Chương 28 -BETH--
Beth quên cả ngồi xuống thậm chí sau khi cô y tá và nhân viên tòa án đưa Cecilia vào rồi đặt cô ta ngồi trong khu vực riêng bên cạnh các luật sư của cô ta.
Chỉ khi Beth thấy Pat bực bội giật giật cổ tay cô thì cô mới biết rằng giới báo chí, các viên chức và thẩm phán Sakura đều đã ngồi xuống. Vị thẩm phán, một người đàn ông Châu Á còn trẻ, đang nhìn cô chờ đợi, gương mặt ông ta lộ rõ vẻ vô cảm. Beth buông người đánh phịch xuống và nhăn mặt đau đớn khi xương cụt của cô chạm phải mép chiếc ghế dài, và cô nghe rõ tiếng chỉ bung ra rẹt rẹt nơi gấu váy của cô.
Tuy nhiên, chỉ cần hơi nghểnh cổ tới trước một chút là có thể thấy gương mặt đẹp như thiên thần của cô y tá, và xa hơn chút nữa là Cecil. Nếu không được báo trước về Cecil có lẽ cô chỉ nhận ra cô ta nhờ bộ quần áo tù màu cam, giống như đồng phục của các bác sĩ giải phẫu, người duy nhất trong phòng xử án không mặc quần áo đẹp dành-chongày-Chủ-Nhật.
Không chỉ thay đổi mà Cecil đã hoàn toàn khác xưa.
So với một Cecil thanh mảnh ngày trước như Beth vẫn nhớ thì bây giờ cô ta nung núc những thịt là thịt, da căng nứt ra. Người ta vẫn có thể thoáng thấy cái cằm, hai cổ tay và khung xương mỏng manh hoàn hảo của Cecil, nhưng giờ đây cô ta trông như hình ảnh của một người đứng trước gương trong nhà cười, một Cecil-đồ-chơi-nhồi-bông đang mê mải nhìn cô y tá.
Beth đã nghĩ mình sẽ thương hại Cecil hoặc sẽ nổi xung lên, hay đại loại thế. Nhưng giờ đây, trong cô chỉ còn sự tò mò. Cô muốn lần lượt mở banh Cecil ra như một con búp bê matruschka, hết con này đến con khác, để tìm cho được người đã đánh cắp con cô, và bên dưới vỏ ngoài đó là một cô gái quý tộc, tài năng, khinh người, khi xưa là một đứa trẻ láng giềng tò mò tọc mạch, luôn chĩa mũi theo dõi Ellen.
Nhưng Michele Perrault, luật sư của Cecil, đã đứng lên – nhỏ con với mái tóc đen cắt ngắn cùng bộ quần áo lòe loẹt như của một người hát rong thời Trung Cổ – và công tố viên cũng thế, cả hai đều đeo chữ lủng lẳng hai bên hông như hai khẩu súng lục. Đó là vị luật sư đại diện danh giá nhất của luật sư đoàn chỉ vì đây là trường hợp của Ben Cappadora, và báo chí từ Boston đến Brisbane ngồi chen chúc như cá mòi trong phòng xử án và xem truyền hình trực tiếp trong hai căn phòng khác dưới hành lang, ngồi tràn cả ra ngoài cửa, ra ngoài bãi cỏ mãi đến tận lề đường, một dòng suối người dưới ánh nắng mờ sương của mùa hè.
Michele Perrault lên tiếng: “Thưa quý tòa, tôi đã làm nghề này được khá lâu rồi...”
Thẩm phán Sakura mỉm cười nói thật dịu dàng: “Tất cả chúng tôi đều biết cô là một luật sư biện hộ có thâm niên trong nghề, thưa cô Perrault. “
Perrault cũng dịu lại và liếc quanh thẹn thùng như thể vừa nhận ra mấy chiếc máy thu hình, những cái bút bất động và các họa sĩ đang tíu tít phác thảo.
“Tôi đã làm nghề này được khá lâu rồi,” Perrault lại bắt đầu. “Và tôi cũng đã trải qua rất nhiều thời gian với thân chủ của tôi, bà Karras đây, trong nhiều ngày gần đây rồi.”
“Và...?” ông Sakura vừa hỏi vừa viết nguệch ngoạc.
“Và tôi không có được chút kết quả nào, không moi được thông tin gì từ bà. Điều đó khiến tôi tin rằng bà không hiểu chút gì về những lời buộc tội mà bà đang phải đối mặt. Tôi cũng nghĩ bà không thể tự biện hộ cho mình. Thường thì tôi luôn có được phản hồi từ bất cứ khách hàng nào của mình dù họ bị thiểu năng không nhiều thì ít. Nhưng vị thân chủ này không cho thấy dấu hiệu nào chứng tỏ bà nhận biết có người đang nói chuyện với mình.”
Thẩm phán Sakura nói: “Tôi có thể hiểu được điều này nhưng cô có tài liệu gì về tiền sử bệnh tâm thần của bà Karras để chứng minh cho ý kiến của cô không?”
Perrault mau mắn đáp: “Có, thưa quý tòa. Tôi mang cho ngài được chứ?” Vị thẩm phán gật đầu, Perrault mang đến một tập giấy. “Đây là những giấy tờ mà các bác sĩ tâm thần đã điều trị cho bà Karras tại bệnh viện Silvercrest cung cấp.”
“Trong suốt bốn năm qua à?”
“Thưa ngài, cả trước đó nữa ạ. Bà Karras đã phải ra vào bệnh viện cả tháy tám lần, từ vài ngày đến vài tháng và đã phải trải qua những đợt uống thuốc cũng như các đợt điều trị tâm lý khác cho bệnh trạng của bà.”
“Điều trị bệnh gì chứ?”
Sau này Candy thường kể lại với Beth rằng ngay lúc đó công tố viên lên tiếng như thể ông ta đơn giản cần phải tiểu vào gốc cây để chứng tỏ rằng ông ta đang có mặt ở đó. “Tôi hoàn toàn không đồng ý, thưa quý tòa, cô ta không phải là một bác sĩ, và không đủ tư cách để miêu tả...”
Perrault nói với ông ta: “Tất cả đều có trong tài liệu, thưa ông. Nói theo ngôn ngữ dễ hiểu thì bà Karras bị rối loạn tâm lý.”
Perrault đọc từ bản sao của cô: “Bà Karras có một tiền sử lâu dài mắc bệnh rối loạn tâm tính, từ thời niên thiếu, và trong suốt sáu năm qua có biểu hiện không di chuyển được, khi có khi không, và bị mãn tính từ cách đây bốn năm,” Perrault đưa tay về phía Cecil đang ngồi ngay đơ, thất thần trên ghế – “Từ đó trở đi, bệnh tình của bà cứ thế, không thuyên giảm mà cũng không nặng thêm.”
“Đương nhiên là tôi sẽ phải nghiên cứu những tài liệu này,” thẩm phán Sakura nói. “Tôi rất tiếc phải ngắt lời cô, cô Perrault ạ. Nhưng tôi cần biết là vị bác sĩ đang điều trị cho bà ấy có mặt ở đây không, và liệu ông ấy có thể giải thích cho chúng ta về tình trạng của bà Karras vào thời điểm vụ bắt cóc xảy ra hay không.”
Perrault nói: “Ông ấy đang có mặt ở đây nhưng ông không phải là bác sĩ điều trị cho bà Karras vào thời điểm đó. Bác sĩ của bà ấy lúc đó là một bác sĩ điều trị tâm thần ở Minneapolis nơi bà Karras đi đi về về trước khi kết hôn với ông Karras, sau khi ly dị với ông...” cô đi trở lại chỗ để hồ sơ của mình và lấy ra một tập hồ sơ – “ông Adam Samuel Hill, một nhà viết kịch bản mà bà Karras đã kết hôn được... à, tổng cộng là ba năm. Vị bác sĩ điều trị đó là một phụ nữ khoảng sáu mươi tuổi, đã chết cách đây hai năm, thưa quý tòa. Trong cuộc hôn nhân lần thứ hai bà Karras không phải vào bệnh viện. Và người chồng trước của bà Karras...”
“Ông ta có mặt ở đây không?”
“Thưa quý tòa, ông Hill bị mắc chứng xơ cứng màng tế bào. Nhưng tôi có một bản khai có tuyên thệ của ông ấy về những vấn đề xúc cảm khó trị của Cecilia trong khoảng thời gian họ kết hôn. Ông ấy rất tiếc vì bệnh tình đã không cho phép ông đi một chặng đường xa để đến đây dự phiên tòa này.”
“Chúng ta có nhân chứng nào khác không?”
“Mẹ của bà Karras, bà Sarah Lockhart, hiện đang có mặt tại đây. Xin ông cho phép tôi được đề nghị bà miêu tả tâm trạng của con gái bà vào thời điểm xảy ra vụ bắt cóc được không ạ?”
Thẩm phán Sakura đưa mắt nhìn công tố viên. “Ông không phản đối chứ?”
“Thưa ngài, tôi tiếp tục phản đối. Tôi phải nói rõ rằng tôi không biết liệu mẹ của bà Cecilia Lockhart Karras có giấy ủy nhiệm nói rõ bà là nhân chứng chuyên về y học không.”
“Ông biết là phiên tòa này không xem bà ấy là nhân chứng chính thức mà.”
“Xin cảm ơn ngài.”
“Không có chi,” vị thẩm phán gật đầu với Perrault và cô đề nghị cho mời bà Sarah Lockhart.
Khi người phụ nữ lớn tuổi thanh mảnh đi thật nhanh và thật khẽ khàng từ mấy hàng ghế cuối của căn phòng thì người nhân viên tòa án – người mà Beth đã nghe Candy gọi là “Elvis” dù cái bảng tên bằng đồng của ông ta lại ghi một tên khác – quay sang viên thư ký để bắt đầu tiến hành thủ tục tuyên thệ. Beth để ý thấy họ không sử dụng Kinh Thánh. Cô nghĩ chắc thủ tục đó đã bị bỏ.
Cô vẫn nhận ra bà Lockhart dù không gặp bà đã hai mươi năm nay. Beth nhìn kỹ gương mặt người phụ nữ lớn tuổi đó trong khi Perrault giải thích rằng bà Sarah đã thiện chí cộng tác như thế nào, và đã sốc vì hoảng sợ như thế nào khi biết cháu ngoại mình lại là một đứa trẻ bị đánh cắp. Bà đã giúp đỡ nhiều đến thế nào trong vai trò người giám hộ hợp pháp của Cecil để lấy những hồ sơ bệnh lý của Cecil.
Và bà lấy làm tiếc cho gia đình Cappadora như thế nào....
Vị công tố viên khó chịu xen vào: “Tất cả chúng ta đều biết rõ tâm trạng của bà Lockhart mà.”
Perrault bèn vào đề ngay; cô hỏi bà Lockhart liệu bà có biết rõ đứa bé có tên là Sam Karras không.
Bà ta đáp nhỏ: “Thật sự là tôi biết rất rõ. Nó là cháu ngoại tôi mà.” Rồi bà ta nhìn thẳng vào mắt Beth, và Beth nghĩ Một ngày nào đó Cecil sẽ giống như thế này đây nếu cô ta đã được tiêm thuốc tâm thần – hơi bệ vệ và rất Mỹ, không còn có vẻ nghệ sĩ nữa, giống một mệnh phụ làm trưởng nhóm đọc sách năng nổ nhất của thành phố. Cặp mắt bà Sarah Lockhart nhìn Beth van nài: “Tôi không thể nào tưởng tượng được rằng thằng bé không phải là con của Cecilia. Đứa con do chính Cecilia rứt ruột đẻ ra.”
“Nhưng bà không có mặt khi đứa bé được sinh ra – đứa bé mà con bà đưa về bảo là cháu ngoại bà ấy.”
“Vâng. Tôi và nó... Cecilia không có quan hệ tốt với bố nó cũng như với tôi. Khi nó còn bé, chúng tôi thấy nó rất dễ bị kích động... Khi thì nó nổi cơn thịnh nộ, lúc nó lại ngoan ngoãn, chúng tôi cho đó là tính khí của một nghệ sĩ....”
Mãi đến khi bà Sarah Lockhart bắt đầu kể lại mọi chuyện – nói theo kiểu của bà Rosie, vòng vo tam quốc, không đầu không đuôi, và chẳng chi tiết nào ăn nhập với chi tiết nào – thì Beth mới nhận ra rằng sẽ không có được chút manh mối nào hết. Không thể có được chút ánh sáng nào.
Qua cuộc điều tra dài đằng đẵng cả một mùa hè ấy, bản thân Beth bắt đầu biết khá rõ về Cecil cũng như gia đình đã nuôi dạy cô ta.
Nghĩa là... chẳng có gì hết.
Vì thế Beth chỉ mơ mơ màng màng nghe – do hơi nóng tỏa ra từ hàng trăm con người trong phòng xử án – những thông tin ít ỏi về Cecil trong khi mẹ cô ta, công tố viên và Perrault hiểu hết: ba cuộc hôn nhân đầu tiên của cô ta, tất cả họ đều là típ người nghệ sĩ, không cuộc hôn nhân nào kéo dài quá hai năm. Và điều sự thật đáng buồn là trong tất cả mấy người chồng ấy, gia đình Lockhart chỉ thật sự gặp mặt mỗi mình ông George.
Beth nghe nói đến những người bạn mà cảnh sát đã cố tìm họ trong những lần Cecil bay đi bay về giữa Minneapolis, California, và New York. Bạn ư? Không ai từng ăn bữa nào với Cecil dù vài người hàng xóm ở chung trong khu căn hộ với cô ta ở Minneapolis nhớ rằng họ có thấy cô đi chung với một thằng bé. Họ dường như đều nhớ cô nói nó là cháu cô. Hy vọng thật sự và cũng duy nhất là một nhà thiết kế mà Cecil vẫn giữ liên lạc từ khi còn học đại học, đã chết năm ngoái vì bệnh AIDS, và người yêu của ông ta cũng thế.
Thậm chí Beth cũng không tỉnh ngủ được khi bà Lockhart bắt đầu thút thít, lúc mô tả phản ứng của Cecil khi Adam Hill, “một nhà phê bình kịch nghệ, rất được trọng vọng, lớn tuổi hơn nó rất nhiều” – thình lình cặp kè với một nữ vũ công trẻ hơn.
“Đó là một trong những lần rất ít ỏi tôi thấy Cecilia tâm sự hết với tôi,” bà Sarah Lockhart nói. “Nó rất đau khổ. Nó nói nó thấy bị lợi dụng. Adam không muốn nó già đi, hay thậm chí không muốn nó trưởng thành nữa, mà lúc đó nó chưa đầy ba mươi. Dĩ nhiên là mọi người đều nghĩ nó trẻ hơn nhiều.” Bà Lockhart bắt đầu khóc to hơn. “Và tôi cố an ủi nó, cố giải thích cho nó biết rằng có những bù trừ tốt đẹp khác khi người ta già đi. Nó sẽ gặp được một người chồng tốt và có một đứa con... nhưng rõ ràng là nó đã không thể có được.” Bỗng dưng bà nhìn Beth và Pat rồi nói chầm chậm: “Tối qua tôi với bố nó cũng nói về chuyện này. Từ khi bị đột quỵ, chỉ có tôi là người hiểu Charles thôi, và chúng tôi hiểu vì sao nó đã làm chuyện đó, chỉ vì nó đã bị sẩy thai...” Beth hơi chồm tới phía trước, hai cánh tay cô rần rần cảm giác nhoi nhói và chỉ biết Candy đang ngồi ngay bên cạnh, chợt ưỡn thẳng người lên đưa tay nắm lấy thành ghế trước mặt cô.
“Sẩy thai à?” vị công tố viên vừa nói vừa ngước lên nhìn Perrault, lúc này cổ cô ta cũng đỏ rần rần như chiếc khăn quàng của cô vậy.
“Tôi không biết chuyện này. Thưa quý tòa, tôi....” Perrault nói.
Thẩm phán Sakura gỡ cặp kính gọng vàng ra xoa xoa mắt. “Bà Karras có được khám bệnh thường xuyên khi đang được giám hộ không?” Các luật sư lục tìm trong đống giấy tờ.
“Có rất nhiều xét nghiệm về thần kinh; chúng tôi có tất cả các kết quả đây, và những kết quả này luật sư đoàn cũng có rồi,” công tố viên vội vàng nói.
“Khám sức khỏe à?” vị thẩm phán lại kiên nhẫn hỏi.
“Chúng tôi rất lo về tình trạng tâm thần cũng như các cảm xúc của bệnh nhân....” công tố viên đáp nhỏ.
“Điều đó có thể cũng bị ảnh hưởng bởi nỗi đau thể xác của cô ấy,” vị thẩm phán thở dài nói. “Bà Lockhart, bà đã quên không khai với cảnh sát là con gái bà bị sẩy thai à?”
“Không.”
“Vậy tại sao cô Perrault lại sốc khi nghe tin này?”
“Tôi đã không nói với họ.”
“Tại sao thế?” thẩm phán nhẹ nhàng hỏi.
“Vì tôi không chắc lắm. Giờ phút này tôi vẫn không biết mà. Lẽ ra Charles và tôi phải đưa vấn đề này ra, nhưng rồi chúng tôi nghĩ là không nên.”
“Vậy thì, tôi xin lỗi, thưa bà Lockhart, tôi không hiểu ý bà.”
“Tôi cũng không hiểu được, thưa quý tòa,” Perrault chen vào nhưng ông ta nhìn cô dò hỏi khiến cô nín bặt.
Sarah Lockhart nài van: “Xin quý vị hiểu cho. Chúng tôi chỉ gặp con gái... có lẽ khoảng ba lần trước khi nó trở lại Chicago với Sam. Thậm chí nó cũng không về nhà khi bố nó bị đột quỵ lần đầu tiên đến suýt chết dù sau đó ông đã hoàn toàn bình phục lại....” Sarah Lockhart hít thở thật khó khăn, và Beth thấy mình đang gắng sức truyền sự bình tĩnh sang cho người đàn bà qua cái khoảng không gian ít ỏi đang chia cách họ. “Dù đã cố hết sức nhưng tôi chỉ nói với nó được có một lần sau cái đêm nó bảo tôi là Adam đang bỏ rơi nó.”
“Rồi sao nữa?”
“Và rồi, nó nói lý do ông ta bỏ nó là vì nó có thai, và rồi nó sẽ... già đi và béo ú ra.”
“Vì thế bà đến với cô ấy?”
“Không, vì bỗng dưng nó lại nói nó không còn có thai nữa; nó đã bị sẩy thai! Thế là tôi không gặp nó mãi cho đến khi chính quyền địa phương liên hệ với chúng tôi và nói rằng nó đang ở Bellevue; quý vị đã đến đó bao giờ chưa?” Bà Lockhart nhăn mặt; đã lâu rồi, Beth nghĩ, nhưng có lẽ cũng chưa lâu lắm. “Tình trạng của Cecilia sắp sửa giống như bây giờ, ngoại trừ một điều là hình như nó nhận ra tôi, nó có siết tay tôi một chút. Và các y tá không thể moi được thông tin gì từ nó cả. Họ đã cố tìm một ai đó để giúp nó, nhưng nó... nó cứ câm như hến.” Đôi bàn tay búp măng của bà làm thành hình một con sò nhỏ. “Rốt cuộc thì chính cảnh sát đã tìm được chúng tôi, tìm ra địa chỉ của chúng tôi, vì Cecilia đã bị lấy vân tay khi còn trẻ, bị bắt trong một cuộc biểu tình hay vụ gì từa tựa thế, chứ không phải là việc phạm pháp.”
Beth nghe thấy Candy thở hắt ra, và liếc thấy đặc vụ FBI Bender đơ ra như phỗng.
“Vậy thì khi bà nói chuyện với cảnh sát và các điều tra viên đến từ văn phòng luật sư địa phương, bà nghĩ không nên đưa vụ sẩy thai này ra....”
“Tôi không biết là nó có bị sẩy thai không nữa! Không ai có thể biết những gì Cecilia nói là thật hay giả cả!” Sarah Lockhart đùng đùng nổi giận – lần đầu tiên – và nói. “Tôi chỉ biết rằng con tôi đang trôi tuột vào trong miền tăm tối, và tôi cùng với chồng phải quyết định mọi chuyện về việc có nên để họ gắn điện cực vào đầu nó hay bỏ nó vào bồn tắm toàn nước đá hay không....”
Vị thẩm phán nhỏ nhẹ ngắt lời: “Bà Lockhart, bà có cần nghỉ một chút không?”
“Không,” bà ta kiên quyết nói.
Perrault, sững sờ, có vẻ như sực tỉnh nói: “À, vậy thì, thưa bà Lockhart, như bà đã nói với cảnh sát, bà tin rằng khi Cecilia xuất hiện vào năm 1985 với... Sam, rằng nó là con của cô ấy. Chuyện đó làm sao có thể được nếu bà nghĩ cô ấy đã sẩy thai?”
Sarah Lockhart nài van: “Thôi đi mà. Tôi rất yêu nó, đến bây giờ tôi vẫn yêu nó. Cô không hiểu à? Nếu tôi hỏi nó một câu nó không thích thì nó dọa sẽ tự tử hay sẽ không bao giờ nói chuyện với chúng tôi nữa... và chúng tôi biết nó nói là nó làm.” Bà liếc nhìn đôi tay mình. “Khi nó nói nó và Adam đã thật sự quay lại với nhau và có một đứa con nhưng rồi lại chia tay thì nghe cũng có lý. Khi nó nói tòa án đã trao quyền giám hộ cho Adam vì nó bệnh nặng quá không thể chăm sóc thằng bé được... thì tôi đành phải tin chứ biết sao bây giờ? Nó có vẻ xấu hổ lắm.”
“Nhưng khi cô ấy bệnh nặng quá không thể chăm sóc đứa bé được thì sao nữa?” Perrault đánh bạo hỏi.
“À, sau đó nó khỏe lại! Nó có vẻ ổn và là một bà mẹ tốt dù đứa bé vẫn mắc cỡ với nó... à, tôi cho đó là vì nó phải làm quen lại với mẹ nó sau khi đã sống quá lâu với bố.”
“Thế thì tại sao bà không nhờ Adam xác nhận lại chuyện ấy?”
Sarah nhìn cô luật sư với vẻ khinh bỉ ra mặt. “Cô Perrault này, tôi chưa từng gặp người đàn ông đó. Hắn bỏ rơi con tôi một mình, và... và lại đang bụng mang dạ chửa, khiến con nó chết. Tại sao tôi phải nói chuyện với hắn chứ?” Perrault lúng túng: “Để biết. Để biết chắc là...”
“Cecilia nói Adam bệnh, rằng hắn bị bệnh đa xơ cứng. Giờ thì tôi biết điều này là có thật. Hắn bị bệnh này thật. Cô không hiểu được đâu. Cecilia có biệt tài thuyết phục người khác. Và... lúc ấy, tôi chỉ... tôi không dám.”
“Tại sao chứ?”
“Vì Cecilia nói nếu tôi gọi điện cho Adam thì nó sẽ không bao giờ cho tôi gặp thằng bé nữa. Còn tôi... tôi muốn có cháu ngoại. Tôi muốn có một đứa bé khỏe mạnh, dễ thương, một đứa cháu ngoại yêu tôi. Tôi muốn... tin nó. Và thằng bé to con quá, tôi tin chắc là nó cũng phải đến bốn tuổi chứ không phải ba....” Bà ta quay sang nhìn Beth chằm chằm, và Beth cũng thấy mắt mình ngưa ngứa giần giật nhìn trả lại bà. “Beth à, bác lấy danh dự mà thề với cháu rằng nó luôn là đứa to con. Và tóc nó không đỏ. Chúng ta đều thấy báo chí đăng rằng tóc Ben màu đỏ. Dĩ nhiên là tóc nó hơi đỏ khi nó lớn lên – và khi Cecilia kết hôn với George thì đương nhiên là hai bác gặp Ben rất thường xuyên.”
Sarah Lockhart nghiêng người tới phía trước, nắm lấy cái tay vịn bóng láng. “Beth à, nó chưa hề đánh thằng bé. Nó cũng không chạm tự ái thằng bé. Khi Cecilia còn khỏe, nó rất hiền và cư xử rất dịu dàng với Sam; nó luôn đọc sách cho thằng bé nghe; nó dạy Sam hát. Hai mẹ con chơi trò chơi trong đó nó dạy Sam giả vờ là tiếng vang từ cái giếng thần trong phim Bạch Tuyết và Bảy Chú Lùn, và Sam thuộc hết mọi lời hát...”
Beth đang đứng đờ ra gật gật đầu thì thấy Pat dụi mặt anh thật mạnh vào vai cô; cô quay ra sau, gần như chạm vào đầu anh thì cảm thấy, không phải là nghe, tiếng vo vo của mấy máy quay phim sẽ chụp những tấm hình màu lớn để đăng lên trang nhất vào sáng mai. Đương nhiên là Beth hiểu Pat đang nghĩ gì – đứa con yêu dấu của anh đang ở trong vòng tay một con quỷ, môi Ben đang uốn theo những từ mà mụ phù thủy đã đọc lên cho nó nghe. Nhưng thình lình Beth giận dữ nghĩ thế thì có khác gì chứ? Chẳng phải thế sẽ tốt hơn nghe rằng Cecil là một bà mẹ điên điên, lơ đãng và tồi tệ, hay dùng roi vọt với Sam và mắng nó là đồ ngu sao (cũng giống như cô đã làm nhiều lần với Vincent và thậm chí cả với Kerry nữa)? Nếu Pat biết là Cecil đã quên không lau mũi cho Sam hay không cho nó uống Triaminic khi nó ho thì liệu Pat có thấy khó chịu hơn không? Nếu Sam không khỏe mạnh, dễ thương thì liệu điều đó có làm họ đau buồn hơn không?
Và Beth thấy Candy xoay người lại với cái nhìn như thể đang tìm một đồng xu bị mất hay một mũi đan bị tuột trên gương mặt Beth. Gì thế, Candy, Beth hỏi thầm, gì thế? Cô ấy liếc nhìn đồng hồ – đã sắp tới giờ nghỉ giải lao rồi sao? Bà Lockhart nói nhỏ: “Rồi George và Cecilia ly dị nhau.”
“Cecilia và Adam chứ?” Perrault hỏi.
“Không, Cecilia và George – George Karras. Họ ly dị nhau theo đúng pháp luật.”
“À, Đúng rồi. Vì George muốn theo đuổi những mối quan hệ khác phải không?” Perrault hỏi dù đã biết câu trả lời.
Bà Lockhart đáp: “Không, trời ơi, không phải thế đâu. Cậu ấy yêu Cecilia lắm. Không ai có thể chấm dứt với... à....”
Công ty xây dựng nhỏ của George làm ăn cũng phát đạt, bà Lockhart giải thích, nhưng số tiền bảo hiểm của George không đủ để trả cho số chi phí khổng lồ phát sinh từ việc Cecilia phải nằm viện lâu dài. Và chương trình dành cho người khuyết tật cũng có hạn chế nếu một phụ nữ có chồng khỏe mạnh đang làm việc. “George sợ rằng nếu bệnh tình của Cecil kéo dài mãi thì nó sẽ ngốn hết mọi thứ. Rồi cậu ấy sẽ phải bán nhà và không thể lo cho Sam được.” Bà lại liếc sang Beth lần nữa. “Beth, bác rất tiếc cháu ạ.”
Beth cũng sửng sốt khi nghe tiếng mình đáp lại thật rõ ràng: “Không sao đâu.”
Khi thẩm phán Sakura báo nghỉ giải lao, cánh phóng viên ngồi bâu quanh Beth và Pat như những người lùn. Khi họ đứng lên để ra khỏi phòng, Pat ân cần nói với họ: “Tôi thật sự không biết gì về Cecilia ngoại trừ lần này, Lạy Chúa, cô ấy thật đáng thương. Bạn không thể căm ghét một người quá tội nghiệp như vậy được.” (“Bố Của Ben Đã Tha Thứ,” Beth tưởng tượng ra hàng tít lớn trên báo rồi cười thầm khi nhớ lại cách Ellen bắt đầu gọi Pat là “ông thánh trong ngoặc kép”)
Lúc đó Candy ra hiệu cho Beth và với khả năng tuyệt vời xua đám phóng viên như Chúa đã làm cho nước Biển Đỏ tách ra, cô đưa Beth ra cửa đi vào hành lang của phòng giam nơi nhân viên tòa án đang đứng mút kẹo Tootsie Pop ngay phía ngoài cánh cửa.
Candy cất giọng nũng nịu: “Elvis, anh yêu ơi, đừng làm em thèm anh chứ...” – Bây giờ Beth mới thấy rõ tên anh ta: Elmer. Anh ta dịch sang một bên nhường chỗ cho họ đi qua.
Candy thầm thì giải thích: “Như thế này là sai luật. Nhưng chị muốn gặp cô ta. Em cũng muốn gặp cô ta mà. Perrault đang ở trong đó với cô ta. Em có muốn vào không?”
Beth gật. Cô thấy mạch ở nhượng chân và dưới cằm mình như đang đập nhanh hơn. Trong một chỗ được quây lại bằng song sắt, Cecil đang ngồi đó một mình với cô y tá và vị luật sư.
“Cecilia này,” cô y tá nói vào một khuôn mặt không còn cảm xúc với giọng tôn trọng mà Beth biết không bao giờ cô ta có thể lặp lại như thế một lần nữa, “thám tử trưởng Bliss muốn gặp cô. Như vậy có được không?” Cecil thậm chí không chớp mắt. Khi một con nhặng đậu lên cánh tay, cô ta vẫn không nhúc nhích. Candy quỳ xuống trước hai đầu gối to bự của Cecil.
Cô nói: “Cecil ơi, nghe này, Cecil. Nói cho chị biết đi em. Mộ đứa bé ở đâu? Đứa bé được chôn ở đâu?”
Đứa bé? Cảm giác bất an của Beth bỗng dâng trào – một đứa bé khác nữa ư? Một đứa bé bị giết à?
Candy hỏi Michele Perrault: “Cô đã kiểm tra chưa? Cô có tìm ra giấy báo tử không?”
Perrault bối rối đáp: “Giấy báo tử ư? Làm sao tôi kiểm tra một việc mà tôi thậm chí... nghe này, thám tử, chị phải hiểu chuyện này ngoài dự kiến của tôi. Mẹ của thân chủ tôi đã không nói gì về việc mang thai, tuy nhiên tôi không thể tưởng tượng được lúc ấy bà ta đang nghĩ gì... ý tôi là tại sao bà lại không khai ra.”
Candy đăm chiêu nói: “Tôi nghĩ là bà ấy không cần phải có lý do, Michele ạ. Dù đó là một lý do có ý nghĩa đối với chị và tôi.”
“Nhưng như thế là nói dối!” Perrault thốt lên, với vẻ có lỗi, như thể vừa nghe tiếng mình lần đầu tiên. “Tôi muốn nói sao lại bỏ qua một chi tiết quan trọng đến thế. Dĩ nhiên là bà Sarah Lockhart cũng phải chịu nhiều căng thẳng. Cho nên bà làm thế cũng không có gì đáng ngạc nhiên.”
“Đúng là hoàn toàn không ngờ tới,” Candy gượng gạo đáp. “Tôi cho là hoàn toàn hợp lý khi mọi người cố bảo vệ con cái mình. Họ luôn làm thế. Họ còn làm bằng những cách đáng hổ thẹn hơn nữa kia. Bà Lockhart luôn yên trí rằng với Cecil, bà ta không thể biết chắc được điều gì.”
Perrault nói: “Chị biết đấy, đôi khi sẩy thai thường dẫn đến việc bắt cóc. Ý tôi là không ai bàn cãi gì về những chuyện đã xảy ra ở đây. Chúng ta đang nói về... gì nhỉ, bốn năm sau sự kiện đó, có lẽ thế, nhưng vẫn còn những điều chúng ta phải theo đuổi. Điều gì đó có thể là nguyên nhân cho những hành động của Cecil.”
“Ồ, trong thâm tâm, có lẽ bà Lockhart cũng hiểu điều đó chứ.”
“Vậy thì chị cho là lúc đó bà ta cũng nghi ngờ Ben không phải là con Cecilia à? Có thể bà ta hơi nghi ngờ chăng? Vì tôi không thấy bà ta có vẻ cố tình giấu giếm.”
“Tôi cũng vậy.”
“Thế thì tại sao bà ta không nói gì về vụ sẩy thai nhỉ?”
“Có lẽ bà ta tự nhủ là đã quá lâu rồi. Và rằng chuyện đó cũng không quan trọng...,” Candy ngừng lại, đưa ngón tay ấn vào đường hằn giữa hai mắt. “Hay cũng có thể... có thể, bà ta thoáng thấy có điều gì đó bất thường trong toàn bộ câu chuyện,” cô nói tiếp, chậm rãi hơn. “Cũng như tôi vậy.”
“Gì chứ?” Perrault hỏi.
“Không phải tôi chưa từng nghe thiên hạ nói về những người bị suy sụp tinh thần vì sẩy thai – hay thậm chí vì chỉ nghĩ rằng mình sẩy thai. Và đây không phải một phụ nữ bình thường. Nhưng có điều gì đó... có lẽ không thật sự xảy ra một vụ sẩy thai. Có lẽ thật sự đã có một đứa bé.”
Beth chen vào: “Đứa bé nào chứ? Con cô ta à?”
Perrault nổi đóa: “Chẳng phải đó là thêm một lý do đòi hỏi phải cung cấp thông tin rõ ràng sao? Có một đứa cháu trai ở đâu đó ngoài kia? Đã chết hay còn sống? Hay đó chỉ là những gì chị đang nói?”
“Có lẽ không có gì,” Candy vừa nói vừa quỳ xuống và đặt tay lên đùi Cecil. “Tôi chỉ... tôi cũng không biết nữa.” Mắt Cecil bắt đầu nhìn xuống, đảo xuống rồi ngước lên, cứ thế liên tục. Đầu cô ta lắc theo những tia nhìn như thể có một sợi dây bị giật ngày càng mạnh hơn.
Cô y tá nói nhanh: “Cô ấy không nghe thấy gì đâu. Cứ thế đấy. Đôi khi cô ấy làm mãi một cử chỉ nếu ta không ngăn cô ấy lại. Nào, nào, Cecilia...” Cô ta giữ yên cái cằm đang đong đưa của Cecil. “Tốt rồi đó.”
Candy lại thầm thì: “Cecil ơi. Giúp em tìm mộ chị bé của em đi.”
Sau này Beth tin chắc rằng cô đã tưởng tượng ra chuyện đó. Rốt cuộc thì chính Candy, người nhìn chòng chọc vào mặt Cecil, nói cô đã không thấy gì cả. Nhưng Beth thì nghe có tiếng suỵt khe khẽ và tin rằng mình đã thấy môi Cecil nhếch ra lộ hai hàm răng đều tăm tắp giống như bất cứ một người bình thường nào sẽ làm trước khi phát ra âm gió s kia.
Candy đứng lên và hỏi: “Bethie này, em muốn đi với chị không?”
“Bây giờ à?”
“Ngày mai. Có thể, em biết đấy, có thể thậm chí là tối nay khi toàn bộ sự việc này kết thúc nhanh như chị nghĩ. Lúc đó thẩm phán Sakura chỉ còn cần một bản nhận xét của một bác sĩ tâm thần độc lập và một nhận xét về sức khỏe với lời đánh giá định kỳ về tình trạng của cô ấy... Xét cho cùng thì đây là một lời buộc tội nghiêm trọng. Nhưng chị nghĩ, về cơ bản mà nói, ông ta sẽ bác đơn, em cũng biết thế mà, phải không?” Beth gật đầu. “Vì cho dù cô ta có biết những gì mình làm cách đây chín năm thì bây giờ cô ta có còn biết gì nữa đâu. Mà có lẽ trong tương lai cô ta cũng chẳng khá hơn là bao. Vậy em muốn đi không?”
Beth đáp: “Dĩ nhiên là muốn rồi. Nhưng đi đâu mới được chứ?”
“À, có hai chuyện chị thật sự băn khoăn. Chắc em còn nhớ hồi đó khi chị gọi điện cho Bender lần đầu tiên, có người mua hàng thấy Ben trong siêu thị với một bà già đó?”
“Ở Minneapolis.”
“Đúng vậy,” Candy vừa nói vừa nhấn lên đường hằn giữa hai mắt. “Chị muốn gặp cái bà già nhỏ con đó. Chị nghĩ bà ấy muốn nói chuyện với chị.”
“Em tưởng chị muốn điều tra về một đứa bé.”
“Đúng thế,” Candy đáp rồi thình lình đứng phắt lên mỉm cười làm Beth ngạc nhiên: “Hãy kiên nhẫn một chút với chị đi.”
Bên ngoài tòa án, Pat hơi phật ý khi Beth hỏi anh về việc đi lên phía Bắc với Candy.
“Một mình anh làm sao trông lũ trẻ cho xuể được?” anh hỏi.
Candy nói: “Trời ơi, Pat, đưa tụi nhỏ đến mấy nhà hàng Ý ở khu Six Flags đi – chẳng phải thiên hạ vẫn gọi đó là khu ẩm thực tuyệt vời sao? Chiều mai là tụi này về tới rồi.”
“Nếu muốn có người bầu bạn, sao chị không đưa ông xã chị đi thay vì vợ em?” giọng Pat rên rỉ nhưng gương mặt đã nở nụ cười.
“Chris rất đáng yêu,” Candy thừa nhận, “nhưng em có muốn lái xe suốt chín tiếng với một luật sư trong xe không?” Cô đưa mắt nhìn Beth. “Chị và Beth sẽ hát những bản nhạc đồng quê Top Forty, được chứ?” Giọng cô bỗng chùng xuống, nghiêm trang hẳn. “Chị muốn Beth chứng kiến chuyện này với chị. Được không?”
Họ đi bằng xe riêng của Candy, một chiếc Toyota láng coóng màu đen Beth chưa từng thấy, không phải chiếc của đội cảnh sát mà Beth không thể nào quen được với kiểu lái xe của cô ấy. Cảnh sát trưởng Bliss. Tay cảnh sát cừ khôi kiên trì nhất trong vụ án nhà Cappadora. Beth thở dài. Giá mà giờ này mấy tay pha rượu ở Florida có thể thấy cô ấy nhỉ. Candy nốc Côca ừng ực và hát những bài hát buồn về mấy gã đàn ông sở khanh và cánh phụ nữ buồn rầu khổ sở, gặp nhau vì duyên có nợ khi tình yêu của họ tan thành mây khói do hoàn cảnh.
“Cũng chả trách vì sao họ lại uống rượu,” Beth nói sau hai giờ nghe những bài hát ấy.
“Em không thích à?” Candy thúc nhẹ cùi chỏ vào sườn Beth. “Em cũng thuộc típ người lãng mạn mà?”
Không đâu, Beth nghĩ, chắc chắn mình không phải thế rồi. Cô hỏi: “Chị là típ lãng mạn à?”
“Ừ, chị nghĩ thế. Chị nghĩ tất cả mọi điều xấu trên thế giới này, kể cả chiến tranh và tôn giáo, và tất cả mọi điều tốt trên thế gian, kể cả Shakespeare và nhạc đồng quê đều bắt nguồn từ tình yêu. Chị nghĩ thế đấy.”
“Em đồng ý, đặc biệt là khúc đầu. Nhưng em cũng nghĩ sẽ có xe điện và thuốc chữa bệnh AIDS nữa, và em không biết thiên hạ sẽ ra sao nếu không yêu đắm đuối khoảng sáu lần trong đời hay họ sẽ cảm thấy thế nào nếu họ lỡ mất một cơ hội để yêu thương.”
“Em thì không. Ít nhất có em không nằm trong số đó.”
Mình thì không, Beth nghĩ, ôi Chúa ơi, không phải Elizabeth Kerry Cappadora bé bỏng chung thủy. Và lúc đó Beth suýt kể cho Candy nghe về cái ngày hôm ấy ở khách sạn, điều mà vì bây giờ Sam đã về nhà nên không còn làm Beth thấy bứt rứt mấy, nó đã thành một kỷ niệm thầm kín lãng mạn của cô khi thỉnh thoảng nghĩ đến. Thậm chí sau khi thức giấc người đầm đìa mồ hôi vì mơ thấy Nick, cô vẫn cảm ơn Chúa rằng Pat vẫn đang nằm ngay bên cạnh cô.
Cô nghĩ Sam đã giúp tất cả họ thăng hoa, và với tất cả khổ đau cùng tiếc nuối, Beth vẫn thích nghĩ rằng nó có thể đưa tất cả họ đến một nơi cao hơn, nơi họ có thể đứng vững.
Như thể đọc được các suy nghĩ thầm kín của cô, Candy hỏi về Sam: “Nó thích nghi với cuộc sống mới thế nào?”
“Pat nghĩ nó sẽ ổn thôi. Nhưng nó vẫn quá... trầm. Tuần sau tụi em sẽ đi Madison để dự lễ Quốc khánh. Đây sẽ là lần đầu tiên nó về đó từ khi..., à, từ hồi ấy. Hình như nó lo lắm. Em hỏi nó có chuyện gì thì nó chỉ nhún vai. Em đang nghĩ đến chuyện đưa nó đi gặp bác sĩ Kilgore....”
“Có quá nhiều điều để nó phải suy nghĩ mà.”
“Kerry nghĩ anh nó là một nhân vật nổi tiếng, giống như mấy người được in hình trên hộp bột ngũ cốc chứ không phải trên hộp sữa. Mà nó cũng là đứa liến thoắng nữa, nó luôn miệng hỏi thằng bé, rằng bị bắt cóc thì cảm thấy thế nào, rằng anh sẽ ký trên quả bóng của Blythe chứ. Vậy mà nó không bực mình với con bé chút nào hết. Em nghĩ có lẽ nó nhớ thời nó đã từng có anh có em. Nó cũng lẽo đẽo theo Vincent suốt.”
“Còn Reese đối xử với nó ra sao?”
“Nó phớt lờ thằng bé.”
Candy cười phá lên. “Cũng bình thường thôi, đúng không?”
Vậy sao? Beth mệt mỏi quá rồi nên đành chấp nhận là như thế. Đôi khi cô có cảm giác mình đang nghiên cứu Vincent như một căn bệnh nhiệt đới, đang cố thấu hiểu những biến đổi trong vẻ mặt thường là không biến đổi của nó như thể chúng là những đột biến trên một gien kỳ lạ. Nhưng trong mấy tháng nay không có chuyện gì rắc rối ở trường, mà không phải tất cả các cô các cậu thanh thiếu niên đều buồn rầu ủ ê sao? Ít nhất thì đám bạn xỏ lỗ rốn mà nó bắt đầu chơi gần đây và cả Jordan nữa ít xuất hiện hẳn, có lẽ là do nhà Cappadora bỗng dưng quá nổi tiếng.
Cũng có lẽ thế, Beth nghĩ, cô chỉ còn biết chờ đợi, mặc mọi chuyện muốn ra sao thì ra. Giá mà cô có thể được ở bên cạnh Sam một mình nhỉ, Beth mơ màng díp mắt lại nghĩ thế. Có lẽ mình có thể có một ngày với nó đấy, chỉ nó và mình thôi. Mình có thể giải thích về Vincent với nó. Hay một điều gì đó.
Khi cô tỉnh dậy thì trời đã tối đen như mực, Tammy Wynette vẫn đang hát, còn xe họ đang đậu trước cổng nghĩa trang Thánh John Thánh Giá ở hồ Gấu Trắng, ngay cửa ngõ vào thành phố Minneapolis.
“Sao thế... mình ở đây làm gì?”
“Chị có linh cảm này: Cecil điên điên tàng tàng thật đấy nhưng cô ta là dân Công giáo gốc, như em vậy. Và chúng ta biết cô ta sống cách đây chưa đầy ba cây số, trong khu nhà nghèo, sau khi cô ta bỏ cái gã Hill đó. Chị nghĩ lúc đó cô ta vẫn còn đang mang thai.” Beth khó nhọc ra khỏi xe đi theo Candy đến cổng nghĩa trang. Có ánh đèn hắt ra từ một cửa sổ. “Và nếu em có con bị chết, có thể là do em làm nó chết... Chị không nói là cô ta làm nó chết, nhưng chẳng phải em sẽ muốn đứa bé ấy được chôn trong nghĩa địa công giáo sao? Nghe có lý đấy chứ, nhỉ?”
Chị ấy đâu có nói chuyện với mình, Beth nghĩ. Chị ấy đang làm điều mà bà ngoại Kerry của mình gọi là tự nói thành tiếng. Nhưng chính Beth là người thấy tấm bảng trên cánh cổng với dòng chữ Sẽ Mở Lại và mặt cái đồng hồ báo 9:00 giờ sáng.
Candy nổi đóa: “Bực mình. Bộ không ai thăm viếng người chết vào ban đêm sao? Giờ thì mình phải làm gì đây, Beth? Hay em muốn đi coi kịch ở rạp Guthrie? Hay muốn gặp bà chủ nhà trọ của Cecil? Có thể cái người đã báo cho chúng ta cái tin đó, người đàn bà nặc danh quan tâm đến chuyện của chúng ta đó, có thể trước đó bà ta đã biết Cecil rồi. Và biết con cô ta. Biết Ben không phải con cô ta. Nhỉ? Có thể lắm chứ.”
Candy khởi động xe rồi nói tiếp. “Nhưng thật buồn cười. Bà ta nói qua điện thoại rằng đứa bé đang đi với một bà già, một bà tóc bạc đội mũ rộng vành, đeo kính râm. Không phải Cecil rồi. Có thể bà chủ nhà trọ là người giữ trẻ. Cũng không phải Sarah Lockhart. Trừ khi bà ấy nói dối, bà ấy thậm chí còn không biết mùa hè đó đã có Ben nữa mà.”
Beth nói: “Và bà ta cũng không gầy. Bà ta mập. Không gầy như Cecil.”
Candy lục tìm trong túi xách lấy ra bản vẽ đầu tiên ghi lại nơi ở của Cecil trong những năm đầu sau vụ bắt cóc.
Khu chung cư ở Minneapolis – những việc xảy ra định kỳ tại nhà bố mẹ cô ấy. Cuối cùng cô nói: “Đây rồi. Nhà trọ.”
Cô lái xe chầm chậm trên con đường một chiều để tìm địa chỉ. Thình lình Candy nói: “F. Scott Fitzgerald đã sống ở khu ngoại ô này với Zelda đó.”
Beth gắt: “Em biết rồi.”
“Chị muốn nói rằng đây có thể là thánh địa cho những người không bình thường.”
“Em thấy nó bình thường mà.”
Tòa án Apple Orchard nằm giữa khu trung tâm đông đúc gồm những căn nhà đẹp đẽ; những ngôi nhà gỗ kiểu Gôtich cũ hơn nhưng vẫn còn tốt. Qua ba khu phố Beth thấy có hai bảng hiệu của những ngôi nhà trọ giá rẻ bao ăn sáng. Cô nói với Candy: “Mình có thể ở đây được đấy. Có lẽ sẽ rẻ hơn là ở khách sạn.”
“Chị ghét mấy cái khóa ở mấy căn nhà của dân thường lắm. Chị chỉ nghỉ ở khách sạn Best Western thôi.” Cô lái thật chậm rồi rẽ vào một tòa nhà hai tầng màu trắng với những bụi cây được tạo hình dọc theo mặt tiền rất rộng của tòa nhà. “Đây rồi. Đây là nơi Cecil đã sống sau khi cô ấy bỏ ông chồng thứ ba.”
Ông già ra mở cổng không biết Cecilia Lockhart là ai. “Người các cô cần gặp là cậu em tôi cơ. Nhưng tối nay nó đang ở nhà thờ chơi bài gin rồi. Đến sau mười giờ nó mới về. Họ chơi khuya lắm. Nhưng dù vậy tôi cũng không biết liệu nó có giúp được gì không vì Rosie biết rõ vụ này hơn.”
“Rosie?” Beth kêu lớn.
“Là Rosemary, em dâu tôi. Cô ấy quản lý những căn nhà cho thuê. Mà ở đây thì có đủ loại người thuê – có vài gã các cô không thể phân biệt được là nam hay nữ nữa cơ, các cô hiểu tôi muốn nói gì chứ?”
Candy giơ phù hiệu ra và ông ta không dám bỡn cợt nữa. “Các cô là cảnh sát à?”
“Chỉ tôi thôi, chúng tôi đã lái từ Chicago đến đây, xin lỗi vì đã quấy quả ông khuya thế này nhưng cho tôi hỏi bà Rosie có đang ở nhà không? Bà Rosemary ấy.”
Ông ta nhiệt tình đáp: “Ôi Chúa ơi, không. Gặp cô ấy còn khó hơn nữa. Cô ấy bệnh mà. Cho nên Herb và tôi phải thay nhau quản lý nơi này. Lydia của tôi mất lúc tám mươi chín tuổi, và giờ Rosie lại đang bệnh nặng...”
“Bệnh đến nỗi không nói chuyện được với tôi sao?”
“À, cô ấy đang ở trong viện dưỡng lão Prairie View.”
“Là ở đâu?”
“Phía bên kia thành phố. Gần trung tâm thương mại mới.”
“Tôi sử dụng điện thoại nhà ông được không? Để gọi cho bà ấy và hỏi liệu tôi có thể đến thăm bà ấy không.”
“Được chứ. Nhưng vấn đề là Rosie bệnh nặng lắm.”
“Bà ấy đang hấp hối à?”
“Không.”
“Vậy thì tại sao?”
“Cô ấy bị bệnh Alzheimer. Cô ấy chỉ nhớ những gì trong quá khứ thôi.”
“Chuyện này xảy ra trong quá khứ mà,” Candy hy vọng nói.
Ý tôi là quá khứ thật xa xưa kia, thưa cô. Khi cô ấy còn là một cô bé ở thác Sioux cơ.”
Candy gật đầu rồi đưa tay ra nắm lấy hai bàn tay đang run rẩy của ông già và dúi tấm danh thiếp vào tay ông ta.
“Làm ơn nói với em ông là chúng tôi nghỉ tại khách sạn Best Western nhé. Nếu ông ấy gọi điện, chúng tôi sẽ đến ngay dù có khuya mấy đi nữa. Việc khẩn cấp lắm.”
“Chà,” ông già vừa đáp vừa liếc tấm danh thiếp của Candy. “Tôi sẽ làm như lời cô dặn.”
Nhưng ngay lúc ấy, một chiếc Lincoln Town Car cũ to đùng, sang trọng, bóng láng chầm chậm dừng lại trước nhà rồi một người đàn ông nhỏ con hơn, giống hệt ông già đang đứng đó, lưng thật thẳng, mặc áo khoác thể thao sọc bảnh bao nhanh nhẹn bước ra từ ghế trước về phía họ. Candy quay lại đối diện với ông ta. Vâng, ông ta nói, ông ta là Herbert Fox, và vợ ông, Rosemary có cho thanh niên thuê phòng. Candy đưa ra một tấm ảnh bóng láng của Cecil trong thời hoàng kim làm diễn viên. Herbert săm soi nhìn nó thật chăm chú.
“Ưm, tấm này rất giống cô ta. Giống một cô gái mà tôi nhớ vì một lý do. Nhưng cô ta có tóc đỏ cơ, các cô biết không.”
“Tóc Cecil đỏ à?” Candy hỏi Beth.
“Cô ấy thì đủ màu tóc hết,” Beth nói.
Herbert nói tiếp: “Một chuyện nhỏ này nữa: cô ấy nằm trên giường bệnh suốt. Vợ tôi rất thích cô ta. Chăm sóc cô ta khá kỹ. Và khi cô ta đến thuê nhà đương nhiên là chúng tôi không nhận ra rằng cô ta đang... có thai.”
“Đúng cô ấy rồi đó,” Candy nói. “Ông Fox, có phải Cecilia sinh đứa nhỏ khi cô ta sống ở đây không?”
“À, đúng rồi... mà không phải trong nhà này, nhưng tôi biết khi đến ngày sinh nở vợ tôi có lái xe đưa cô ta đến bác sĩ. Mà đó mới là phần tức cười của câu chuyện. Cô ta cứ nằng nặc đòi Rosemary đi về và để cô ta ở lại đó. Sau đấy Rosemary đi đến bệnh viện Little Company of Mary, và họ nói họ không biết tin tức gì của Cecilia... Hill nữa. Đó là tên cô ta. Cecilia Hill. Rõ ràng đó là một cái thai giả, lúc đó cô ta làm gì có con. Nhưng cô ta cũng không quay trở lại. Rosie lo đến phát bệnh một thời gian. Vợ tôi, Rosie ấy, đổi tính đổi nết hẳn, chuyện nhỏ chút xíu cũng làm bà ấy nổi giận và cằn nhằn cả mấy giờ đồng hồ. Dĩ nhiên là vào lúc ấy chúng tôi không biết Rosie đang bị bệnh nặng đến thế nào....”
Candy nài nỉ: “Ông Fox này, Cecilia... Hill có quay trở lại lấy đồ đạc không?”
“Không, cô ấy không quay trở lại.”
“Chúng vẫn còn ở đây à?”
“Không, không còn nữa. Tiền thuê nhà đã được trả đầy đủ. Vì thế chúng tôi gói ghém quần áo và đồ dùng của cô ta lại. Đồ đạc trong nhà đã có sẵn khi mướn phòng. Một năm sau, Rosie lúc ấy đã phát bệnh rồi, một phụ nữ lớn tuổi khá đẹp đến lấy đồ đạc của cô ấy đi. Bà này rất dễ thương. Bà ấy nằng nặc đòi trả một tháng tiền nhà vì chúng tôi đã giữ gìn đồ đạc cho cô ta.”
“Bà ta có hỏi về đứa bé của Cecilia không? Về cái thai giả ấy? Bà ta có kể cho ông nghe về đứa cháu ngoại của mình không?”
“Ôi dào, làm gì có chuyện đó. Bà ấy là một quý bà lịch sự, rất kiệm lời.”
“Ông có kể cho bà ta nghe chuyện xảy ra vào đêm đó không?”
“Chà, bà ấy là mẹ cô ta, có phải không nào? Bà ấy biết hết về những chuyện... tế nhị của một cô gái chứ, đúng không? Tôi nghĩ mình không nên xen vào đời tư người ta, và Rosie tội nghiệp của tôi thì đâu có hiểu gì nữa, vì thế cho dù tôi có tìm ra được điều gì đó thì tôi cũng không thể nói với bà ấy được. Tôi đâu có được trả tiền để nhúng mũi vào chuyện của thiên hạ.”
“Mà ông có nói chuyện này với cảnh sát chưa, khi họ phỏng vấn ông về Cecilia ấy?”
Người đàn ông sửng sốt thật sự. Ông ta nói nhỏ:
“Cảnh sát ư? Về chuyện gì mới được? Cô gái bé nhỏ đó bị hại à?”
“Không. Không, cô ta... vẫn còn sống và khỏe mạnh. Nhưng ông chưa nói gì với cảnh sát về Cecilia Hill hết à? Cecilia Hill hay Cecilia Karras cũng là một thôi.”
“Tôi đã không nói gì trước khi gặp cô.”
Candy thở dài. Cô nhẹ nhàng nắm lấy bàn tay mềm oặt của Herb Fox, cảm ơn ông ta rồi nhã nhặn giải thích những tình tiết cơ bản trong vụ bắt cóc Ben; nhưng bỗng dưng mặt người đàn ông tái mét và ông thở hổn hển. “Nếu các cô không cần gì thêm thì tôi nghĩ tôi phải đi ngủ thôi.”
“Vậy cũng được, ông Fox. Ông đã giúp chúng tôi được nhiều rồi. Đừng suy nghĩ thêm về chuyện này nữa. Chuyện đã chấm dứt rồi.”
Trong xe, cô quay sang Beth. Gương mặt cô ủ ê và tái nhợt hơn dưới ánh trăng khuya khoắt xuyên qua kính xe. “Em đang suy nghĩ tại sao họ lại không đến hỏi Herb Fox phải không? Chị cũng đang nghĩ như vậy đó.” Beth định trả lời thì Candy đã đưa tay ra ngăn cô lại. “Nhưng Bethie này, khi chị nghĩ vì sao họ chưa hề nói chuyện với Fox thì đồng thời chị cũng nghĩ là tại sao họ lại phải làm như thế chứ? Không có lý do gì để nghĩ Cecilia có con cả. Chúng ta đâu có tìm một kẻ bắt cóc, cô ta đang được giám hộ mà. Chúng ta có những người làm chứng tốt cho cô ta từ vụ bắt cóc kia mà. Toàn bộ câu chuyện này,” cô khoát tay về phía hàng rào được tỉa gọn ghẽ quanh ngôi nhà trọ, “xảy ra trước khi Ben được sinh ra, nhiều năm trước cuộc họp lớp mà.”
Beth quay đi, và Candy nói sau lưng cô. “Em có thể gọi đó là cách làm việc cẩu thả, tùy tiện. Chị cũng đồng ý với em như thế. Nhưng thiên hạ không biết những gì họ không biết.”
“Cảnh sát biết mà,” Beth nói.
Candy nói nhỏ: “Cảnh sát lại càng không biết. Họ quá bận rộn với những chuyện to tát nên nhiều khi bỏ sót tiểu tiết.”
Beth cố nén nước mắt hỏi: “Nếu cô ta đã làm trước đó thì sao? Nếu cô ta đã thử làm trước đó thì sao? Và có phải cô ta đã giết con mình?”
“Em có biết câu trả lời cho chúng không, Beth? Vì nếu em biết thì chị sẵn sàng nghe đây. Sáng mai mình sẽ đi đến mấy nghĩa trang đó. Hay là đến gặp nhân viên điều tra những vụ chết bất thường để tìm giấy khai tử nếu rốt cuộc đó không phải là một vụ sẩy thai.”
“Đến nghĩa trang à?” Beth vội vã nói.
Candy nhìn cô dò hỏi rồi nói: “Ừ.”
“Để chị nghĩ xem mình còn có thể hỏi ai khác nữa nhé. Nhưng quả thật khi nói rằng cô bạn cũ Cecil của em không có những mối quan hệ lâu dài với mọi người là đã nói nhẹ đi nhiều lắm rồi, nhỉ?”
“Cô ta không phải bạn cũ của em,” Beth hằn học đáp, và nghĩ nó chỉ là thêm một mối quan hệ lâu dài thôi. Chỉ một mà thôi.
“Chị xin lỗi,” Candy nói. “Vì chị mệt quá đấy mà. Mệt đến nỗi chị tưởng mình đã sống cả trăm năm rồi.”
“Em cũng thế,” Beth thở dài.
“Và bây giờ thì chị muốn làm vài ly quá.”
Beth nói xuội lơ: “Em cũng thế.”
Khi họ đến khách sạn để nhận phòng t