28. RỜI CÔ-KI-LA
Tiếp tục công trình du hóa, thầy Thiện Duyên rời Cô-ki-la trong sự thương kính của mọi người trong xóm nhất là giới Phật tử ngộ đạo. Sở dĩ, thầy chiếm được cảm tình của mọi người trong xóm là nhờ thực hiện Tứ Nhiếp Pháp: Bố thí, Ái ngữ, Đồng sự và Lợi hành. Họ không muốn thầy đi và yêu cầu thầy ở lại tiếp tục hướng dẫn họ tu hành.
Mọi người đều khẩn khoản nhưng thầy nhất quyết ra đi vì sứ mạng du hóa đang réo gọi thầy. Một sứ mạng chẳng những do thầy tình nguyện mà cũng đã tạo cho thầy nhiều khích lệ và tin tưởng. Thầy tự cảm thấy cuộc đời mình như cách chim trong bầu trời cao rộng, chẳng chút bận lòng.Thầy đã quen với nếp sống tự do, phóng khoáng, vui thú tiêu dao, không màng danh lợi. tuy nhiên, trước phút chia tay những người con Phật có nhiều đạo tâm và thiện cảm, thầy không tránh khỏi bồi hồi xúc động. Thầy hứa, trên bước đường du hóa, nếu có hoàn cảnh thuận duyên, thầy sẽ trở lại nhiều lần nữa.
Đối với thầy, tâm nguyện du hóa là tuấn mã, đạo tâm đạo tình của Phật tử là thực phẩm Tứ Nhiếp Pháp, là áo giáp phòng thân, tứ vô lượng tâm là khí giới khắc định, còn bầu trời là mái nhà, cỏ đất là nệm ấm, cầm thú là bạn hiền. Do đó, sự ở hay đi của thầy hoàn toàn tự do, không hề vướng bận. Hơn nữa, thầy biết rất rõ là bất cứ sự vướng mắc nào cũng khiến phiền não sanh khởi. Thầy cố gắng quên, quên thôn xóm Cô-ki-la, quên những kỉ niệm liên hệ người và vật. Trên con đường thiên lý những nơi tạm dừng bước, thầy đều khuyến tỉnh mọi người tu thần hành thiện để được hưởng đời sống an lạc. Làm xong nhiệm vụ ấy, thầy lại tiếp tục hành trình.
Một buổi chiều mùa hạ. Trong khi rảo bước tìm nơi tạm trú trước khi hoàng hôn tắt nắng, thầy cảm thấy chân tay rã rời, cổ họng khô đắng vì quá khát nước. Nhìn quanh, thầy phát hiện về phía tây mặt, một cánh rừng xanh um chạy dài thẳng tắp. Gần cánh rừng có một cây cổ thụ đứng chênh vênh, buông tán mát như cây lộng. Cố đi nhanh về hướng ấy và ngồi nghỉ mệt, nhưng vì quá kiệt sức, nên vừa ngồi dựa gốc cây là thầy ngủ thiếp. Sau khi thức giấc, mở mắt nhìn quanh, bỗng thần hồn muốn lìa thân xác vì ngay trước mặt, cách đó không xa, một con hổ to như con bò mộng đang ngồi nhìn thầy, liếm mép. Tay chân thầy như cóng lại, muốn nhúc nhích cũng không được thì nói chi đến chuyện thoát thân. Cuối cùng, thầy bất động, vô kế khả thi, đang ngồi chờ chết. May mắn làm sao ngay lúc tuyệt vọng ấy bỗng trong tiềm thức thầy hiện lên hình ảnh từ bi vô lượng của Đức Phật. Như khách sa mạc gặp nước, thầy chánh niệm ngay hình ảnh Đức Phật làm đề mục thiền quán. Nhờ thiền quán, thầy từ từ lấy lại bình tĩnh. Cùng lúc ấy thầy liên tưởng đến phương pháp hành trì để đạt được sự an ổn của các bậc thánh nhơn khi ngộ biến, đó là lòng hỉ xả. Không chậm trễ, thầy lớn tiếng phát nguyện: “Mục đích xuất gia của đệ tử là giải thoát và giác ngộ. Đệ tử xin hiến dâng thân mạng này cho chánh pháp. Nếu vì tiền căn nghiệp báo thì con hổ này cứ ăn thịt đệ tử. Đệ tử xin vui lòng trả nợ đã vay. Bằng như đệ tử và con hổ không phải là oan gia thì xin cho mỗi người mỗi ngả mà định nghiệp đã an bài”. Vừa tận dụng năng lực của lòng hỉ xả vừa can đảm nhìn thẳng mắt hổ thì lạ lùng làm sao, chỉ trong phút giây, con hổ biến mất vào rừng rậm. Thầy thở ra nhẹ nhõm, cảm giác như trút được khối đá ngàn cân. Không chậm trễ và cũng không còn thấy khát nước, mệt mỏi thầy lập tức rời khỏi nơi ấy, đi nhanh về phía trước, không dám ngoảnh lại.
Trời vừa tối, thầy cũng vừa đến một thôn nghèo. Thấy có ánh đèn leo lét từ một chòi tranh gần đường, thầy đi thẳng đến kêu cửa xin nghỉ nhờ. Chủ nhân là một người trung niên, màu da sạm nắng, nét mặt phong trần. Thầy được tiếp đãi ân cần và thân thiện. Được uống nước và được ngồi nghỉ trên cái giường tre cũ kỹ, thầy cảm giác vô cùng sảng khoái như được uống sữa tươi và ngồi nệm gấm. Trong khi thầy ngồi nghỉ mệt, người trung niên đi vào sau chòi và bưng ra mâm cơm đãi thầy. Mâm cơm tuy đạm bạc nhưng so với cái bịnh đói đang cào xé ruột gan thầy, thì quả là thật còn quí hơn cao lương mỹ vị. Thầy hết sức cảm ơn nhưng cho biết là mình không dùng vật thực phi thời.
Nhìn thầy với cặp mắt ngạc nhiên, người trung niên cố ép:
- Trông ông quá kiệt sức. Tôi tưởng ông nên ăn chút ít cho đỡ đói, đâu có hại gì.
- Đúng vậy, nếu tôi ăn thì cũng không có gì hại. Chỉ có điều là tôi làm hư hại giới thể mà Đức Phật đã quy định cho người xuất gia mà thôi.
- Ông cố chấp giới luật thái quá chỉ khổ thân mà thôi. Trong hoàn cảnh như thế này, tôi nghĩ ông nên châm chế.
- Này đạo hữu, trên đời có ba hạng người: hạng người vì đạo, hạng người vì đời và hạng người vị ngã. Hạng thứ nhất là người quyết tâm tu hành chánh pháp dù phải hy sinh tính mạng trước bạo lực chớ không chết vì bạo lực này kém bạo lực khác. Hạng thứ hai không trọng đạo mà chỉ trọng đời. Trong trường hợp bất khả kháng dám hành động xem thường chánh pháp miễn đời ca tụng tôn sùng là được. Đây cũng là hạng người vì danh. Hạng này đôi khi cũng có những hành động tốt nếu chiều hướng dư luận tốt. Còn hạng người thứ ba bất chấp lý tưởng và dư luận chỉ biết hành động theo sở thích cá nhân, xem thường tội phước nghiệp báo. Hạng này không cần đến lương tri và lương năng, nghĩa là bất lương.
- Này đạo hữu, tôi tình nguyện làm người thứ nhất, tức hạng người vị đạo. Do đó tôi sẵn sàng chấp nhận tất cả thử thách, kể cả phải hy sinh thân mạng.
Với cái nhìn hoàn toàn kính phục, người trung niên nói:
- Thưa ông Sa môn, xin ông bỏ lỗi về những ý nghĩ hẹp hòi cục bộ của tôi. Giờ thì tôi mới hiểu ra rằng, trên đời giá trị phẩm đức, trí thức và giáo dục của con người hoàn toàn dị biệt. Lần đầu tiên, tôi được hạnh ngộ một người hội đủ ba thứ giá trị vừa kể.
- Này đạo hữu, người đời muốn duy trì những thứ giá trị ấy, trước hết phải thành thật với mọi người. Không thành thật với chính mình thì cũng sẽ không thành thật với tất cả. Là Sa môn, bần đạo phải thành thật với tự thân nghĩa là phải nghiêm hành quy luật của Đức Phật đã chế định – không lưng chừng hoặc chiếu lệ. Vì hành động tắc trách là thiếu thành thật, là phản bội lý tưởng giải thoát, và là người mị đời phá đạo.
- Thưa ông Sa-môn, tôi vô cùng hoan hỉ với lý lẽ thiết thực mà ông trình bày. Nhưng thưa ông, ngoài các giới không ăn phi thời, ông còn giữ bao nhiêu giới nữa.
- Bần đạo giữ tất cả 227 giới.
- Nhiều quá thì ông làm sao giữ được?
- Này đạo hữu, vấn đề cũng đơn giản thôi. Nếu đạo hữu có 227 con bò thì đạo hữu phải chăng bằng hai phương cách:
* Cách thứ nhất, đạo hữu cầm roi đứng chăn. Nếu thấy con nào tách khỏi đàn thì lập tức lùa nó nhập đàn. Như vậy là đạo hữu bận rộn cực khổ suốt ngày.
* Phương cách thứ hai là đạo hữu lấy dây buộc chúng lại. Làm như vậy, đạo hữu có thì giờ ngồi nghỉ và quản thủ được đàn bò một cách hiệu quả. Đàn bò 227 con ví như 227 điều luật, còn địa điểm cột bò ví như tác ý tránh xa. Một khi đã có tác ý tránh xa thì không bao giờ phạm giới. Một thí dụ khác:
+ Đối với tư pháp thì có rất nhiều điều khoản liên quan Hình Hộ dân chúng làm sao thuộc hết nhớ đủ. Thế mà đã có đa số từ nhỏ đến già, từ sống đến chết không hề vi phạm. Tại sao? Vì tâm hồn họ Thiện lương và công bằng. Khi con người có tâm hồn thiện lương và công bằng thì nhất định không bao giờ vi phạm luật quốc gia, dù luật lệ ấy quá nhiều, quá phức tạp.
Để bày tỏ sự hoan hỷ và lòng ngưỡng mộ anh ta kể cho thầy nghe về những sự kiện liên hệ cuộc sống vật chất và tình cảm. Thì ra cuộc đời anh ta cũng vô phước, vô phần như thầy vậy. Nhất là cuộc sống tình cảm thì quá ư gần gũi. Có thể nói được rằng, quá khứ của hai người tuy hai hình ảnh nhưng là một cuộc đời.
Hiện tại thì thầy đã vùng vẫy thoát thân có hiệu quả, trong khi anh ta chưa đủ yếu kiện điều phục. Hơn nữa, cuộc sống hiện tại của anh ta cũng không lấy gì làm phấn khởi. Anh ta cho thầy biết là không lâu sẽ di chuyển đi nơi khác lập nghiệp.
Nghĩ rằng câu chuyện có nhiều uẩn khúc, thầy tìm hiểu thì được biết như sau: Số là tại địa phương ấy, phần đông dân chúng đều nghèo và là tá điền của một địa chủ rất giàu có nhưng lại thiếu lòng nhân đạo. Tá điền phải chia đôi số lợi tức thu hoạch. Trúng mùa thì đủ ăn chớ không dư. Thất mùa chẳng những không đủ ăn, không có lúa đóng cho chủ mà còn phải vay lúa chủ để ăn là khác. Do đó dù không muốn, suốt đời tá điền vẫn là nô lệ, nô lệ đến đời con, đời cháu. Chính anh ta cũng lâm vào tình trạng cay nghiệt ấy. Anh ta van vái cho vụ hè thu được thu hoạch tốt và sau khi đong lúa trả nợ cho chủ, anh ta sẽ di chuyển đi nơi khác ngay.
Nghe rõ sự tình, thầy Thiện Duyên cảm thấy xót thương anh ta vô hạn. Bụng bảo dạ: “bằng mọi cách, phải trả nợ giúp anh này”. Đêm ấy hai người nằm ngủ với hai ý niệm khác nhau. Thầy Thiện Duyên thì quyết tâm tiếp độ anh ta trong khi anh ta thì phải dứt khoát ra đi. Vấn đề còn lại chỉ là thời gian tính.