Chương 29 --
Sáng hôm sau Beth thức dậy trong tiếng lao xao cãi cọ ngay dưới cửa sổ phòng cô. Tối trước đó cô đã buông vật mình xuống giường, không trả lời những câu hỏi Pat nài nỉ, thậm chí không thèm đánh răng mà chỉ cởi được mỗi cái quần jean ra.
Giờ đây, khi cố làm cho tỉnh táo – lúc nhức đầu thì cô sẵn sàng sửng cồ với bất cứ ai đụng đến mình – cô rất kinh ngạc khi nghe giọng Sam giận dữ.
“Con đã nói rồi! Con vẫn thường chơi mấy cái này mà!”
Và tiếp đó là giọng Pat: “Nghe này, con. Chơi mấy cái pháo bông đó là bất hợp pháp. Mình sẽ đi tàu của dượng Rick và dì Laurie và chúng ta sẽ được xem pháo bông thật. Con sẽ được ngắm chúng nở xòe ra trên khắp thành phố...”
Sam nói: “Gì thì gì con cũng phải nói qua với ba con một tiếng. Con không nhớ tí gì về Madison cả. Và tụi con vẫn có pháo bông do chú Pete mang từ Missouri đến, đẹp lắm, mà chỉ người lớn mới được cầm mấy cây pháo bông đó, nên rất an toàn...”
Beth nhổm hẳn dậy, chống cùi chỏ lên ngưỡng cửa sổ để nhìn hai bố con. Vincent cũng có mặt ở đó, đang nghịch vớ vẩn với những thứ trong cốp xe hơi, còn Pat và Sam đang đứng đối diện nhau giữa lối xe ra vào. Tim Beth chợt thắt lại khi nhận ra cách hai bố con đang đứng, tay chống lên hông thách thức, thật giống hệt nhau.
Trước đó Beth đã thấy rằng điều khó khăn nhất đối với cô hôm nay là không những phải kể lại cho Pat các sự thật cô và Candy đã biết mà còn phải giải thích cả tầm quan trọng của chúng nữa. Trước đây cô cho rằng chỉ cần biết những sự thật đó là đủ... ít nhất cho đến khi cô có thời gian ngẫm nghĩ đến sự thông cảm cô dành cho Cecil và với cái tuần lễ vô ích được làm mẹ trong cô đơn đó để rồi tiếp theo là những tháng năm còn cô đơn và vô dụng hơn nữa.
Beth nhảy xuống đất, xỏ quần jean vào. Có lẽ cô phải can cuộc cãi nhau nảy lửa này hơn là giải thích tất cả những điều đó với Pat. Anh sẽ gọi đó là nỗi khát khao điên rồ được khám phá vận may trong xui rủi của Beth. Nó sẽ làm anh giận điên lên, anh sẽ nói những suy nghĩ của cô là loại ý tưởng có đầy rẫy trong giờ thứ hai của những bộ phim được sản xuất riêng cho truyền hình. Sự tranh cãi phía dưới kia là một trở ngại có tín hiệu tốt. Biết đâu chừng đấy, có lẽ Pat đã đúng – họ cần phải cho Sam thêm thời gian. Không còn lựa chọn nào khác.
Anh đang nói: “Sam à, sẽ rất vui đấy. Tất cả những chiếc thuyền khác đều đã có mặt trên hồ Mendota rồi, và thiên hạ đang reo hò cổ vũ tưng bừng. Vui lắm. Con sẽ thích ngay thôi. Và dượng Rick với dì Laurie cũng có một cái hồ lớn như thế ở sân sau nhà...”
“Con không đi đâu,” Sam nói.
Pat nhẹ nhàng nói: “Con sẽ đi đấy. Khi cả nhà đi thì con cũng sẽ đi thôi vì bố mẹ đã lên kế hoạch rồi. Bố đi vào lấy thùng đựng đá đây. Khi nào mẹ với em Kerry thay quần áo xong mình sẽ lên đường.”
“Có lẽ cả nhà sẽ chỉ cho em thấy nhà mình nữa,” Vincent chợt xen vào đề nghị. Trong lòng Beth dâng lên niềm tự hào; nó nói nghe hợp lý quá, nghe người lớn quá. “Em không muốn thấy căn nhà chúng ta đã sống à?”
Mặt vẫn sưng sỉa, Sam nói: “Tại sao em lại muốn thấy nơi anh sống chứ? Em còn không nhớ đã được sinh ra nữa kia mà.”
“Em không hiếu kỳ tí nào hết à? Tổng thống Lincoln cũng có nhớ ngày mình được sinh ra đâu, nhưng anh dám cá là ông ấy thích về nhìn lại căn nhà nhỏ bằng gỗ của ông ấy lắm.”
“Mọi người có hiếu kỳ về cuộc sống của con đâu. Mọi người có bao giờ sang nhà con để xem phòng con hay mọi thứ khác đâu. Mọi người chẳng giống ba con chút nào.”
Beth xen vào: “Đương nhiên là cả nhà thích George, Sam à.” Sam nhìn cô, nó vừa nhận ra rằng cô cũng đã có mặt ở đó. “Không phải là cả nhà không thích ông...”
“Mẹ có quan tâm đến suy nghĩ của ba con đâu.”
“Đúng vậy, chưa đủ,” Vincent khoái trá đồng ý.
“Vincent,” Beth cảnh cáo.
“Con nghĩ bố mẹ không thích ba con, và bố mẹ cũng có cho con được ở bên ba George vào dịp lễ Quốc khánh như con muốn đâu.”
Pat nói trong hơi thở nặng nề: “Vấn đề là con là con của bố mẹ chứ không phải con của ông George. Bố mẹ đang làm tất cả những gì tốt đẹp nhất đây, Sam, nhưng có vài điều rất khó mà chúng ta phải làm với danh nghĩa là những thành viên trong gia đình. Thế thôi. Có vài điều ta buộc phải làm, không thể thương lượng được.”
“Bố mẹ chỉ muốn khoe con thôi!” Đến đó thì Sam thét lên, rồi sợ hãi quay sang Beth. “Con không muốn nói thế.”
“Mẹ biết. Giờ thì con đi lấy găng tay bóng chày đi, hay bất cứ thứ gì khác con muốn đem theo rồi ta lên đường,” Sam ủ rũ đi vào nhà, theo sau là con Beowulf đang thở phì phì phấn khởi.
Thình lình Beth quay sang Pat với một ý tưởng bất chợt: “Anh biết gì không? Mình đi hai xe đi. Ngày mai em muốn đi tít lên Peshtigo chụp một ít hình. Và em muốn đưa nó theo, Sam ấy. Chỉ một mình nó và em thôi. Em sẽ có được một khoảng thời gian ở bên nó.”
Cô chú ý thấy Vincent đi chậm lại và bỗng dưng tập trung lắng nghe nên cô phải nói nhỏ lại khi thấy nó nhìn mình soi mói.
Pat chẳng để ý. Anh cằn nhằn: “Vào lúc này hả? Tại sao lại là lúc này chứ?”
“Đừng nhìn em như thế, Paddy. Em chỉ mới nảy ra ý nghĩ đó thôi.... Gì thì gì em cũng đã muốn làm điều này từ lâu rồi, mà em nghĩ nếu nó chịu nói chuyện riêng với một trong hai ta thì sẽ có tác dụng đấy. Được chứ? Đây là dịp thuận tiện vì dường như nó đang mở lòng ra, anh có thấy thế không?”
Pat bước lên hiên nhấc thùng đựng nước đá lên. “Anh chẳng quan tâm, Bethie. Tuy nhiên, anh báo cho em biết trước là đừng quá trông đợi vào một cuộc ‘xưng tội’ giữa mẹ và con nhé. Anh ở bên nó nhiều rồi, ở đây, ở sân banh, ở sân vận động, ở nhà hàng và những chỗ đại loại như vậy mà nó vẫn khép kín. Nó điềm tĩnh đến mức làm anh phát ghen tị lên ấy.”
“Có lẽ nó sợ quá không nói nên lời đấy thôi. Sáng nay nó không được bình tĩnh lắm.”
Pat mỉm cười mệt mỏi: “Cứ làm theo ý em đi.” Sam bước ra đứng trên hiên nhà. Pat quay lại nói với nó: “Giờ thì ta lên đường nào. Con đi với mẹ đi.”
Nhưng Sam, với một nỗ lực cuối cùng để giữ thể diện, khăng khăng đòi được đi chung với Vincent dù Kerry năn nỉ Sam đi với nó trong chiếc Volvo cũ của Beth để chơi trò Lô-tô Xe hơi.
Đến nhà Laurie và Rick thì nó vui hẳn lên, nó chèo thuyền trong hồ bơi, ăn không phải một mà là ba cái hamburger với đầy đủ gia vị, một công thức đặc biệt của Rick. Ngay trước khi trời tối, họ thả thuyền của Rick từ bến tàu Robertson xuống, Rick trả đũa Laurie suốt về những năm cô đã chọc ghẹo anh vì anh dong thuyền Queen Mary trên một cái hồ có kích cỡ nhỏ xíu. “Anh cá là giờ thì em rất vui khi thấy thuyền có thể chứa được chín người rồi, đúng không?” Rick cứ gặng hỏi mãi còn Laurie thì cứ ném mấy cái áo phao lên đầu anh.
Họ chèo chầm chậm trên mặt nước đen thẫm giữa hồ, và sau một lúc thì pháo bông bắt đầu nở bung trên bầu trời phía Bắc và phía Đông, hắt lên mặt lũ trẻ những vệt xanh xanh tim tím. Beth âm thầm ngắm Sam và nghĩ đây là lần đầu cô thấy mắt nó ươn ướt. Nhưng khi thấy cô nhìn nó chăm chú, nó nhoẻn miệng cười để lộ hai hàm răng trắng đều tăm tắp, một nụ cười dường như để chứng minh rằng nó là một đứa bé ngoan chứ không hư hỏng. Lúc đó cô muốn ôm siết nó vào lòng quá. Ngày mai, Beth nhủ thầm, ngày mai, ngày mai.
Sáng hôm sau, họ không đi sớm được vì ăn sáng quá trễ và vì quấn quíu với một lô một lốc thứ khi tạm biệt nhau – phải đổi các túi xách và đồ đạc lỉnh kỉnh từ xe này sang xe kia đến bốn lần mới xong, và phải mất một lúc để chờ Vincent, lẳng lặng đi mà không báo cho ai biết, đem cái bằng lái xe mới coóng đến khoe Alex Shore. Sau cùng thì Sam và Beth cũng hài lòng ngồi trong xe nghe Tom Petty hát cả tiếng đồng hồ về những cô bé ngoan đem lòng yêu Elvis. Beth lái lên Xa lộ 151 về phía thành phố Fond du Lac, nơi có vài ngọn cây đang đổi màu, rồi rẽ vào đường 41, đi qua thành phố Green, gần chứ không ngay sát bờ hồ Michigan. Không hiểu sao cô thấy vui như tết, trẻ hẳn lại và thơ thới hân hoan. Cô cười tán dương Sam khi bỗng dưng nó bắt đầu hát bè với cô.
Cô hỏi: “Sao con học được cách hát bè giỏi thế?”
“Má con hát được mà,” Sam vui vẻ đáp rồi liếc nhìn cô nói: “Con xin lỗi.”
“Cưng à. Mẹ biết cô ấy biết hát. Cô ấy có một chất giọng thật tuyệt. Mẹ nghĩ con hát cũng hay gần bằng như thế rồi đó.”
“Mẹ biết má con.” Đây không phải là một câu hỏi. “Ý con là, mẹ biết Cecilia?”
“Dĩ nhiên rồi,” Beth đáp, tim cô đập thình thịch. Nó chưa từng đặt câu hỏi với cô nhiều đến thế. “Tất cả mọi người đều biết cô ấy. Cô ấy rất nổi tiếng. Rất đáng yêu và rất có tài. Mẹ ganh tị với cô ấy vì Cecilia là bạn của dì Ellen – người bạn thân nhất của mẹ.”
“Tại sao chứ?”
“Vì Cecil quá... người lớn. Và mẹ nghĩ dì Ellen thích cô ấy hơn dù thực tế thì không phải vậy.”
Ôi lạy Chúa, Beth nghĩ, tại sao con lại nói thế nhỉ?
“Má con có dễ thương không?”
“Má con... mọi người đều bị cô ấy thu hút. Giống như một ngôi sao điện ảnh vậy.”
“Đối với con thì không.”
Bụng Beth nhộn nhạo. Từ từ thôi, cô nghĩ. Từ từ đã nào. “Ý con là cô ấy cư xử với con không tốt à?”
Sam cười phá lên. Nó cười thật to! “Không phải, ý con là con không nghĩ má con là một ngôi sao điện ảnh. Bà chỉ là má con thôi. Ba con kể thậm chí hồi con còn nhỏ khi con thấy bà trên tivi thì con cũng chỉ đi ngang qua và nói: ‘Ồ, má kìa.’” Beth cố cười thành tiếng nhưng chỉ khục khục được nho nhỏ trong miệng thôi. Ôi, giúp con với, cô than thầm – “Bà chỉ là má con thôi” – ôi, giúp con với. Nhưng Sam nói tiếp: “Má con hồi đó có... bị tâm thần không?”
Beth nhăn mặt. “Không. Cô ấy khác cơ....” Beth thấy Sam đơ người ra và cố làm nghiêm lại.
“Không phải là theo nghĩa xấu. Cô ấy là... một nữ diễn viên điện ảnh.”
“Đôi khi con nghĩ bà bị tâm thần là do những gì bà đã làm.”
Beth hơi loạng choạng lái chệch đi một chút, nhưng rồi lại giữ vững được tay lái. Nó đang nói với cô là nó đã biết điều ấy khi nó còn bé ư, rằng Cecil đã đánh cắp nó? “Vì những gì bà ấy làm à? Con muốn nói gì chứ?”
“Ý con là đánh cắp một đứa bé. Sau khi con gặp bố mẹ, con bắt đầu nghĩ rằng có lẽ không phải bà ấy bị tâm thần vì con quá... mẹ biết đó, quá khó cho bà khi phải một mình dạy con. Bà mắc bệnh tâm thần vì hồi trước bà đã gây chuyện này.”
Beth chậm rãi đáp: “Sam à, con không hề khó dạy. Con là đứa bé dễ chịu nhất trên thế giới này. Con cứ hỏi bố đi. Và Sarah nữa... bà ngoại Lockhart của con nói thỉnh thoảng má con cũng đã như thế rồi khi bà còn bé ấy.”
Sam gật đầu, và Beth nghĩ Con cũng muốn thế mà, phải không? Mình có nên tiếp tục không, có nên mạo hiểm phá vỡ đi những cảm xúc mới mẻ và mong manh này không? Nhưng mình cũng có thể mất cơ hội này mà. Mình đã mất nhiều hơn được rồi mà.
“Sam, mẹ cứ thắc mắc liệu con có biết rằng Cecil không phải là... mẹ ruột của con không.”
“Con không biết, con đã nghĩ bà ấy là mẹ ruột.”
“Vậy là chỉ từ khi con về lại, chỉ mới mùa xuân này con mới bắt đầu nghĩ đến lý do vì sao bà bệnh à?”
“Dạ. Mẹ có đĩa nhạc nào khác không?”
Beth sửng sốt. “Hả?”
“Có đĩa nào khác không ạ. Vì đĩa này nghe hết rồi. Mẹ có đĩa nào cũ của Beatles hay ban nhạc nào khác không?”
“Sam, tất cả những gì mẹ muốn con biết là không phải...” nhưng ngay lúc đó nó bèn quay sang mò tìm trong hộc đựng găng tay, cứ như nó đang giơ cao tấm bảng semaphore có mấy chữ “Ngừng Nói Chuyện” vậy. Vì thế Beth đành tìm cho nó một đĩa của ban nhạc Animals, và bắt đầu nói huyên thuyên về thành phố Peshtigo, trong bụng thầm cầu xin cho nó chú ý nói chuyện trở lại với mình.
“Con có biết Vụ Cháy Kinh Hoàng của Chicago không?”
Sam nhìn cô thương hại. “Có chứ.”
“Vậy con có biết rằng có một vụ hỏa hoạn thậm chí còn lớn hơn vụ đó ở Peshtigo, cái thị trấn nhỏ mà chúng ta sắp tới không? Vào cùng một năm, năm 1871, lại cùng một ngày không?”
“Thật hả?”
Và sau khi đã làm nó chú ý trở lại, Beth ngừng sát ngay viện bảo tàng lính cứu hỏa, trong một nhà thờ cũ trên đường 41. “Mình có thể vào đây được đó. Trong này hay lắm. Có đủ thứ được tìm thấy sau một vụ hỏa hoạn, ví dụ như mấy dụng cụ làm vườn bị cong queo vì sức nóng. Họ gọi nó là ‘cơn bão táp của thần lửa’. Con muốn vào không?”
“Mẹ phải chụp hình những thứ đó à?”
“Không. Mẹ sẽ chụp vài tấm hình trong nghĩa trang nhỏ phía cuối đường kia, nơi có nhiều người chết và được chôn ở đó.”
“Vì sao ạ?”
“À, mẹ thích các nghĩa trang.” Ngày mai, cô nghĩ. Ngày mai và ngày mai và ngày mai. “Và, đó là... con biết không... đó là một bi kịch lớn. Tất cả các tòa nhà trong thành phố này đều bị cháy. Không còn sót lại chút gì.”
“Còn người ta...?”
“Hàng trăm người chết. Con biết không, nhiều người chết hơn vụ hỏa hoạn ở Chicago nữa, Sam à, nhưng vì Chicago là thành phố lớn nên mọi người chú ý đến nó.”
“Vậy thì mình đến nghĩa trang đi mẹ.”
“Ừ.”
Để xem, Beth nghĩ, mình có nhớ nó ở đâu không nhỉ? Cô vòng xe lại – lần cuối cùng cô có mặt ở Peshtigo là... khi nào nhỉ?... năm 1991? Khi ấy cô chụp ảnh cho tạp chí Midwest Living, cho mục các ngày lễ lịch sử và các thành phố ma. Nhưng cô hầu như không nhớ được lần chụp ảnh đó – như thể cô đã làm quá nhiều việc sau kỳ họp mặt đó, một giấc mơ mờ mờ nhân ảnh. Bây giờ, cô có thể nhìn vào những tấm ảnh của mấy năm ấy mà không hề nhớ là mình đã từng đưa máy lên ngắm, hay nhớ những người cô đã nói chuyện và ở bên cạnh họ.
Thời gian đầu ở Peshtigo, trước khi Ben mất tích, được cô nhớ rõ ràng hơn. Beth rất thích thành phố này vì nó luôn là một trong những nơi thiêng liêng tuyệt đẹp để chụp ảnh. Có lần, khi vừa mang thai Kerry, cô đã chụp một loạt những ngôi mộ của một gia đình trong một nghĩa trang nhỏ bên ngoài viện bảo tàng, nơi người chết nằm dưới một tán cây to còn nhiều tuổi hơn họ: Sarah, Người Vợ Yêu Dấu; Alvey, Một Tuổi; Maria, Hai Tuổi; Arthur, Chồng và Cha. Cô đã nằm xuống trên đám cỏ phía trên mấy nắm xương đó, và nghĩ – như cô thường nghĩ trong những ngày còn làm báo, mỗi lần chụp một cái cáng cứu thương bên trên có một thân thể được quấn trong chiếc chăn nhỏ nhoi đến nỗi dường như không thể định hình được – nếu mình nhận hết nỗi đau này, nếu mình để nó làm tổn thương mình thì những gì của mình sẽ thoát được nó. Do những đau đớn đã nhận trước đó, bản thân mình sẽ không bị hủy diệt. Lưỡi hái sẽ mù quáng phạt khắp chung quanh, nhưng sẽ không thấy Vincent, không thấy Ben.
Giờ đây, khi nghĩ về con người ngây thơ lúc ấy, Beth thấy thương hại cho mình vì cô từng thật sự tin vẫn có thể ngăn được mọi chuyện xảy ra, giống như một đứa bé mười tuổi vẫn còn tin vào sự hiện diện của ông già Noel vậy.
Miên man suy nghĩ về cô Beth ngây thơ ngày đó khiến cô không thấy cái cổng vòm khiêm tốn dẫn vào nghĩa trang Rock of Ages, nên cô phải vòng lại qua một cánh đồng mướt xanh đến nhức mắt. Lúc đó cô chợt nhớ ra rằng con đường đã được sửa lại, đẩy lùi những ngôi mộ xưa nhất trong nghĩa trang lên một ngọn đồi nhỏ cách đó một khu nhà.
“Mẹ muốn lên trên đó, lên ngọn đồi đó. Đó là nơi yên nghỉ của những người đã chết trong vụ hỏa hoạn,” cô nói với Sam.
Cô lái xe vào nghĩa trang, đi trên một con đường rải sỏi, ngừng xe lại rồi vội vàng bắt đầu lấy dụng cụ trong xe ra. Chiều dần buông xuống; và ánh sáng cuối ngày, với những tông màu trầm, màu cam đỏ là những gì cô muốn cho bố cục những bia mộ hình tròn và chữ nhật của mình. Cô lấy bộ đèn flash ra để dự phòng, mang theo hộp đựng cái máy ảnh Hasselblad, một tấm hắt sáng xếp lại được, mới đến nỗi cô thấy nó cứng ngắc và lạ lẫm trong tay mình.
“Mẹ muốn con cầm cái gì cho mẹ nào?” Beth nhận ra rằng mình vẫn còn ngạc nhiên khi thấy Sam luôn ngỏ ý giúp đỡ thật dễ dàng, thật tự nhiên – một cậu bé thật ngoan, có giáo dục.
Cô đưa cái túi xách của cô cho nó rồi hai mẹ con bắt đầu đi ngược lên con đường mòn lổn nhổn đá. Beth ngắm con trai cô và chỉ lơ mơ cảm nhận được ánh sáng tuyệt đẹp cuối ngày. Có một tấm bia hình vương miện với những bia nhỏ xếp chung quanh giống như học sinh đang vây quanh bàn cô giáo. “Để mẹ chụp cái kia,” cô nói với Sam. Sam ngắm cô ngồi thụp xuống chụp từ chân bệ tượng đài cao nhất.
“Mẹ thấy những gì hả mẹ?”
“Mẹ đang ngắm cái dáng của tấm bia nổi bật trên nền trời, như thể nó đang bảo vệ cho những tấm bia nhỏ kia vậy. Đây này...,” cô tháo dây đeo quanh cổ cô ra rồi chuyển ống ngắm sang mắt Sam. “Con thấy chứ?”
“Con thấy rồi,” nó nhìn thật kỹ rồi nói.
“Con có muốn chụp không?”
“Con chưa sử dụng loại máy ảnh này bao giờ.”
“Dễ lắm, con,” Beth đặt tay mình lên mấy ngón tay nó và trong khi chỉ cho nó cách sử dụng các nút trên máy, Beth vẫn thấy choáng váng khi tay mình chạm phải làn da mịn màng mượt lông măng của nó. “Giờ thì mẹ đứng lên đây. Con chụp nhé.”
Cô đứng lên, lùi lại một bước, đụng phải vật gì đó cưng cứng; cô lảo đảo quay lại, suýt đụng phải một ông già. Beth hoảng vía hét lên và thở phào nhẹ nhõm khi ông ta giở chiếc mũ sọc của nhân viên đường sắt ra rồi cười phá lên.
“Cô tưởng tôi là ma à?” ông hỏi. Và khi thấy Sam, người đang liên tục bấm máy, thậm chí không quay lại khi mẹ nó hét váng lên, ông hỏi: “Tay nhiếp ảnh gia kia là ai thế?”
“Con tôi đấy,” Beth đáp, rồi nói thêm. “Thật ra tôi mới là nhiếp ảnh gia. Tôi kiếm tiền bằng nghề chụp ảnh. Nhưng chúng tôi đang đi qua đây.” Sam đứng dậy rồi cẩn thận đeo máy ảnh vào cổ.
“Chào ông,” nó lên tiếng, và người đàn ông nắm lấy tay nó rồi mỉm cười với Beth, một nụ cười bí ẩn san sẻ niềm tự hào của cô vì phong cách lịch sự cổ điển của Sam.
“Tôi là Will Holt,” ông già nói.
“Tôi là Beth. Tôi từ Chicago đến. Đây là Sam. Ông làm việc ở đây à?”
“Làm việc ở đây, sống ở đây luôn,” ông nhoẻn miệng cười, một gương mặt nông dân chất phác với những nếp nhăn chạy dọc quai hàm. “Ý tôi là không phải dưới đây. Ít nhất thì chưa dù tôi nghĩ cũng sắp đến thời kỳ rồi. Nhưng sống ở Peshtigo. Từ xưa đến giờ.”
“Tôi đang tìm mộ những người sống sót trong vụ hỏa hoạn.”
Ông ta lại cười to hơn. “Chẳng có ai đâu. Tôi e là thế, thưa quý cô.”
“Dĩ nhiên là tôi muốn nói đến các nạn nhân ấy,” Beth đỏ bừng mặt.
Beth thấy sau lưng ông là chiếc xe bò nhỏ, dáng giống một chiếc cút kít, nhưng thật ra thì giống xe bò hơn. Nó đầy ắp những đóa hoa xanh đỏ và một đống cờ Mỹ xinh xinh. Dõi theo mắt cô, Holt nói: “Lễ Bốn tháng Bảy. Đã định dọn cho sạch trước khi trời mưa làm chúng héo hết. Như thế mọi người chắc buồn lắm đấy. Mấy vòng hoa Giáng Sinh thì trụ lại được đến tận tháng Hai. Cứ nghĩ thế tôi thấy buồn quá. Mới bị cúm có vài tuần mà đã yếu rệu như mèo mướp suốt cả đông. Chắc phải chạy bộ, nhỉ?”
“Vâng, như thế thì tốt hơn,” Beth đáp. “Xin phép ông cho tôi chụp cái xe đó nhé?”
Holt chỉ về phía chiếc xe. “Được chứ, xin mời.” Sam đưa máy ảnh cho cô.
Nó hỏi Holt: “Những bó hoa này là từ mộ của các quân nhân hết hả ông?”
“Không phải tất cả đâu. Chỉ vài bó thôi. Hầu hết là từ những ngôi mộ của dân thường. Thân nhân họ nhớ đến họ vào những dịp lễ lạc.” Ông quay sang Beth, giờ đã chụp hình xong, nói tiếp: “Giờ thì phần lớn mộ của những người chết trong vụ hỏa hoạn đó nằm ở trên kia – không phải ở đoạn giữa đâu, ở đằng kia, ngay dưới cây dương lá rung ấy. Dĩ nhiên đó không phải là chỗ họ nằm đầu tiên; cách đây mấy năm thì một phần nghĩa trang này đã bị di dời.”
“Tôi biết. Trước đây tôi cũng có đến nơi này rồi,” Beth nói.
“À. Cô ở đây hả?”
“Ở Chicago,” Beth lặp lại. “Tôi đã từng sống ở Madison.”
“Madison? Tôi đã học đại học ở Madison. Đại học Nông nghiệp. Tôi là nhân viên phục vụ điện thoại có thâm niên công vụ đấy.” Ông bước đi khó nhọc về phía cái xe rồi nắm lấy tay đẩy. “Rồi tôi về hưu. Và giờ thì tôi làm công việc này, bất cứ khi nào tôi muốn làm. Ít tiền lắm. Nhưng cũng khá nhàn. Trước đây tôi thường đào huyệt với vài thằng nhóc nữa, nhưng giờ đã có xe ủi thay thế rồi.”
Ông Holt bắt đầu sải bước, Sam nối gót ông ta. Beth đi sau cùng. Cả ba người đi dọc theo một trảng cỏ rộng bằng phẳng xanh lấp lánh chạy lên đến đỉnh đồi. Họ đi qua một ngôi mộ trông còn quá mới đối với những người nằm trong đó với dòng chữ: “Caron Anne, Con Út Của Chúng Tôi. 1985-1988.”
“Đó là đứa nhỏ nhất của dòng họ Willard. Nực cười nhất – chết vì bệnh viêm tai. Mấy đứa cháu tôi cũng bị sưng tai cả tuần lễ mà có đứa nào chết đâu. Mẹ nó muốn nó nằm trên này dù hầu hết mọi người thích chỗ kia hơn, cạnh nhà thờ, ở đó cảnh đẹp hơn nhiều. Chúng tôi đều rất buồn, nếu không chúng tôi đã không đề nghị, và dĩ nhiên là có những thế hệ của dòng họ Willard trên này, vì thế nó nằm giữa những người thân của nó.” Họ tiếp tục đi.
“Kia cũng là một đứa bé nữa,” Sam vừa nói vừa giơ tay chỉ.
“Đúng vậy,” ông Holt gật đầu rồi giở mũ ra. “Những chỗ như thế này lẽ ra nên dành cho những lão già như tôi nằm mới phải, nhưng đời không phải lúc nào cũng như ý. Đây, mộ của Grace Culver, cùng tuổi với con trai tôi, thằng Bill. Trên xe buýt, anh con bé bảo sẽ bắn nó bằng súng của bố nó khi chúng về đến nhà, và nó làm thế thật. Đó là năm 56. Đúng rồi, 56.”
“Ôi Lạy Chúa,” Beth thở hổn hển.
“Xin lỗi cô. Tôi không có ý làm cháu đây sợ,” ông Holt vừa nói vừa khoát tay về phía Sam.
“Cháu không sợ ạ,” Sam đáp, ánh mắt nó vẫn điềm tĩnh.
“Cháu đã bị bắt cóc một lần rồi.”
Ông Holt liếc sang Beth. Cô gật đầu. “Đúng đấy.”
“Lúc đó cháu có sợ không?” Holt hỏi Sam.
“Dạ không. Lúc đó cháu còn nhỏ. Và má cháu, bà ấy.... À, cháu vừa trở về với gia đình trước khi nhà trường kết thúc năm học.”
“Cháu bị mấy tháng trời luôn à?”
“Hàng mấy năm đó ạ. Cả cuộc đời của cháu.”
Beth lúng túng chỉnh lại máy ảnh. “Là thế này... có thể ông đã đọc về cháu nó rồi cũng nên... lúc đó chúng tôi sống ở Madison. Cháu là Benjamin Cappadora.”
“Ôi Chúa ơi, đúng rồi. Chúa ơi, đúng rồi,” ông nhìn Sam từ đầu đến chân. “Dù sao trông cháu vẫn tốt.” Rồi quay sang Beth. “Còn cô thì sao? Mọi chuyện đều tốt đẹp cả chứ?”
“Vâng, phần lớn là thế,” Beth nói và cố cưỡng lại mong muốn được kể hết cho con ma hiền lành dễ thương cô gặp trong khu nghĩa trang này rằng “Ông nên tìm hiểu rõ hơn là tin vào mọi điều ông nghĩ mình thấy; con trai chúng tôi bị đánh cắp, và thật ra chúng tôi không có lại được nó, dù ông có thể đọc được trên tờ People một chuyện khác.” Cô muốn hỏi “Ông Holt này, ông có nhiều kinh nghiệm về bản chất của con người rồi, ông nhìn xem, đối với ông, chàng nhóc lịch sự và tò mò này có đang thoải mái trên thế giới này không? Có giống như đứa con hoang đàng của một trong những gia đình may mắn nhất và hạnh phúc nhất không? Còn tôi nữa, trông tôi có giống mẹ nó không? Hay là một diễn viên? Thật ra thì bà má kia của nó mới là diễn viên...”
Đến lúc ấy, Sam hỏi ông Holt liệu những ngôi mộ gần nó nhất có phải là của những người chết trong vụ hỏa hoạn không. Sam nói: “Tất cả đều có tên giống nhau.”
“À, Sam, đó lại là một câu chuyện khác. Carie Moss và bốn đứa con của cô ấy. Đứa lớn nhất mười một, đứa nhỏ nhất mới lên ba.” Beth nhìn xuống mấy hòn đá gọn gàng, tất cả đều hòa hợp khít với nhau thật hoàn hảo, rồi nhìn Sam. Cô có nên chặn ông Holt lại không? Chuyện này kinh khủng quá. Sam đang sững sờ. “Đây là một công nhân đường sắt. Bị mọi người khắp nơi nguyền rủa, cô biết rồi đó. Nhưng hắn được sinh ra ở đây. Theo như hắn nói, khi họ bắt được hắn ở Madison, thì hắn đang yêu Carrie Moss, hắn yêu cô ta từ khi họ còn nhỏ. Một ngày nọ khi chồng cô ấy đang thu hoạch vụ mùa ngoài đồng – ôi, cách nhà có non cây số chứ mấy – hắn mò đến nhà họ.”
Giọng Sam chùng hẳn xuống, nghẹn ngào: “Gã đó... đã giết họ?”
Ông Holt điềm đạm đáp: “Đúng vậy. Ngôi nhà ấy vẫn còn đó, ngay trên đường đi gần dòng suối Keller. Nhà rất đẹp. Nhưng không ai mua. Frank Moss đã chuyến đến sống ở thành phố Des Moines rồi. Không phải, tôi nhầm. Ở quận Dubuque chứ. Chuyện này xảy ra ngay trước chiến tranh... năm 43. Không phải toàn bộ tội ác xảy ra ở thành phố Milwaukee – không, không phải. Không phải toàn bộ vụ việc xảy ra ở Chicago đâu.”
Họ đi lên một con đường mòn nhỏ đến lưng chừng đồi. Bên trái có một cái bia nằm chơ vơ, Beth dừng chân. Không, cô nghĩ. Có lẽ Sam sẽ không nhận ra đâu.
David Taylor Holt. Không ngày không tháng, chỉ khắc độc một bông hoa súng trên nền đá cẩm thạch hồng. Sam ngồi sụp xuống sờ lên tấm bia.
“Người này là bà con của ông ạ?” Beth hỏi nhỏ.
“Đúng. Tôi rất buồn khi phải nói đó là con trai tôi.”
“Chú ấy mất trong chiến tranh ạ? Chú ấy có phải là lính không?” Sam hỏi.
“Sam, từ từ đã,” Beth mắng.
“Không sao. Tôi rất vui khi cháu nó nằm ở đây – tốt hơn là nếu chúng tôi, mẹ nó và tôi, phải xuống dưới thành phố Beloit kia. Đó đã là nơi nó từng sống. Nó không phải là lính đâu con trai à, chỉ là sinh viên thôi.”
“Chú ấy có... có bị bệnh không?” Sam hỏi.
“Không, không. Dù xét về một khía cạnh nào đó thì cháu nói thế cũng đúng. Chúng tôi nghĩ đó là những gì một thanh niên thường trải qua – nhậu nhẹt, bị điểm xấu, trốn học. Nhưng tôi nghĩ có lẽ lúc ấy nó đang phải trải qua một thời kỳ buồn phiền, chán nản. Nó yêu một cô gái, nhưng con bé ấy không đáp lại tình yêu của nó. Và một đêm nọ, khi đang say khướt, nó lái xe về nhà, đậu xe trong gara của căn nhà nơi nó thuê một phòng. Rồi nó cứ mở máy xe. Nó đã mua một bình xăng đầy. Thật tội nghiệp cho bà chủ nhà, bà ấy cũng bị thương nặng lắm.”
“Chú ấy bị tâm thần,” Sam nói. “Tội nghiệp quá.”
“Sam!” Beth không biết phải phản ứng ra sao nữa.
“Cháu nói đúng, Sam. Nó bệnh thật mà chúng tôi không hề hay biết,” ông Holt đưa tay ra quẹt một chòm lá quấn tít vào nhau trên mặt tấm bia sang một bên. “Giờ thì mẹ nó nghĩ Donnie đang ngủ. Mà cũng phải thú thật tôi bảo bà ấy rằng tôi cũng nghĩ thế. Nhưng thực ra tôi biết rõ hơn. Tôi tìm được thứ gì đó, một bài thơ nó đang viết. Bài thơ cũng buồn như mấy bài dân ca vậy. Nó viết: ‘Tôi có thể yếu đuối và cũng có thể mạnh mẽ, nhưng tôi hiện diện trong cái thế giới hiểm ác này quá lâu rồi.’ Cho nên tôi biết lúc đó nó không thể chờ đợi thêm được. Và nó viết có lẽ là vào Giáng Sinh trước đó, khi nó về nghỉ lễ ở nhà. Nhiều tháng trước đó chứ. Chà, chà. Đã mười năm rồi.”
“Ông nhớ chú ấy,” Sam nói.
“Ừ, tất nhiên,” ông lắc lắc đầu như để giũ bỏ hoài niệm. “Giờ thì cô và cháu lên phía trên đi, phía bên trái ấy. Tôi xin lỗi. Tôi phải ngừng chân ở đây.”
“Dạ được,” Beth tán đồng. Nhưng cô không muốn bỏ ông lại đó. Cô muốn đưa ông đến một chỗ nào ấm cúng như ở nhà, như nhà hàng Pepper Pot trong thành phố ấy rồi mua Côca mùi vani và bánh xănguych cho ông và cho cả Sam nữa. Họ có thể ngồi nói chuyện trong một quầng sáng vàng ấm cho đến khi cả ba thấy mạnh mẽ hơn và đầy nghị lực trở lại.
“Chúc cô may mắn, Beth,” ông vừa nói vừa tiếp tục đẩy cái xe trên con đường mòn. “Sam này, chăm sóc mẹ cháu đấy nhé.”
“Cháu cũng chúc ông may mắn ạ,” Sam nói, rồi quỳ xuống gần tấm bia cẩm thạch hồng. “Sao mẹ lại nghĩ đây là hoa súng?”
“Mẹ không biết. Có thể là chú ấy thích hoa súng.”
“Mùi của nó ghê quá. Nhưng ông ấy là một ông già dễ thương mẹ nhỉ.”
“Ừ. Tội nghiệp thật.”
“Vâng,” Sam ngừng lại một lát. “Ý mẹ là tội cho ông hay cho con trai ông?”
“Cả hai.”
“Con không biết về chú ấy,” Sam chỉ vào phía tấm bia hồng đang lấp lánh trong ánh nắng chiều muộn. “Đối với chú ấy thì có lẽ như thế lại tốt hơn.”
Beth sững sờ, chiếc máy ảnh đong đưa. “Con nói thế nghĩa là sao?”
“Nghĩa là chú ấy buồn khổ quá, có lẽ tốt cho chú ấy nhất là chỉ... ngủ yên. Có những điều còn tồi tệ hơn là chết nữa.”
Beth há hốc miệng kinh ngạc. Chiếc máy ảnh đung đưa đập vào ngực cô. Bỗng nhiên cô muốn được lay người Sam, hay vả cho nó một cái. “Sam, chú ấy chết rồi. Cuộc đời chú ấy đã hoàn toàn chấm dứt rồi. Không phải chú ấy đang ngủ đâu. Chính chú ấy tước đoạt cuộc sống khỏi bản thân và cha mẹ đấy chứ. Và tất cả là vì một điều gì đó lẽ ra chú ấy đã phải vượt qua nếu chú ấy biết tận hưởng thời gian quý báu của cuộc đời mình.”
Sam ngoan cố di di mũi giày, hất hất đám đất tơi xốp dưới chân. “Cũng có thể không phải. Có thể chỉ vì chú ấy buồn quá.”
Mình ngã xuống mất, Beth nghĩ. Đất dưới chân như đang kéo cô xuống bằng những tiếng rền rĩ ngày càng nhiều hơn vọng lên từ lòng đất. Ngày một dữ dội hơn, xương cốt dưới các nấm mồ cũng lên tiếng cảnh cáo cô bằng thứ âm thanh rợn người của đám lá dương rung rinh trên đầu, càng lúc càng dữ dội.
Lưỡi hái đã vung lên phả ra hơi thở của nó; và thật ra thì nó đã chém hụt Ben. Ben, hay Sam, đã phải chịu đựng một thời thơ ấu khá khó khăn, tuy vậy, với tư cách là Sam, nó đã vượt qua được. Nhưng bây giờ, tinh hoa của nó không phát tiết thêm nữa. Nó chỉ đang tồn tại, và chỉ nhờ vào bản chất mạnh khỏe tự nhiên của nó mà thôi.
Không phải nhờ nó đã được về, được gặp lại các thành viên trong nhà. Không phải. Lợi ích của họ lại là mất mát của nó. Beth đã được trả lại một đứa con xa cách với mình vời vợi.
Gì thì gì, cô lại chẳng may mắn, hạnh phúc hơn bao nhiêu người khác trong nhóm Trắc Ẩn sao?
Cô có thể thấy được con mình; cô biết rằng nó thích nhất món gyro và ya-ua cho bữa ăn tối, rằng nó không phải một độc giả đọc kỹ lưỡng cẩn thận mà là một người đọc rất nhanh, rằng nó đánh vi tính rất giỏi mà không cần nhìn bàn phím; cô đã được chứng kiến bước chuyển đổi lớn của nó từ một chú hề to xác nhăn mặt làm trò với các đồng đội thành một vận động viên nghiệp dư với cú đỡ bóng chày tuyệt đẹp khiến Pat hạnh phúc đến ứa nước mắt.
Cô biết con mình đang ở đâu, Beth nghĩ khi tia nắng cuối cùng tỏa xuống từ đỉnh đồi. Và rõ ràng không phải ở đây.
“Sam, mẹ muốn hỏi con một chuyện.”
“Gì vậy mẹ?” Sam đứng lên, phủi bụi.
“Có bao giờ con ước ao được chết không?”
“Không,” nó đáp ngay.
“Vậy con ước gì?”
“Con vừa nói là có nhiều điều còn tệ hơn chết nữa rồi mà.”
“Như là gì?”
“Như việc mọi người luôn can thiệp vào đời sống của ta và ép ta ở một nơi mọi người đều ghét ta.”
“Con nghĩ là... chúng ta ghét con à?”
“Không phải mẹ.”
“Vậy thì ai chứ?”
“Anh Vincent ấy.” Nó cầm dụng cụ hắt sáng của Beth lên, ngoảnh lại về phía đồi. Có một tia sáng lóe lên trên đó, và trong thoáng chốc, Beth tưởng đó là một sao băng; nhưng rồi cô nhận ra đó là ánh chớp từ tháp truyền thanh để báo cho máy bay không được đến gần. “Khi con còn ở nhà bên kia, con với ba có nói chuyện với nhau, ông nói hai cha con có thể liệt kê ra một danh sách về những điều không tệ khi con trở về đây. Và con đã viết một trong những điều đó là được có anh có em.”
“Rồi con thấy sao?”
“Và rồi... ý con là Kerry rất dễ thương, còn anh ấy nhìn con như thể... lạy Chúa, mẹ thấy anh ấy nhìn con như thế nào rồi đó!”
“Sam này, mẹ nghĩ anh ấy nhìn con cũng giống như nhìn tất cả mọi người trong gia đình thôi mà. Anh ấy... anh ấy đã có một thời bị khủng hoảng tâm lý.”
“Nhưng đó có phải là lỗi của con đâu! Con vẫn thường nói với bố mẹ như thế mà!”
Cô không thấy rõ nó, chỉ thấy được đôi vai oằn xuống, nhưng Beth cũng đưa tay ra ôm lấy nó. Nó không cưỡng lại; có lẽ cô đã tưởng tượng, nhưng hình như nó có hơi níu lấy cô một chút.
“Ôi, Ben... Sam con,” cô thì thầm vào tai nó. “Con có biết là mẹ đã không thể ôm con như thế này bao nhiêu triệu năm rồi không? Và con đã không được mẹ ôm bao lâu rồi không?”
Nó vỗ vỗ lưng cô như một đồng nghiệp thân thương, như ông Angelo vẫn hay làm. Nó nói: “Họ có ôm con. Họ ôm con suốt.”
Cô đơ ra, không thể thốt nên lời. Cổ họng cô tê dại với cảm giác xót thương và một lương tâm cắn rứt.
“Con ao ước điều gì hả Sam?” cuối cùng thì cô cũng hỏi được.
“Con không biết nữa. Chỉ là... con ước được sống như trước đây. Ngoại trừ một điều là đừng làm mẹ và bố Pat buồn. Bố mẹ buồn thì con cũng không chịu được. Con chỉ... con cũng không biết nữa.”
Lúc ấy Beth nghĩ đến những câu hỏi trước đó Sam thường đặt ra, và cô đã phải cố không biến mỗi câu trả lời thành một bài diễn văn dài bốn mươi lăm phút. Khi nó còn bé, con Beowulf có thích nó không? Nó có được thấy Kerry ngay khi con bé được sinh ra? Beth có nhớ là nó bị dị ứng với mùi quế không? Nó biết chắc là bây giờ nó dị ứng với mùi đó dù ông George nói là chỉ vì nó đã có lần nôn ra tất tần tật sau khi đã ních cả một túi nửa ký bánh sữa nhỏ tẩm đẫm nước đường có mùi quế. Sau mấy tuần liền với những câu hỏi nho nhỏ, những câu trả lời nho nhỏ như thế Beth mới dám đánh liều: một chiều Chủ Nhật rảnh rỗi, cô gọi Sam đến và nói cô muốn cho nó xem một thứ. Mắt nó ánh lên vẻ sợ hãi khiến cô muốn thôi ngay; nhưng cô cố buộc mình phải tiếp tục, cô đưa nó lên phòng cô và Pat, đến cái rương bằng gỗ tuyết tùng mà Rob Maltese đã làm cho họ như một món quà cưới, phần lớn được Pat dùng làm nơi chứa áo sơ mi để đem đi hấp. Cô gạt mấy cái áo sang một bên.
Beth vẫn luôn biết mình là một người sắp xếp rất luộm thuộm. Đó là một trong những khuyết điểm trong lý lịch làm mẹ của cô. Quyển sách thời thơ ấu của Vincent ghi đầy đủ ngày tháng bên lề: không những ngày tháng khi nó mọc răng, mà còn ghi cả những sự phát triển về tính khí, về các cử chỉ, những cột mốc phát triển trí tuệ mà Beth xem đó là bằng chứng cho sự xuất hiện một thiên tài. Ngược lại, hai cuốn album của Ben và sau đó là của Kerry chỉ có hình và thiệp. Beth cũng không chắc lắm về ngày tháng ghi chú trong đó vì hầu hết đều được ghi ngày trễ hơn so với thực tế.
Nhưng cô đã làm được một việc rất cẩn thận và rất tốt. Đó là từng chiếc áo rửa tội và áo “mặc từ bệnh viện về nhà” của mỗi đứa con cô với những tấm ảnh và các vật lưu niệm của những ngày đáng nhớ đó đều được bỏ vào một phong bì bằng nhựa trong và được dán kỹ lưỡng. Tất cả đều được đặt trang trọng trong chiếc rương gỗ tuyết tùng đó, vẫn còn nguyên vẹn, không hề suy suyển theo năm tháng.
Trước tiên cô lấy phong bì của Vincent ra rồi để mặc Sam lấy ra từng món – nó là một đứa trẻ hiếu kỳ và luôn khát khao học hỏi mà – và sau đó là phong bì có đề “Benjamin Patrick Cappadora”.
Sam đã phá ra cười. “Quần áo gì mà nhỏ tí xíu. Con nhỏ vậy thôi á? Cứ như quần áo cho búp bê của Kerry.” Có mấy cái quần áo của Ben, Beth nghĩ, giờ đã thật sự là quần áo cho búp bê của Kerry rồi; cô đã suýt nói ra điều đó.
Rồi Ben nhấc cái áo ren mà bà nội Rosie đã âu yếm thêu từng đường kim mũi chỉ đưa lên mũi hít hít cái mùi ngòn ngọt phảng phất mùi chuồng nhốt chuột lang.
“Mùi này là mùi gì hả mẹ?”
“Mùi cây tuyết tùng. Nó giúp giữ cho quần áo không bị mối mọt cắn. Thường thì tủ được lót bằng thứ gỗ này. Con chưa ngửi thấy mùi này bao giờ à?”
Sam quả quyết đáp: “Dạ chưa. Cũng có thể... hình như má con cũng có một rương giống cái này. Hình như thế. Má đem từ Hy Lạp về. Hình như hồi nhỏ con có chơi với nó.” Nhưng gương mặt nó không có vẻ tự tin lắm. “Con nghĩ vậy nhưng chẳng biết có đúng không.”
Và rồi Beth vui mừng nhận ra rằng mắt nó đang ầng ậng nước. Cô chưa từng thấy Sam khóc ngoại trừ lần nó hôn từ biệt ông George tại trung tâm tiếp nhận. Giờ thì nó đang đưa tay quẹt nước mắt với bàn tay run lẩy bẩy của một thằng nhóc chỉ mới mười hai tuổi.
“Gì thế, Sam?” cô hỏi và đánh bạo nghĩ Đây rồi. Một điều gì đó, một động cơ đã được sang số. Nó đã nhớ ra. Và rồi nó đưa tay ra vỗ vỗ nhè nhẹ vào vai Beth. “Con xin lỗi.”
“Về chuyện gì chứ, cưng?”
“Con xin lỗi vì chuyện này đã xảy ra với mẹ. Con biết mẹ quý thứ này...mẹ yêu con lắm khi mẹ làm như thế này. Con xin lỗi.”
“Sam... con không phải xin lỗi gì hết.”
Nó lắc đầu quầy quậy, lần này mạnh mẽ hơn. “Nhưng con cũng nghĩ là bố mẹ tin rằng ba má con là người xấu. Mà thật ra thì họ không phải thế.” Nó tiếp tục nói, Beth không thể nghe hết được, cô thấy bụng mình lạnh toát. “Khi con nói xin lỗi vì chuyện này đã xảy ra thì không phải là con không yêu ba con. Và con cũng yêu má con nữa, Beth. Má con có muốn bệnh đâu.” Beth điếng người gật đầu, cô máy móc cầm lấy chiếc áo rửa tội và gấp nó theo những đường gấp cũ để nó không rã ra. Giờ thì Sam vừa khóc nức nở vừa nấc lên từng chặp một. Cô muốn ôm chặt nó vào lòng, xoa tấm lưng to rộng với những dẻ xương non nớt nhô ra của nó. Cuối cùng thì nó cũng nín khóc. “Beth ơi, hôm nay cho con gặp ba con nhé?”
Sau đó, khi từ nhà ông George về, mặt mũi nó nhẹ nhàng tươi tỉnh hơn, ít căng thẳng hơn hẳn. Nó chơi trò Sorry với Kerry. Nó ra khỏi phòng đề nghị Vincent chơi nhảy vòng với nó. Nhưng Beth không thể quên được vẻ mặt van nài của nó khi nó quỳ bên chiếc rương, cái giọng hốt hoảng của một đứa trẻ đang lựa lời năn nỉ người lạ giúp nó tìm được đường về nhà.
Cô đã cố kể cho Pat nghe về chuyện chiếc rương nhưng Pat cười phá lên gạt phắt đi. “Bethie, em làm sao nhớ được những chuyện lúc sáu tuần tuổi chứ. Đừng có bé xé ra to như thế. Nó sẽ ổn thôi.”
Giờ thì Pat biết lắng nghe hơn rồi. Anh cũng chẳng còn cách lựa chọn nào khác.
Khi bóng đêm bao trùm lên nghĩa trang Rock of Ages và khi Beth và Sam cất mấy cái máy ảnh vào cốp xe, Sam hỏi liệu nó có thể nằm ở ghế sau được không. “Được chứ, cưng. Ngủ đi con.”
Sự việc ngày càng trở nên tệ hơn, Beth nghĩ; họ đã cho nó cuộc sống, cô chỉnh lại kính chiếu hậu để ngắm đứa con đang ngủ ngon; đó là một thỏa hiệp. Chẳng ai đòi họ phải trả lại nó cuộc đời nó đang thương tiếc bằng cái giá của cuộc đời nó vừa tìm lại được. Nhưng đó chẳng phải là một phần của thỏa hiệp hay sao?
Cô cần nói chuyện với Pat. Cô đã không đủ can đảm để nói chuyện với Pat. Anh sẽ bác bỏ mọi lời cô nói, sẽ có đủ lý lẽ để bào chữa; làm sao cô cãi lại anh được?
Một cú điện thoại, lúc đó Beth đã nghĩ thế – và cô suýt ngừng xe lại, quên khuấy đi là đã quá khuya rồi và sẽ làm Sam thức giấc. Không, ngày mai cô sẽ tìm số điện thoại đó. Cô biết nó nằm trong cuốn danh bạ. Trong suốt mấy năm qua cô đã tìm nó cả chục lần rồi, và biết văn phòng đó đã chuyển đi khi thấy số điện thoại ấy thay đổi.