← Quay lại trang sách

13. GIỌT LỆ THÂM TÌNH

Trời đêm của Ba-qua lạnh hơn Ca-tỳ-la vệ. Cái lạnh bên ngoài đã len vào bên trong chòi nghèo càng lâu càng nhiều. Thầy Thiện Duyên phải dùng đến y tăng già lê đắp lạnh trong khi ông lão vẫn ngồi hơ lửa.

Mặc dù mệt nhọc vì đường xa, thầy cảm thấy thích thú với cuộc đối thoại đượm tình phụ tử mà thầy trải qua nhiều cảnh dâu bể gian nan mới tìm được. Thầy tiếp tục câu chuyện:

- Thưa lão trượng, nếu cậu Thiện Duyên thực sự đến rước lão về Sa-oách-thi thì lão trượng nghĩ sao?

- Vấn đề phải được xét suy cẩn thận. Nếu việc đi lại của lão gây trở ngại cho hạnh phúc của con lão thì lão nhất quyết ở lại đây.

- Nếu cậu Thiện Duyên xuất hiện ngay trong chòi này thì lão trượng có mừng lắm không?

- Dĩ nhiên là lão mừng nhiều lắm, lão cho rằng không niềm vui nào bằng niềm vui phụ tử trùng phùng. Khi mẹ nó còn thì tình thương của lão được chia đôi. Nay mẹ nó mất thì tình thương được giành cho nó trọn vẹn. giờ đây nó là linh hồn, là lẽ sống của lão. Bởi lão sẽ mãi mãi không có linh hồn, không có lẽ sống nếu mất nó.

- Lão trượng ơi, hiện tại lão trượng đang sống rất gần cậu ấy

- Sao? Ông sa môn nói sao? Bộ ông có gặp nó phải không? Ông gặp nó ở đâu? Nó đang làm gì?

- Không phải bần đạo gặp cậu ấy mà chính cậu ấy đã đến đây rồi.

Nỗi vui mừng khiến lão mất bình tĩnh, lão đứng lên đi nhanh về phía thầy Thiện Duyên và nắm hai tay thầy hỏi dồn: Ông, ông gặp nó ở đâu? Làm ơn chỉ giùm lão, lão sẽ đến ngay.

- Lão trượng không cần đến gặp vì chính cậu ấy đang ở trước mặt lão trượng.

- Ồ! Ông là Thiện Duyên, con của lão thật sao? Vừa nói, ông lão vừa nhìn phía sau ót tìm kiếm. Một cái bớt son hiện ra. Vừa nhìn thấy lão ôm chầm lấy Thiện Duyên, rờ đầu, rờ cổ, rờ khắp cả tứ chi. Giọt lệ thâm tình chảy ra vì niềm vui đột ngột.

Để tôn trọng mối tình phụ tử thiêng liêng, thầy im lặng bất động lắng nghe tiếng nấc nho nhỏ của cha già và tiếng reo mừng của những dòng máu đang chảy về tim. Mãi lâu sau thầy mới cất tiếng an ủi:

- Phụ thân đừng khóc nữa, mà hãy vui mừng thực sự vì phụ tử đã được trùng phùng. Từ nay phụ tử sẽ không còn chịu cảnh chia li.

- Con ơi! Cha không nghĩ là gặp được con trong hình thức tu sĩ thế này. Giờ đây cha càng nhớ mẹ con nhiều hơn. Nếu còn sống, chắc mẹ con sẽ rất vui mừng. Con về trễ. Mẹ con không còn nữa. Lão ngó lên nóc nhà nói qua hơi thở: “Mẹ nó ơi, hôm nay nó đã về thăm chúng ta. Hồn mẹ nó có linh thiêng về đây chứng cho lòng thành của con trẻ”

Thầy Thiện Duyên đỡ cha ngồi xuống bên giường và cũng tự mình ngồi xuống một bên bóp vai, bóp tay và bóp lưng cho cha già, cử chỉ vô cùng thương kính.

Ông lão băn khoăn gặng hỏi:

- Thiện Duyên con, mấy năm nay con sống thế nào? Ông bá hộ Đa-Phúc có được bình an không? Tại sao con lại đi tu? Bằng cách nào con đến được đây? Con hãy kể cho cha nghe với.

Thầy tường thuật đầy đủ chi tiết. Từ ngày giúp việc trong gia đình ông bà hộ Đa-Phúc đến chuyện lòng gặp phải trái duyên, rồi ra sống lưu lạc biến mình thành thảo khấu và cuối cùng được xuất gia làm tỳ-kheo trong đạo tràng của đức Phật. Thầy kết thúc: Thưa phụ thân cuộc sống hiện tại của con nhiều ý nghĩa: độc lập, tự do, không bị ràng buộc bởi gia đình, tài sản, sống tự tại vô ngại như tù được tha, như chim được thả, vô cùng an tịnh. Chỉ có một vấn đề khiến con ưu tư là làm sao hướng dẫn và an trú phụ thân vào con đường chánh pháp, để phụ thân được tắm gội trong hào quang giải thoát, có một đời sống độc lập, tự do an tịnh như con.

Ông lão tiếp lời hội ý:

- Này con, con đi đường xa mệt mỏi, hãy ngủ lấy sức, còn vấn đề con nói, thủng thỉnh sẽ tính sau.

Thầy Thiện Duyên vì quá mệt mỏi, nên vừa nằm mệt mỏi nên vừa nằm niệm đề mục là ngủ ngay. Thầy ngủ thật ngon. Một phần vì mệt thể xác, một phần vì vui tinh thần. còn ông lão thì quá vui vì được gặp được con đồng thời cũng quá buồn vì nhớ vợ nên không ngủ được. Thỉnh thoảng nhìn thầy Thiện Duyên ngủ, lão cảm thấy phấn khởi và ấm lòng. Đã mấy lần định ngủ đi nhưng không hiểu sao, lão cứ tiếp tục ngồi hơ lửa và chốc chốc lại nhìn con.

Trời gần sáng, thầy Thiện Duyên cũng vừa thức, Thấy ông lão ngồi hơ lửa, thầy hỏi:

- Phụ thân thức lâu chưa?

- Cha ngồi đây suốt từ đêm qua con ạ.

- Phụ thân đi ngủ một chút kẻo mệt.

- Không sao đâu. Cha quen rồi. Có khi không ngủ hai ba đêm cũng chẳng sao. Hơn nữa, đêm nay được gặp con cha mừng quá! Không cần ngủ, ngồi nhìn con ngủ cũng sung sướng rồi. Cha mừng như chết đi sống lại. Ờ, sáng nay tới ngày cha hẹn phải chở tre giao khách. Con ở nhà chờ cha nhé. Cha sẽ mua thức ăn ngon về đãi con, gọi là tiệc tẩy trần để mừng ngày vui đoàn tụ.

Nói xong, không chờ phản ứng, ông lão leo lên chiếc xe bò từ từ khuất dạng.

Còn lại một mình, thầy Thiện Duyên ra ngoài quan sát địa thế. Phía Bắc là Tuyết Sơn Hy Mã. Thật đúng như cái tên của nó, quanh năm tuyết phủ. Trông xa cũng như nhìn gần, lúc nào đỉnh núi cũng chìm trong đống tuyết khổng lồ. Đối với người địa phương thì màu tuyết trắng không còn ngoạn mục và nên thơ. Nhưng người Nam Ấn như thầy Thiện Duyên thì quả thật cảnh ấy vô cùng hấp dẫn. Sau khi thưởng ngoạn thiên nhiên của tuyết sơn Hy Mã, thầy quan sát thấy con đường vào thị trấn Ba-qua thỉnh thoảng có những cái chòi như cái chòi của phụ thân thầy hoặc những ngôi nhà tương đối khá hơn nhưng chung quanh là gia đình của những người làm nghề đốn củi, đốn tre. Thấy có thể đi khất thực thầy bèn đắp y, mang bát đi chậm chậm trên đường và dừng lại ở những nơi có nhà. Dân địa phương chưa từng thấy nhà sư đi khất thực nên túa ra đứng xem. Có kẻ hiếu kỳ đến gần hỏi cho rõ lẽ. Được biết mục đích khất thực của thầy, họ gọi nhau bố thí. Nhận thấy vật thực vừa đủ no, thầy trở về chòi, dành riêng cho phụ thân một phần, thầy dùng phần còn lại.

Đến chiều, phụ thân đánh xe về tới. Sau khi tháo ách cho bò ăn cỏ, ông lập tức vào chòi dọn thức ăn đãi thầy. Thầy cho biết là mình ăn ngọ và trình bày thêm một ít giới luật liên hệ sinh hoạt ẩm thực để phụ thân được thông cảm. Đồng thời thầy cũng kính hiến những thức ăn mà thầy khất thực được ban sáng. Phụ thân thầy lấy làm ngạc nhiên. Thầy lại trình bày về truyền thống hành khất của hàng sa môn. Cảm thông những điều thầy nói, ông lão hoan hỉ nhận dùng. Sau bữa cơm, cuộc đối thoại giữa hai người tiếp tục.

- Thưa phụ thân, trong những ngày sống xa quê, phụ thân có được an vui không?

- Chẳng những không có an vui từ độ ấy, mà ngay từ ngày mở mắt chào đời, cha cũng đã khổ rồi con ạ.

- Vậy theo phụ thân, ai mới là người có hạnh phúc?

- Những người thuộc giai cấp Bà-la-môn, Sát-đế-lị vì tài sản nhiều, quyền hành rộng, địa vị cao, đời sống họ đầy đủ, tiện nghi.

- Phụ thân cho rằng suốt đời họ chỉ có vui cười mà không bao giờ buồn khổ sao?

- Cũng có khi họ buồn khổ nhưng tương đối ít hơn những người thuộc giai cấp Thủ-Đà-La chúng ta.

- Không nhất thiết như vậy đâu phụ thân. Vì hình thức khổ thì khác nhưng bản chất khổ không khác. Khổ nào cũng khiến người ta héo hon, sầu não, bi lụy khóc than, ruột gan như dao cắt, nhức óc, nhói tim. Sự khác biệt về hình thức khổ đại khái như khổ sanh thì nhớp nhơ, nguy khốn, khổ già thì bạc nhược, suy tàn, khổ đau hôi cơm nghẹn nước, khổ chết thì đau đớn tâm can, khổ ái biệt li thì than van sầu thảm, khổ oán tắng hội thì bực tức xốn xang, khổ cầu bất đắc thì bi quan tuyệt vọng, khổ ngũ uẩn thì biến hội vô thường, nạn tai chồng chất, kiếp người không thể tìm được hạnh phúc chơn thường. Cái hạnh phúc nếu có, đó chẳng qua là hiện tượng hoặc cảm giác của cái khổ được giảm thiều mà thôi. Ví như người bị thương, máu chảy nhiều rất khát nước. Được uống nước thì khoái khẩu và sung sướng. Nhưng hậu quả vô cùng khủng khiếp. Vì càng uống nhiều thì máu càng ra nhiều, không cầm được, cuối cùng bị chết vì khoái cảm nhất thời được uống nước.

Muốn sống muốn có hạnh phúc, người bị thương phải chịu khó nhịn khát. Không uống nước thì dễ cầm máu. Máu ngưng chảy là mạng sống an toàn. Còn sống thì tha hồ uống, uống bao nhiêu cũng được, vô hại. Hạnh phúc từ đó sẽ hình thành.

Một ví dụ khác. Trưa hè, nóng như thiêu đốt thịt da. Trước mắt sóng nắng chập chờn như nhảy múa. Người ngu bực tức, cắm cổ chạy rượt bắt nó. Càng chaỵ càng phí sức vô ích. Cuối cùng mệt ngất, té xỉu, hoài công. Người trí hành động ngược lại, không đuổi bắt sóng nắng. Bình tĩnh kiếm chỗ mát ngồi quạt. Từ từ mát khỏe và an lạc.

Thưa phụ thân, những ngày qua con là người bị thương, máu ra nhiều nhưng nhờ nhịn khát không nô lệ cái khoái cảm uống nước nhất thời nên vết thương đã hoàn toàn bình phục. Hiện tại vị lai, con có quyền uống nước tự do, tùy thích.

Và, con cũng là hình ảnh của lữ hành khôn ngoan. Mặc dù trưa hè nóng bức, sóng nắng chập chờn như trêu tức nhưng con không nông nổi chạy rượt, ung dung tìm chỗ mát ngồi quạt. Do đó, con không bị nóng thêm, không bị kiệt sức ngã gục mà trái lại được mát khỏe, an bình và hạnh phúc.

Phụ thân ơi, con ước mong phụ thân về sống với con. Trước là con được sớm hôm phụng dưỡng phụ thân, sau phụ thân có cơ hội điều trị tâm bệnh, nguyên nhân của các sự thống khổ hoặc đình chỉ việc vượt bắt sóng nắng, ngồi nghỉ cho khỏe, quạt cho mát như con đã làm và làm có kết quả. Nhận đi phụ thân, nhận đi con mừng.

Sau một lúc khá lâu trầm tư suy ngẫm, lão nhìn thầy Thiện Duyên với ánh mắt thật hiền và hoan hỉ tùy thuận:

- Nhưng chiếc xe và mấy con bò thì giải quyết cách nào đây?

- Phụ thân đừng quan tâm mọi vật mà chỉ nên ưu tư tự thân. Ta sanh ra không mang theo bất cứ ngoại vật nào, mãi lớn khôn ta mới tạo hưởng. Còn tự thân thì ta mang ngay theo trong trứng nước. Vậy, vấn đề đáng ưu tư, cần giải quyết là sự mất, còn của tự thân chớ không phải ngoại vật. Nhược bằng phụ thân muốn giải quyết cho có ích lợi thì con đề nghị mời bà con đồng nghiệp đến nhận vật thí bằng cách bốc thăm. Như vậy rất công bằng. Phụ thân được phước và có cơ hội cổ võ hạnh bố thí lợi tha. Những người bốc trúng sẽ được tài vật và sẽ vô cùng hoan hỉ. Phụ thân nghĩ xem, mình có nên làm như vậy không?

Nhờ khéo giải thích hướng dẫn nên cuối cùng ông lão dứt khoát làm theo đề nghị của thầy