôm đó thì những gì Beth đã thấy cũng làm cô đủ can đảm, lần đầu tiên trong suốt chín năm ròng, cảm nhận cơ thể đang phát triển của đứa con gái út của mình. Ngón tay Kerry đầy mực viết bảng; nó có mùi trái cây và mùi xà bông rửa chén, và sâu bên dưới là một điều gì đó ấm áp hơn – sự ngây thơ. Beth ngước nhìn qua mái tóc bù xù của Kerry lên đỉnh mảng tuyết lở, cao vòi vọi chất đầy ký ức cả nguyên vẹn và sứt mẻ, chứa cuộn phim được quay chậm lại, trong đó có tiếc nuối, buốt đau và oán hận; những cảm xúc đó đang sẵn sàng đổ nhào xuống làm cô tê liệt.

Chẳng có gì nhúc nhích. Chẳng có tiếng ì ầm. Chẳng có hòn đá lạnh nào bật khỏi vị trí.

Beth đưa Kerry lên phòng rồi nghe con bé đọc Ngôi Nhà Nhỏ Trên Thảo Nguyên. Nó không phải là người đọc sách có năng khiếu nhưng nó là người cần cù với ý chí quyết tâm cao. “Con đang tiến bộ hằng ngày đó mẹ và bây giờ con đã chín tuổi rồi. Mười tám bạn trong lớp mới chỉ tám tuổi thôi.” Kerry thở dài làm Beth thắc mắc không biết con bé lấy đâu ra tự tin khi lớn lên trong một môi trường không được chăm sóc tốt như thế.

“Ngủ ngon nhé,” Beth chúc Kerry rồi tắt đèn ngủ nơi đầu giường nó.

“Mẹ không còn bệnh nữa, phải không mẹ?”

“Ừ, mẹ khỏe như vâm rồi, khỏe lắm rồi.”

Cô đi qua phòng Vincent rồi gõ nhẹ vào cửa. Cô nói: “Ngủ ngon nhé. Cảm ơn con đã lo cho Kerry.” Cô không nghe nó trả lời ngoại trừ tiếng nó càu nhàu nho nhỏ lẫn trong tiếng nhạc; giờ thì nó đang nghe nhạc cổ điển – Perlman đang chơi nhạc của Mozart. Beth không thò tay mở cửa. Cô biết cửa đã khóa.

Cô liếc nhìn đồng hồ. Đã hơn chín giờ tối. Một tiếng nữa Pat sẽ về tới.

Thường thì Beth sẽ dành tiếng đồng hồ cuối cùng này trong ngày, cái quãng nghỉ trước khi cô có thể trốn nằm đọc tiểu thuyết tiếng Anh với một ly nước lạnh và ba viên thuốc ngủ Trazodone. Người Anh hình như có ít con, mà nếu có đi nữa dường như họ cũng không chú ý đến chúng lắm. Một con chó xpanhơn, hay một quý ông vừa trở về từ Ấn Độ để gặp lại bà vợ hai má đỏ hồng tên Bea suốt ngày chăm sóc vườn tược mới là những điều làm tim họ thổn thức. Những quyển sách hay nhất đối với Beth là những quyến tả ngày hôm sau khác ngày hôm trước, tả những miếng xănguych trong buổi trà chiều, tả các cha xứ đi thăm người ốm, hay tả người ta lái xe đi mua một bộ nút áo quần cũ hay những cuốn sách xưa của Thackery.

Nhưng tối nay cô không thể thả hồn mình vào con đường Montford hay một cửa tiệm ở đường Hastings Crossing được.

Cô ngồi trong phòng khách, dư vị thuốc lá cay sè vẫn còn nguyên trong miệng (cô đã hút ba điếu). Pat về trễ. Anh vừa đi vào nhà vừa ngân nga nho nhỏ, tay cầm một miếng bìa cứng quảng cáo cho những món đặc biệt vào mùa đông ở nhà hàng Đám Cưới Trong Khu Phố Cổ. Đã đến lúc phải trưng bảng quảng cáo cho mùa hè rồi, mà Kerry lại thích vẽ trên những bảng cũ đã được dùng qua.

Beth nghe thấy anh bỏ chùm chìa khóa xuống rồi bật bếp nấu nước pha trà theo thói quen hằng đêm của anh. Rồi cô thấy anh kiểm tra lại trong bóng tối của tầng một xem có thể mở cửa sổ và hút một điếu thuốc trước khi đi ngủ không.

Lúc đó cô mới gọi: “Pat.”

Anh giật mình thốt lên: “Bethie. Giờ này em còn thức làm gì vậy?”

Beth đi vào vùng ánh sáng nơi bếp rồi vòng tay ôm Pat. Anh sung sướng xoa xoa lưng cô. “Có chuyện gì thế em? Kerry ốm à?”

“Không,” cô muốn kéo dài khoảnh khắc bình yên này, khoảnh khắc cuối cùng của chiếc cầu tuyết cô đã xây đắp nên thật chắc chắn, để giờ đây cô cảm thấy nó như được xây bằng bê-tông và người ta có thể đi trên đó. Những giả thuyết mong manh của họ luôn làm họ đau đớn, nhưng ít ra thì họ đã quen với chúng rồi. Giờ thì chuyện gì sẽ xảy ra đây? Chuyện gì sẽ thay thế?

Beth nói: “Em phải cho anh thấy cái này.”

Pat cởi chiếc áo choàng thể thao ra rồi đi theo cô xuống cầu thang. Sực nhớ ra bóng đèn đã hỏng, cô nói: “Paddy, anh lấy cho em một bóng đèn mới đi, được không?” Anh quay bước ra khỏi phòng. Beth có thể thấy mấy bức ảnh dưới ánh sáng mờ hắt từ hành lang bên trên xuống – tóc cậu bé giờ đậm màu hơn, gần như nâu sẫm trong ánh nắng. Cô nghĩ chắc anh sẽ gọi đó là màu nâu.

Cậu bé này.

Sam.

Pat trở lại với cái bóng đèn rồi gỡ cái đã hỏng ra quăng nó vào thùng rác to bằng nhựa tổng hợp và thay bóng đèn trong tối. Đèn nhấp nháy rồi sáng hẳn. Pat nhìn mấy bức ảnh. Anh bước tới giật một tấm xuống, rồi hai tấm.

“Beth.”

“Có đúng không, là nó phải không?”

Họ ngồi xuống cạnh nhau trên chiếc ghế dài chạy dọc theo tường trong phòng tối của Beth. Pat gỡ một mớ ảnh xuống. Họ đi sang phòng làm việc của Beth. Cô ngồi xuống bàn, Pat ngồi trên chiếc ghế nệm dày.

“Sao lại có thể như thế được nhỉ?” giọng anh nghẹn ngào làm Beth tự hỏi không biết anh có nên uống thuốc trợ tim hay thuốc an thần không. Cô hầu như cảm nhận được nhịp tim anh đang đập loạn xạ.

“Nó đến gõ cửa nhà mình. Để cắt cỏ,” Beth nhẹ nhàng kể. “Em đã để nó cắt cỏ. Ngày mai nó lại đến vì mình đã hết xăng.”

Nước mắt Pat giàn giụa chảy xuống cằm, thấm đẫm ngực áo. Nếu không thấy những giọt nước mắt thì không ai nói Pat đang khóc; hơi thở anh vẫn bình thường, đều đặn.

“Thằng bé này sống ở đâu?”

“Nó nói nó sống cách đây hai khu phố.”

Pat hét lên: “Hai khu phố? Có hai khu phố thôi à? Họ mới dọn đến đây sao?”

“Pat à. Em không biết họ sống ở đây bao lâu rồi. Nhưng Kerry biết nó, mà nó học ở trường Sandburg đã bốn năm nay rồi.”

“Con bé...?”

“Không, Pat à, tạ ơn Chúa. Đáng lẽ em cũng không biết đâu trừ phi... à, cũng có thể em sẽ biết. Nhưng trông nó giống như trong hình được Morris tạo ra bằng kỹ thuật vi tính ấy. Em đã phải chụp màu để mình có thể thấy.... Tóc nó sẫm màu quá.... Pat này, cũng có thể là chỉ là một đứa trông giống nó thôi.”

“Ừ,” anh hít một hơi dài.

“Nên em muốn cho anh xem để hỏi ý kiến anh trước khi mình gọi cho Candy hay... hay bất cứ ai.”

“Gọi cho họ luôn bây giờ đi. Mình lên trên nhà gọi cho họ rồi đến ngôi nhà đó đi.”

“Không được đâu anh. Khuya lắm rồi. Chắc nó ngủ rồi.

Mà thậm chí mình còn không biết nó họ gì nữa mà.”

“Họ của nó? Chúa ơi, Beth, họ của nó ư?” Anh giật mạnh chiếc cà vạt ra rồi thò tay vào túi áo chỗ anh để thuốc lá trước khi anh bị giải phẫu, trước khi anh bắt đầu giấu chúng không cho Beth thấy. “Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra nếu họ... đang làm gì với nó lúc này?”

“Thấy nó và nghe nó nói thì không có vẻ như một đứa đang bị lạm dụng, Pat à. Mà nếu nó có bị đi chăng nữa thì cũng đã chín năm rồi....”

“Ôi, Bethie... ôi, Bethie ơi... có hai khu phố thôi. Khi nó thấy em, nó có...?”

“Không, Pat. Không có gì. Nó không tỏ vẻ gì cả. Pat, lúc đó nó mới có ba tuổi mà.”

“Và nó cũng không biết căn nhà này?”

“Không.”

“Cũng có thể nó biết anh đó.”

Thình lình Beth thấy giận sôi lên; cô muốn vả cho Pat một tát tai thật mạnh. Nhưng cô cố hít thở thật chậm và chờ đợi.

“Anh phải hút một điếu mới được, Bethie. Xin lỗi em.” Pat chộp lấy một tập ảnh.

Họ ngồi trên hàng hiên trong bóng tối. Mồ hôi tay của Pat đã làm bẩn mấy bức ảnh.

“Hai khu phố. Chỉ có hai khu phố mà anh lại chưa từng gặp nó,” Pat nói.

“Anh có đi loanh quanh trong khu này đâu. Còn em lại không đi bộ tới đâu cả. Chỉ đi đến trường và đến hiệu thuốc thôi. Có lẽ trong suốt bốn năm mình ở đây em chưa gặp cũng phải đến năm mươi đứa trẻ quanh đây ấy.”

Beth tựa vào người chồng. Hãy là chỗ dựa cho em nhé Patrick, cô nhủ thầm. Thậm chí em không muốn đối diện với ngày mai nữa, vì ngay cả nếu đó là Ben thì có lẽ chúng ta sẽ phải biết những điều khiến mình chẳng muốn sống nữa. Khi nhìn lại, chín năm trời trốn tránh êm ả của cô... gần như yên ổn. Không giống như nỗi sợ làm lạnh toát sống lưng hiện giờ.

Nhưng qua làn áo ướt đẫm mồ hôi của Pat, cô cảm nhận được sự yếu ớt của anh, tiếng thở khò khè nho nhỏ khi anh rít điếu thuốc.

Thôi được, Candy, cô nghĩ. Hãy là chỗ dựa của em nhé Candy.

“Anh nghĩ mình nên gọi cho Bliss ngay đi. Hay Bender. Hay Jimmy cũng được.”

“Tối nay thì chưa được đâu, Pat.”

Anh nài nỉ với giọng khẩn thiết. “Nếu ngày mai nó không còn ở đó nữa thì sao? Nếu có ai đó.... Và tại sao họ phải ở đây chứ? Nếu họ đem nó đi khỏi Dodge thì sao?”

“Họ sống ở đây.”

“Họ sống ở đây à?”

“Nó sẽ không đi đâu hết, Pat. Theo lời nó nói thì nó đang học lớp sáu.”

Và rồi bị thôi thúc bởi một ước muốn được chạm tay vào anh để ca ngợi thân thể anh vì đã gieo vào người cô hạt giống để trở thành Ben, một Ben hãy còn sống, Beth cầm lấy mấy tấm ảnh trong tay Pat rồi hôn anh, lưỡi cô rà sâu vào miệng anh. Anh hôn trả yếu ớt, đưa một tay ra ôm gọn bầu ngực cô, tay kia vân vê nụ hoa cô. Beth cởi ngược áo qua đầu quăng lên hàng hiên. Cô mở khóa dây nịt của Pat rồi nằm ngửa người ra sau, vặn vẹo người tuột cái quần jean đã rách tướp của mình, ôm hông anh và kéo anh vào trong cô. Cô lắc người nhè nhẹ để kích thích anh. Cô thì thầm: “Chiều em đi, Pat. Sẽ chẳng có gì đau đớn cả đâu.” Cuối cùng thì Pat cũng nắm lấy hai cánh tay cô rồi thúc vào trong người cô thật mạnh làm cô đau điếng người nhưng đồng thời cô cảm thấy mình được trở nên mới mẻ và giao hòa. Lúc ấy anh hỏi: “Mình có nên lấy....?”

“Em không dính bầu đâu, Pat. Quên chuyện đó đi. Cứ vào nữa, vào nữa, vào nữa....”

Pat dụi gương mặt nhòe nhoẹt nước mắt vào hai bầu vú cô rồi kết thúc, anh rùng mình rồi rên lên thật to.

Ngay lúc ấy họ nghe có tiếng người hàng xóm gọi con mèo về. Họ nằm yên trong bóng tối như hai pho tượng và Beth thấy Pat xìu xuống rồi xẹp dần trong người cô, cửa mình cô co thắt, co thắt đáp lại và rồi giãn ra.

“Anh sẽ gọi cho bố.” Pat nói khi họ nghe tiếng cửa nhà bên đóng sập lại.

“Đừng, anh. Để khi nào mình biết chắc chắn đã.”

“Ừ. Anh chỉ... Ngày mai anh không muốn đi làm.”

“Đúng đấy.”

Pat nhổm dậy vuốt lại quần áo mình, anh lấy hai ngón tay cái kéo cổ áo cho thẳng như thể anh sắp ra ngân hàng hay sắp đi làm. Anh cài dây nịt thật cẩn thận rồi nhặt mấy đồng xu rơi trên hiên nhà bỏ vào túi. Cuối cùng, anh nhặt mấy bức ảnh lên ôm vào ngực nói: “Anh đi vào đây.”

Beth không đáp. Cô mặc quần jean và áo sơ mi vào rồi nằm nghiêng người cuộn tròn như con tôm trên tấm thảm chùi chân, nền xi măng trộn sỏi cồm cộm dưới cánh tay co lại làm gối. Cô cố nhìn cho ra góc phố cách nơi cô sống hai khu nhà, phía sau ngọn đèn đường. Cô giả vờ như mình đang thấy rõ. Cứ cho nó là ngã tư Menard và Downer đi, Beth nghĩ. Và cô bắt đầu ngắm. Mình phải pha ít cà phê để có thể thức mà ngắm tới sáng chứ. Và rồi cô lại tự nhủ Không, mình không cần cà phê. Cái lạnh sẽ giúp mình tỉnh táo.

Beth co chân lên rồi vòng tay ôm đầu gối, vừa rà lại trong đầu như tìm trong một quyển sách nấu ăn một ý tưởng thật hay, thật thánh thiện. Những màu sơn, mấy búp hoa tu-lip, món mì gà ít cholesterol, những bảng mục lục... được rồi. Cô sẽ đưa mấy món dầu của xơ Kathleen Noonan vào cuốn danh mục triển lãm.

Trang một: tiếng chuông Nhà nguyện của các Nữ Tu Phanxicô ở Saint Francis.

Trang hai: những cánh cửa của Vương Cung Thánh Đường Baptistery Florence.

Trang ba: ba thiên thần trên khung cửa trong một quán trà ở khu East Village ở New York.

Beth chăm chú nhìn quầng sáng của cái bóng đèn đang tỏa sáng nơi góc phố cách đó hai khu nhà.