Chương 26 -BETH--
Beth thấy như cô đang ngắm một con hổ trong thảo cầm viên vậy.
Có những lúc cặp mắt con thú nhìn trừng trừng vào ta, nhưng ánh mắt nó thất thần, không biểu lộ gì cả. Ta không thể biết chắc nó có cảm nhận được sự hiện diện của ta hay không, hay ta cũng chỉ là phong cảnh, một vật tưởng tượng. Một con hổ có thừa nhận một con người như một người bà con, thậm chí còn sống không nhỉ?
Khi cô ngắm Sam đi từ hàng hiên trước nhà ra cửa sổ sau nhà, con Beowulf lẽo đẽo theo sau, cô thắc mắc liệu Sam có nhận ra cô là một thành viên của cùng một loài hay không. Dáng đi của nó không thay đổi, từ lúc nó từ trường về nhà (nó phải mất hai tuần mới đi thẳng vào nhà mà không bấm chuông) cho đến khi nó lịch sự đóng cửa đúng giờ vào ban đêm. Thậm chí khi nó ngồi làm bài tập nơi bàn ăn trong nhà bếp, hai chân nó run run đong đưa. Beth tự hỏi không biết nó có cần... thứ gì đó không – vitamin hay thuốc an thần hay uống thêm sữa chẳng hạn. Trong tập hồ sơ gồm tám trang đầy đủ chi tiết, được in cẩn thận về những đặc điểm của Sam, ông George đã cho biết rằng con trai ông luôn là một thiếu niên dư thừa năng lượng. “Nó giống như con chó con đang phát triển.” George đã viết như thế. “Nó cứ chạy tới, chạy tới và rồi buông mình xuống ngủ thiếp đi ở bất cứ chỗ nào.” Beth có thấy như thế đâu. Sáng nào dậy mắt Sam cũng sưng mọng lên; giấc ngủ của nó không giống như giấc ngủ của một chú chó săn nhỏ, khỏe mạnh và năng động.
Hầu như ngày nào cô nhân viên công tác xã hội cũng gọi điện. (“Có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời cô ấy đã làm một việc thú vị như vậy mà không dính líu đến những vụ đại loại như năm người lớn xâm hại tình dục một đứa bé,” Candy đã giải thích thế.) Sam lo lắng là lẽ đương nhiên thôi, cô nhân viên nói. Nó đang trải qua, ở một mức độ nào đó, những giai đoạn đau buồn – sốc, phủ nhận, giận dữ, và xa lánh.
“Làm sao chị biết được chứ?” Một buổi chiều nọ Beth đã hỏi cô ấy.
“Tôi... tôi không biết,” cô ấy thú nhận. “Tôi chỉ... đoán là một đứa trẻ trong tình huống đó sẽ cảm thấy thế thôi.” Beth nhớ đến những loại câu hỏi mà các phóng viên thường hỏi vô số những chuyên gia được cô chụp hình để đưa lên báo vào các ngày Chủ Nhật. “Vậy nghiên cứu cho thấy được những gì?” cô hỏi.
“Chẳng được gì cả.”
“Cô nói thế là sao?”
“Tôi nghĩ trường hợp này chưa từng xảy ra trước đây,” cô kia đáp. “Những đứa trẻ, nếu bị bắt cóc, thường được tìm thấy ngay lập tức hay là không bao giờ tìm được nữa. Còn sống, ý tôi là thế. Tôi rất tiếc Beth ạ.”
Cô kể trường hợp một bé gái bị giao nhầm cho hai bố mẹ khác tại bệnh viện, ngay từ khi mới sinh. Báo chí đã đưa tin rùm beng; chị không biết chuyện đó à? Beth khẽ đằng hắng; cô không đọc bất cứ bài báo nào về trẻ em mất tích trong suốt mấy năm qua. Đứa bé này, cô nhân viên công tác xã hội kể tiếp, thích nghi rất tốt về hầu hết mọi phương diện. Học tốt. Được mọi người yêu mến. Ông bố và bà mẹ ruột chỉ phát hiện ra khi đứa con gái mà họ tin là con ruột chết vì bệnh tim bẩm sinh, do những xét nghiệm máu chứng minh nó không phải là con họ. Sau khi điều tra thật kỹ lưỡng các hồ sơ trong bệnh viện, mọi việc dần sáng tỏ.
“Rồi cô bé có gặp lại người cha cô nghĩ là cha ruột của mình không? Người đàn ông đã nuôi cô bé trong suốt ngần ấy năm ấy? Họ có còn liên lạc với nhau không?” Beth hỏi.
“À... có. Thật ra thì cô bé vẫn sống với ông ta. Cô không muốn trở về nhà bố mẹ ruột, và một vị thẩm phán đã ra phán quyết theo ý muốn của cô. Nhưng sau đó cô bé....”
“Sao chứ?”
“Thay đổi ý kiến.”
“Ồ.”
“Và trở lại gia đình thật sự... ờ... đầu tiên của mình.”
“Vậy sao?” Beth thốt lên
“Nhưng cô bé này lớn hơn nhiều, là thiếu nữ rồi, và tình trạng...” giọng cô nhân viên như xa dần.
Tình trạng gia đình hai bên khác xa quá, đến nỗi đôi khi Beth cảm thấy họ là những người lạ bị gom lại với nhau để đóng chung một vở kịch mà chẳng hề được tập dợt trước.
Vào thứ bảy đầu tiên, cả gia đình bên nội lục tục đến trước khi họ thức giấc dù Beth đã hết sức phản đối. Ông nội Angelo. Làm sao cô dám không mở cửa cho ông nội Angelo được chứ? Và ông đã cư xử rất đúng mực; ông không nhảy chồm lên ôm nghiến lấy Sam dù Beth biết ông rất rất muốn làm như thế. Ông chỉ ngồi đó, nước mắt chảy chan hòa trên mặt rồi thuyết minh cho Sam nghe về những bức họa trên tường ở nhà hàng Đám Cưới Trong Khu Phố Cổ. “Họ nhìn xuống matrimonio, nghĩa là đám cưới đó cháu. Ben này, mỗi hình ảnh là một nhân vật trong vở nhạc kịch đó.”
“Cháu tên Sam, Ange à,” Beth khẽ nhắc.
“Ờ, ờ, Sam. Đây là một cái tên hay, mạnh mẽ, Sam nhỉ. Ông là một ông già ít học, Sam à. Nhưng để ông nói cho cháu biết nhé. Trong một bức thì đó là vở nhạc kịch La Bohème, với gương mặt của Rodolfo, nhưng họa sĩ đã vẽ gương mặt của bố cháu, con trai Patrick của ta thay vào đó. Mà cháu có biết Menotti không nhỉ? Tác giả của vở nhạc kịch Amahl và Những Người Khách Đêm ấy?”
Beth sững sờ khi Sam gật đầu: “Cháu đã xem vở kịch đó trên chiếc tivi lớn ở trường rồi ạ.”
“Cậu bé? Có cái nạng?”
“Dạ đúng?”
“Đó là cháu, Ben... à Sam. Cháu đó. Cậu bé kia là cháu đó.”
“Đẹp quá,” Sam nói. “Cho cháu xem được không?” Ông Angelo ngước lên nhìn Beth, cặp mắt mờ đục nhòa lệ.
“Từ từ thôi bố. Để cháu nó thích nghi từ từ, Ange à,” Beth nói. Cô đã yêu cầu rằng chỉ cô, Pat và hai đứa trẻ là những người được gặp Sam trước tiên thôi. Giờ thì trong cái ngày trở về thực sự đầu tiên của nó, cô cảm nhận được cái vỏ mỏng manh bao bọc Sam bấy lâu đang dần vỡ ra, cảm nhận được sự bối rối của nó. Cô muốn đứng lên ra hiệu cho mọi người đi ra chỗ khác. Nhưng thật là khó, khó như phải chuyển hướng một dòng sông ấy.
Ngay lúc ấy Sam hỏi: “Anh Reese đâu ạ?”
Ông nội Angelo nói: “Reese. À. Dĩ nhiên rồi. Anh ấy chọn nhân vật Pinkerton trong vở Bà Butterfly. Rủi thay Pinkerton lại là một người xấu xa. Ông đã bảo Vincent chọn nhân vật khác đi. Và nó lại chọn Don Giovanni, một người còn tệ hại hơn nữa! Cho nên tụi ta đành để nó đóng vai Pinkerton.”
“Nhiều tường quá,” Sam nhận xét.
“Nhiều tường quá à?” ông nội Angelo la lên. “Cháu phải thấy tận mắt cơ. Chỗ ấy rộng lắm, Sam.” Ông quay đầu lại khi cô Tree bước vào. “Còn cô của cháu là người mẹ trong
Amahl. Cô là người mẹ của cháu trên tường đó.”
“Ben,” cô Tree vừa quỳ xuống vừa giang tay ra. Sam vừa nhìn Beth vừa lưỡng lự tiến vào vòng tay cô; cô Tree bật khóc. “Ôi, Ben. Ôi, lạy Chúa.” Tội nghiệp thằng bé, Beth than thầm; cô muốn treo một cái bảng quanh cổ nó với hàng chữ: “Tên là Sam” quá.
Và rồi cứ thế, cứ một cảnh đó được diễn đi diễn lại, suốt cuối tuần này mãi cho đến tuần sau. Chỉ nhìn thấy nó thôi là tất cả mọi người, bác Paul, bác Bick, cha cô dường như đều thấy ăn năn, ngưỡng mộ như thể nó là một hình ảnh của một bức họa trong một hang động chứ không phải là một đứa trẻ mười hai tuổi với hai đầu gối đầy sẹo.
Sau khi ôm nó, đẩy nó ra ngắm nghía rồi lại ôm nó tiếp, ông ngoại Bill cảm ơn Sam vì đã về nhà khi ông còn sống để gặp nó.
“Dạ không có chi ạ,” Sam nhẹ nhàng đáp. “Ông ốm à?”
“Không, không,” ông ngoại Bill hồ hởi đáp. “Ông có ốm đâu. Đừng lo. Chỉ vì ông mừng quá đó thôi, con.”
Bác Bick thì hồ hởi nói: “Bác là bác của cháu nè. Cháu được đặt theo tên bác đấy. Mọi người gọi bác là Bick nhưng tên bác là Benjamin.” Rồi không chờ cho Sam kịp mở miệng nói, bác Bick hỏi ngay: “Cháu có nhớ bác không? Cháu có nhớ cái lần bác kéo cháu ra khỏi hồ Delavan không...?”
Như sau này Beth nhớ lại, mọi chuyện chỉ chấm dứt khi Sam bối rối, mệt lử và tuyệt vọng vì không trả lời được những câu hỏi khó đến thế. Nó bắt đầu bám theo Beth hoặc nếu cô không có mặt trong phòng thì nó cứ lẽo đẽo bám theo Reese. Trong khi phòng khách chật ních những người hàng xóm, các thành viên trong gia đình, cảnh sát và thỉnh thoảng lại có một phóng viên cười toe toét tạt vào và vẫn tiếp tục ngoác miệng cười khi bị từ chối tiếp chuyện, thì Beth thấy Sam và Reese lấy mấy cái găng tay trong nhà để xe ra, khóa cổng lại và lẳng lặng chơi bóng trong sân.
Mỗi đứa mới chuyền được ba cú thì cả một bầu đoàn thê tử nữa lại đến. Lại một lần chúc phúc khác, một lô một lốc những lời sửng sốt, một trời tên được đọc lên. Rachelle. Cô Angela. Con gái và con trai của ông Charley Hai. Gia đình Bonaventura. Gia đình Rooney và gia đình Reilly. Ông cảnh sát trưởng mới về hưu Bastokovitch từ Parkside đến. Bác Hank, bạn thân nhất của bác Paul.
Barbara Kelliher và hai con gái.
Không hiểu vì sao Barbara lại là gương mặt duy nhất khiến Beth khóc bù lu bù loa như một người điên – Barbara với kiểu tóc gọn gàng của một thành viên đội cổ vũ, vẫn có màu nâu hạt dẻ thật đáng ngờ, dày dặn ôm lấy hai gò má đào; mùi nước hoa Chanel vẫn tỏa ra ngào ngạt báo trước rằng cô đang đến. Barbara chỉ biết Beth sơ sơ khi còn học trung học nhưng đã quyết định – vì lý do gì Beth không hiểu được, như lần Barbara vừa cười hớn hở vừa giơ cao nắm tay khi thực hiện cú xoạc chân – tạm gác cuộc sống riêng để hào hiệp lao đến bảo vệ cho Beth. Beth ôm lấy eo cô và không thả ra nữa; và sau khi yếu ớt kháng cự, Barbara ôm Beth rồi bắt đầu đong đưa người Beth, như một bà mẹ đang ru con.
Khi Beth bớt thổn thức mà chỉ thi thoảng khẽ nấc, Barbara đề nghị được gặp Ben. Beth bước tới cửa sổ gọi nó.
“Thôi. Cứ để nó chơi. Để mình ngắm nó một chút đã,” Barbara nói khi Ben xoay một vòng để bắt cú bóng trên cao.
“Nó giống cậu quá.”
Tám giờ tối hôm đó, Sam nằm ngủ trên chiếc ghế ngoài bãi cỏ, tay vẫn đang cầm miếng bánh pizza dai nhách. Beth đã phải dựng nó dậy để đưa nó vào giường và mãi đến chín giờ sáng hôm sau nó vẫn còn mê mệt ngủ. Beth ghét phải đánh thức nó dậy nhưng bà Rosie và ông Angelo đã xin một lễ tạ ơn tại nhà thờ Immaculata. Pat đã nài nỉ tất cả mọi người cùng đi và ăn mặc thật khiêm tốn. Anh đang nói chuyện với Vincent về cái quần ka-ki của nó trước khi Beth uống tách cà phê đầu tiên trong ngày.
Còn cách nhà thờ vài khu phố Beth đã thấy đường phố chăng đầy đèn, phố xá yên tĩnh khác thường và chỉ bị nổi bật bởi sự hiện diện của hàng dãy xe hơi nhiều hơn bình thường, xe nọ nối đuôi xe kia, thậm chí đậu chắn ngay lối xe ra vào nhà. Giống như hôm đó là lễ Phục sinh hay lễ Quốc khánh vậy, một sự rộn ràng bất thường đập ngay vào mắt vì không có những hàng dài xe cộ đi đến sở làm. Khi họ rẽ ngay Đại lộ Suffolk đi vào đường chính, thậm chí Vincent cũng phải há hốc miệng vì kinh ngạc. Con đường đi vào nhà thờ đã bị chặn ở hai đầu và đầy những xe tải có ăngten chảo và rất nhiều toán cảnh sát – từ hơn một chục làng và thành phố Chicago, từ tiểu bang nữa – tất cả đều có mui nhấp nháy, sự kết hợp những đèn sân khấu và đèn pha đang quay vòng tạo ra một dạng ánh nắng nhân tạo. Ở hai đầu hàng rào bằng các dây nhựa dẻo, các gia đình đứng ngóng cổ qua đầu các phóng viên, xô ngã các giá để chặn. “Phải đến cả ngàn người ấy.” Vincent hít một hơi dài, giọng nó giống như giọng trẻ con lạc đi vì sợ hãi.
Và thế là gia đình Cappadora không thể đậu xe gần lối vào nên họ phải chen lấn mãi mới đến được cửa nhà thờ khi chuông báo giờ lễ lúc mười một giờ vang lên. Không ai trong đám đông đang chen chúc ở đó nhận ra họ cho đến khi họ đặt chân lên ngưỡng cửa nhà thờ. Beth thấy thất vọng giùm cho giới báo chí; họ mong được thấy một cậu bé tóc đỏ, được hai bậc cha mẹ đang ngất ngây hạnh phúc dẫn vào nhà thờ thay vì một đứa đã lớn với cặp mắt lờ đờ đội mũ bóng chày ngược thảm não, đi kèm hai bên là hai người đàn ông da ngăm thấp bé gần giống hệt nhau (một trẻ, một trung niên, với gương mặt rất hình sự), một người phụ nữ ngăm đen không có gì nổi bật với mái tóc hơi bạc mặc bộ quần áo rộng thùng thình và một cô gái tóc vàng hoe mặc váy ngắn mang vớ dài. Điều khiến Beth choáng váng là không hiểu vì sao nhà thờ lại chật ních không phải bởi những người lạ mặt tò mò mà là những gương mặt cô có thể nhận biết được. Mỗi gương mặt cứ tự động hiện ra từ quá khứ của cô và Pat. Cách thức thẩm tra nào có thể giải thích cho sự giống nhau của nó? Ta còn không thể nào biết được hết tất cả các gương mặt thậm chí trong một bữa tiệc cưới. Ai là người chỉ huy vụ này? Ai nhận diện được để chỉ cho những người có quan hệ với gia đình vào được trong nhà thờ? Mãi sau này Beth mới biết thật ra ở đó không có người gác cổng; bằng cách nào đó, những người biết họ nên vào đã vào được và chỉ trừ đám phóng viên, những người biết mình chỉ nên ngó qua, là không cố vào trong nhà thờ.
Khi Beth và Pat đi cùng lũ trẻ tiến lên phía trên nơi bà Rosie, ông Angela, ông Bill và Bick đứng, với Paul và Sheilah đằng sau, mặc quần áo lộng lẫy ngồi ngay ghế đầu tiên trong nhà thờ, họ đi qua rất nhiều những bàn tay chìa ra và những gương mặt ngước lên đầm đìa nước mắt. Bạn học và hàng xóm; dĩ nhiên là có cả Candy, cũng như những cảnh sát Beth chưa từng thấy họ mặc thường phục, thậm chí có nhiều người đã chuyển sang công tác khác từ lâu; cả một lô những bạn ở Madison: Laurie, đương nhiên rồi, đi cùng chồng con, và Rob cùng Annie Maltese và cả những người khác nữa – ông già mù nơi góc phố, người đã cho Ben và Vincent kẹo bạc hà khi Beth đẩy chúng vòng quanh khu phố trên chiếc xe đạp ba bánh cách nay hằng bao nhiêu năm; và cả Linda, người hầu bàn cho nhà hàng Cappadora nữa.
Đầu lễ là bài thánh ca “Ơn Huệ Cao Vời,” và cha Cleary, người biết Beth và Pat từ lâu, không để lỡ phút giây nào, vào bài giảng ngay: “Hôm nay chúng ta hiện diện nơi đây vào giữa lịch phụng vụ còn được nói đến với tên gọi “thời khắc bình thường”. Có nghĩa là chúng ta không đi theo hay mong đợi một trong những ngày lễ lớn nhất trong nghi thức tế lễ của chúng ta. Nhưng rõ ràng đây là những dấu chỉ kể cả việc không còn một chỗ ngồi nào trống” – có tiếng cười nho nhỏ – “rằng đây không phải là một dịp bình thường; nó thật sự là một ngày lễ để tán dương, ca tụng chứ không chỉ để tái xác nhận đức tin của chúng ta – như một vài người trong số quý ông bà không nhớ, chúng ta làm điều này mỗi ngày Chủ Nhật...” mọi người lại cười lớn hơn – “nhưng để xác nhận lại sức mạnh của niềm tin và lòng khoan nhân của Chúa vượt quá sức mạnh mỏng manh của chúng ta mà chúng ta không thể hiểu hay nhận biết được. Hôm nay, chúng ta ca tụng, như chúng ta đã ngợi ca trong các bài thánh ca, lòng nhân từ của Chúa qua hình ảnh trở về của một đứa trẻ đã bị lạc mất nay lại được tìm thấy.” Cha Cleary khẽ đằng hắng và có vẻ căng thẳng, Beth thấy buồn cười quá vì ông cứ nhìn mấy cái máy ảnh chằm chằm và vì sự mâu thuẫn trong tư tưởng của ông. Cô thắc mắc không biết ông đã để chế độ thu sẵn trên tivi cho bản tin buổi trưa nay hay chưa.
Cha Cleary nói tiếp: “Chúng ta kỷ niệm, trước sự hiện diện của chúng ta đây, sự toàn vẹn của gia đình Cappadora và gia đình Kerry, hai gia đình đã gắn bó lâu đời với nhà thờ này, ngôi trường này, cộng đồng này, gia đình mà sự mất mát to lớn cách đây chín năm đã là một nỗi đau chung cho toàn thế giới, đồng thời là nỗi đau riêng cho chúng ta, những người biết bà Rose và ông Angelo, ông Bill và bà Evelyn, anh Pat cùng chị Beth – và những đứa trẻ tôi đã làm lễ rửa tội vào những ngày Chủ Nhật đẹp trời mấy năm trước đây. Như quý vị đã biết, con trai Ben của họ bị bắt cóc cách đây chín năm khi cháu mới lên ba – và, nhờ những gì chúng ta gọi là phép lạ thời hiện đại cháu đã được đoàn tụ với gia đình cách đây vài tuần, không hề hấn gì, vẫn khỏe mạnh và bình an vô sự.
“Tôi không đề nghị gia đình Cappadora đứng lên, không phải vì tất cả quý vị đã biết họ, mà vì họ đã phải chịu đựng quá nhiều cuộc thẩm vấn, điều tra rồi. Nhưng tôi đề nghị quý vị cùng với lòng biết ơn và sự cậy trông đã giúp họ đứng vững – sự cậy trông giúp họ không dao động so với những người kém đức tin hơn chắc đã phải đầu hàng – mừng đón sự trở về của Ben...” Ông ngừng lại, liếc nhìn xuống dưới rồi ngước lên nhìn thẳng vào mặt Beth... “của Sam Karras Cappadora” – Beth thấy Sam ngay sát bên cạnh cô ưỡn thẳng người lên – “về lại với gia đình của cháu và về lại với cộng đồng dân Chúa chúng ta.”
Ông nói tiếp trong tiếng rì rầm tán thưởng của mọi người: “Dù không phải buổi lễ ban thánh thể nào tại nhà thờ Immaculata cũng được truyền hình khắp thế giới nhưng chúng tôi đã quyết định cho phép một số phương tiện truyền thông có mặt hôm nay tại nhà thờ của chúng ta, vì chúng tôi muốn những người không thể hiện diện ở đây hôm nay có thể chia sẻ trong cộng đồng dân Chúa này, trong buổi lễ đặc biệt này để xác tín sức mạnh của một cộng đồng và tấm lòng của nó.... Và chúng tôi cũng xin được phép nhắc nhở tất cả quý vị rằng ông Angelo và Patrick Cappadora và toàn thể gia đình lớn của họ kính mời quý vị đến dự bữa tiệc trưa tại nhà hàng Đám Cưới Trong Khu Phố Cổ, số 628 đường persey, Chicago, tiểu bang Illinois, ngay sau lễ và rằng gia đình hy vọng tất cả quý vị sẽ đến chung vui. Còn bây giờ, tôi xin bắt đầu thánh lễ. Chúa ở cùng anh chị em.”
“Và ở cùng cha,” đám đông đồng thanh đáp.
“Hãy nâng tâm hồn lên,” giọng cha Cleary sang sảng cất lên.
Beth không biết điều gì đã khiến cô hơi quay lại liếc nhìn – có tiếng sột soạt dưới cuối nhà thờ ư? Hay vì vừa bắt đầu thánh lễ cô đã có cảm giác lo lắng vì đã lâu không đi lễ nên phải cố lắm mới hòa được vào buổi lễ?
Nhưng cô đã quay lại nhìn, và nơi hàng ghế bên trái, nhỏ thó trong bộ đồ màu xanh kẻ sọc thật mảnh là ông George Karras. Ông đứng cách xa cô khoảng mấy mươi thước nhưng cô vẫn cảm nhận được sự bứt rứt đau đớn của ông, cảm nhận được rằng ông đang cố đứng yên, không đưa tay chỉnh cà vạt hay kéo lại ống tay áo. Cô không suy nghĩ thêm. Nếu suy nghĩ thêm, có lẽ cô sẽ nghĩ đến những điều đã ngăn không cho cô cất bước: cánh phóng viên nhà báo, sự giận dữ của những người trong nhà Cappadora, thậm chí nỗi buồn và cả lòng thương xót trong cô nữa.
Cô đứng lên, những cặp mắt tò mò dõi theo. Cô đi thật nhẹ về phía cuối nhà thờ rồi đưa tay ra; ông George, nghẹn ngào trong sự khiêm nhường và nhẹ nhõm, nắm lấy tay cô. Cô đưa ông về lại hàng ghế đầu tiên, và chỉ khi cô đi đến gần gia đình, trong mấy bước chân cuối cùng cô mới dám ngước lên – để thấy gương mặt của Sam, hướng về phía cô và ông George với một vẻ mặt cô chưa từng thấy.
Mãi về sau cô mới nghĩ ra, đó là sự hân hoan.